Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử đ...

Tài liệu Skkn giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường trung học phổ thông.

.PDF
73
24
107

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: GIÁO DỤC LÒNG YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUỲNH THÚC KHÁNG MÔN: LỊCH SỬ NGHỆ AN - 2020 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: GIÁO DỤC LÒNG YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRUYỀN THỐNG NHÀ TRƯỜNG TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUỲNH THÚC KHÁNG MÔN: LỊCH SỬ Người thực hiện: NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG Tổ bộ môn: Xã hội Điện thoại: 0919.555.157 NGHỆ AN - 2020 MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 1 PHẦN II. NỘI DUNG ......................................................................................... 4 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................ 4 1. Khái niệm lòng yêu quê hương nước .......................................................... 4 2. Tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước ............... 5 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN................................................................................... 6 III. NHỮNG YÊU CẦU CHUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ................................ 8 1. Yêu cầu chung ............................................................................................. 8 1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục lòng yêu quê hương với lòng yêu đất nước..................................................................................................... 8 1.2. Đảm bảo tính toàn diện, tính khoa học..................................................... 9 1.3. Đảm bảo tính sư phạm ............................................................................ 10 1.4. Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung kiến thức lịch sử địa phương với mục đích giáo dục của nhà trường .......................................................... 10 2. Một số biện pháp cụ thể............................................................................. 11 2.1. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương ...................................................................................... 11 2.2. Sử dụng thơ, tư liệu, câu chuyện lịch sử địa phương để làm phong phú bài học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương cho học sinh ................ 20 2.3. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp .. 25 2.4. Giáo dục truyền thống trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng.... 31 3. Kết quả đạt được ........................................................................................ 33 PHẦN III. KẾT LUẬN ..................................................................................... 34 1. Kết luận...................................................................................................... 34 2. Kiến nghị ................................................................................................... 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 36 PHẦN PHỤ LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam đã được hình thành suốt hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nổi trội hơn cả là tinh thần yêu nước. Theo giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm, tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của dân tộc ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương, gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo dục con người có lòng yêu quê hương, đất nước. Trong thời kỳ hội nhập phát triển, vấn đề hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại là một trong những vấn đề các nhà trường đều quan tâm coi trọng. Khi học sinh được bồi dưỡng, giáo dục tốt về truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa… sẽ giúp các em được phát triển toàn diện, là nền tảng không thể thiếu để bước vào cuộc sống. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam… bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt trong đời sống xã hội của Việt Nam. Ngành giáo dục không thể đứng ngoài cuộc. Có rất nhiều ý kiến mang nặng sự lo lắng, trăn trở về những thách thức hiện nay mà ngành giáo dục đang phải đối mặt. Đâu đó vẫn còn tình trạng học sinh vi phạm nội quy, thiếu lễ độ với người lớn, thầy cô giáo, ham chơi, thờ ơ vô cảm hoặc phai nhạt lý tưởng, đặc biệt là tình trạng bạo lực học đường gây nên sự bức xúc lớn trong dư luận xã hội. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục truyền thống cùng những đạo lý về đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn… là vô cùng quan trọng trong nội dung giáo dục của các nhà trường để hình thành nên phẩm chất cho những chủ nhân tương lai của đất nước. Làm sao để sau khi ra trường mỗi học sinh đều phải có lý tưởng đẹp, có 1 tình yêu Tổ quốc, yêu quê hương và lòng tự hào tự tôn dân tộc, phát triển về trí tuệ và thể chất, kỹ năng sống tốt, năng động, sáng tạo, là nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp tích cực vào sự phát triển của thủ đô, đất nước, hướng tới công dân toàn cầu. Nhà văn Nga Ilia Erenbua đã từng chia sẻ rằng: “Lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những vật tầm thường, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu cái thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Điều đó suy rộng ra, muốn giáo dục cho các em lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào thì đầu tiên phải giáo dục tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương, yêu những gì thân thương gần gũi nhất”. Bởi lẽ, trong trái tim mỗi người dân Việt, dù ở nơi đâu trên hành tinh này đều luôn mang trong mình tình cảm sâu nặng, sắc son, thủy chung đối với nơi “chôn rau cắt rốn”, “nơi quê cha đất tổ”, nơi sinh ra, nuôi dưỡng ý chí, chắp cánh ước mơ và giúp ta khôn lớn trưởng thành. Khi nhắc đến việc giáo dục lòng yêu nước cho học sinh, nhà giáo dục Xô Viết Sukhomlinski đã viết: “Đối với mỗi con người chúng ta, Tổ quốc bắt đầu từ một cái nhỏ bé dường như không lộng lẫy lắm và không có gì nổi bật. Cuộc sống của mỗi chúng ta, vĩnh viễn đến hơi thở cuối cùng chứa đựng một cái gì đó duy nhất và không gì thay thế được như bầu sữa mẹ, như sự âu yếm của mẹ, như lời nói thân yêu. Đó là miền quê thân yêu của chúng ta, nơi thể hiện hình ảnh sinh động của Tổ quốc”. Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Dạy và học lịch sử địa phương không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất, con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền thống, trách nhiệm công dân mà còn nhận thức sâu sắc thêm lịch sử dân tộc, có ý thức phấn đấu, học tập tu dưỡng góp phần xây dựng quê hương giàu đẹp. Như vậy, giáo dục lòng yêu nước cho học sinh phải bắt đầu từ việc giáo dục cho các em nhận thức được tình yêu quê hương, đất nước, ý thức xã hội chủ nghĩa gắn chặt với nhau, tạo nên sức mạnh của con người Việt Nam trong thời đại mới. Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ bức thiết quyết định đến sự tồn vong và phát triển của dân tộc. Trong lĩnh vực giáo dục, nhiệm vụ này muốn hoàn thành tốt cần đến sự tác động tổng thể của tất cả các môn học, trong đó môn lịch sử giữ một vai trò quan trọng. Tuy nhiên những năm gần đây, thực trạng giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh trong môn Lịch sử ở trường phổ thông có rất nhiều bất cập, hiệu quả thấp. Học sinh đa phần ngán và sợ đối với môn lịch sử bởi sự hàn lâm, khô khan. Nhiệm vụ đó đòi hỏi nhà trường một mặt phải chuẩn bị tình cảm và năng lực để học sinh tham gia sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, mặt khác phải chú ý đến giáo dục các em lòng yêu quê hương, yêu những con người và truyền 2 thống tốt đẹp của địa phương có ý thức và năng lực sẵn sàng tham gia lao động sản xuất và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Giáo dục lòng yêu quê hương cho học sinh phổ thông được thực hiện thông qua các hoạt động của nhà trường nói chung, hoạt động giảng dạy các môn học nói riêng; trong đó việc dạy học lịch sử, hoạt động ngoài giờ lên lớp, đặc biệt là biết kết hợp giữa hoạt động ngoài giờ lên lớp với lịch sử địa phương. Đây là hoạt động có nhiều ưu thế hơn cả. Giảng dạy lịch sử địa phương sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người ở địa phương trong lịch sử đấu tranh dựng nước và cứu nước, hiểu biết về các di tích lịch sử, di tích văn hóa, nghệ thuật và những kinh nghiệm lao động của nhân dân địa phương. Từ đó các em có nhận thức đúng đắn về cuộc sống của địa phương trong quá khứ và hiện tại. Trên cơ sở hiểu biết đó, xây dựng cho các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, thông minh sáng tạo; tự hào về những cảnh đẹp thiên nhiên bình dị và thơ mộng, tự hào về những phong cách sinh hoạt văn hóa mang bản sắc độc đáo của địa phương. Chính niềm tự hào đó làm cho các em gắn bó với mảnh đất quê hương, có ý thức bảo vệ và phát huy những truyền thống tốt đẹp vốn có của địa phương một cách tự giác. Như vậy, nghiên cứu giảng dạy lịch sử địa phương cần được tiến hành một cách thường xuyên với nội dung, phương pháp phù hợp sẽ giúp ích rất nhiều cho việc giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ, kích thích được lòng yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc. Xuất phát từ thực tiễn dạy học, từ chủ trương đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục của Đảng và vai trò, vị trí của môn Lịch sử, tôi lựa chọn đề tài: “Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. 3 PHẦN II. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Khái niệm lòng yêu quê hương nước Từ xưa đến nay, tình yêu quê hương đất nước là sợi chỉ đó xuyên suốt trong các tác phẩm văn học từ cổ kim đông tây. Ta đã bắt gặp “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đến Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và hoàn thiện phát triển tới “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bác Hồ đã từng nói, lòng yêu nước của nhân dân ta giống như một làn sóng nhấn chìm lũ bán nước và lũ cướp nước. Đó là hào khí của dân tộc, càng ngày càng qua các thời kì lịch sử tinh thần yêu nước và tinh thần tự hào, tự tôn của dân tộc Một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt từ xưa đến nay chính là truyền thống yêu quê hương, đất nước: “Cá quen sông, chim luyến tổ, con người sao không yêu quê hương”. Yêu quê hương, đất nước là tình cảm tự nhiên của con người ở bất cứ dân tộc nào chứ không riêng gì ở Việt Nam. Song ở Việt Nam tình cảm ấy trở thành ý thức, tư tưởng, và cao hơn là chủ nghĩa yêu nước. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là “nguyên tắc đạo đức về chính trị mà nội dung là tình yêu, lòng trung thành, ý thức phục vụ Tổ quốc. Xã hội nguyên thủy đã có mầm mống của chủ nghĩa yêu nước, dựa trên tình cảm máu mủ giữa các thành viên của thị tộc hay bộ lạc. Từ khi xã hội nguyên thủy tan rã, tình cảm tự nhiên gắn bó với quê hương, tiếng mẹ đẻ, các truyền thống… kết hợp với nhận thức về nghĩa vụ của người dân đối với cả cộng đồng xã hội đã được thiết lập. Cùng với sự hình thành dân tộc và nhà nước dân tộc, chủ nghĩa yêu nước từ chỗ chủ yếu là một yếu tố trong tâm lý xã hội, đã trở thành hệ tư tưởng. Nó trở thành lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo vệ tổ quốc chống lại mọi cuộc xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước chân chính thể hiện ở lòng trung thành với tổ quốc vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân, bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc và đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước”. Đối với người dân nước ta, tình cảm đối với quê hương là thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp trở thành máu thịt, lẽ sống của con người “Quê hương mỗi người chỉ một, quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người”. Nhưng nếu nói thế thì dường như con người chỉ yêu quê hương thì phải. Thực ra tình yêu quê hương, tình yêu đất nước luôn quyện chặt với nhau không tách biệt. Nói đến quê hương là nói đến đất nước và ngược lại bởi trong lòng người Việt Nam thì quê hương và đất nước là một. Quê hương hay quê hương nhỏ chính là xóm làng, là nơi có cha mẹ, anh chị em, họ hàng, mồ mả ông bà, là nơi có mái đình, cây đa, bến nước. Là nơi có những gì gần gũi, thân thuộc nhất. 4 2. Tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế “Toàn cầu hóa”, mọi giá trị truyền thống đang bị thay đổi thì việc giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Tại Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học…”. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011/CT-TTG ngày 11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương, gia đình, tinh thần tự tôn dân tộc”. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo dục con người có lòng yêu quê hương, đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay, ngày ngày được cắp sách đến trường trong hoàn cảnh đất nước thống nhất, thanh bình, không có chiến tranh, kinh tế phát triển, đời sống no đủ. Chính vì vậy, các em chưa hiểu hết giá trị của những gì mà các em đang được hưởng thụ, các em có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với quá khứ, các em không hiểu được rằng để có được cuộc sống thanh bình hạnh phúc như ngày hôm nay, đã có biết bao mồ hôi xương máu của những người đi trước đổ xuống mảnh đất này. Thực tế trong xã hội hiện nay, do tác động của môi trường xã hội, một bộ phận học sinh, thanh thiếu niên đang bị suy thoái về đạo đức, sống không có lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, rất bàng quan với sự phát triển đi lên của đất nước, không thấy được vai trò vị trí của mỗi cá nhân trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Khi có một sự việc, vấn đề xảy ra trong xã hội thì không tự nhận định được vấn đề đó đúng hay sai, xử lý như thế nào, dẫn đến những hành vi thiếu đạo đức đáng tiếc. Đất nước Việt Nam là dải đất cong cong hình chữ S, chứa trong đó bao cảnh vật đặc sắc. Mỗi một vùng quê đều mang một màu sắc riêng với những địa danh, phong tục. lễ hội cho trẻ được khám phá, tìm hiểu. Ở đó còn có bao vị quê, là vị mặn mòi của biển, là mùi thơm rơm rạ, là mát ngọt bát chè xanh… Những hình ảnh giản dị, thân thương ấy cứ như dòng suối nhỏ, mát ngọt, là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm; trở thành cội nguồn sức mạnh của mọi suy nghĩ, hành động, sáng tạo trong mỗi con người. Thế hệ trẻ hôm nay đang lớn lên trong một thế giới hội nhập, thế giới của công nghệ thông tin đa chiều… tiếp xúc những nền văn hóa đa dạng nên nhiều học sinh, sinh viên sống trong thế giới ảo, vô cảm trước truyền thống văn hóa dân tộc, tình yêu quê hương, yêu gia đình… Chính vì thế giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho thế hệ trẻ luôn là việc làm cần thiết của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Nghệ An là vùng đất cổ, gắn kết hữu cơ với tiến trình phát triển của dân tộc. Với tinh thần cần cù trong lao động sản xuất và anh dũng trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân Nghệ An đã viết nên những trang sử vàng chói lọi, góp phần tô thắm lịch sử hào hùng của dân tộc. Nghệ An cũng là vùng 5 đất có bề dày văn hóa, truyền thống hiếu học và khoa bảng… Chính những điều đó đã tạo nên bản sắc riêng của con người và lịch sử Nghệ An. Bởi vậy, bên cạnh những những nội dung của lịch sử dân tộc thì nội dung của lịch sử địa phương, cũng góp phần quan trọng vào giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, đặc biệt truyền thống yêu quê hương, đất nước, giáo dục cho học sinh niềm tự hào về nơi “chôn rau cắt rốn” của mình, tự hào về dân tộc, về đất nước mình. Để từ đó các em có cái nhìn, ý thức đúng đắn về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng và giữ gìn các di sản văn hóa, di tích của địa phương. Do vậy, việc giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương là hết sức quan trong, cần thiết. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, tiền thân là trường Quốc học Vinh, được thành lập từ năm 1920 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là ngôi trường lâu đời và có bề dày truyền thống bậc nhất của tỉnh Nghệ An và có thể xếp ngang hàng với Quốc học Huế (miền Trung), trường Bưởi (miền Bắc) và Petrus Ký ở miền Nam. Trong suốt gần 100 năm qua, trường Quốc học Vinh Huỳnh Thúc Kháng chính là một phần quan trọng của lịch sử giáo dục Việt Nam, đã đào tạo hơn 50.000 học sinh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp kiến thiết, xây dựng và đổi mới của đất nước, là nơi đào tạo và trưởng thành của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, trong đó có những cán bộ lãnh đạo cấp cao của đất nước, các tướng lĩnh của quân đội, các nhà khoa học, nhà thơ, nhà văn, các nghệ sĩ nổi tiếng. Với bề dày truyền thống đó trường đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều Bằng khen, cờ thi đua của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân tỉnh Huân chương Lao động, Huân chương Độc lập và đặc biệt là trường THPT đầu tiên của Nghệ An được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Chính vì thế, việc học tập tìm hiểu về lich sử và truyền thống của nhà trường sẽ giúp học sinh hiểu, thêm yêu, thêm tự hào từ đó có thêm động lực phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để viết tiếp những trang sử vàng của nhà trường luôn là việc làm hết sức cần thiết và ý nghĩa. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN Trong các môn học ở bậc trung học, môn Lịch sử là môn học có “sở trường và ưu thế trong việc giáo dục truyền thống dân tộc, nổi bật là lòng yêu nước”, có vai trò quan trọng trong việc giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh. Thông qua những bài học lịch sử, đặc biệt là những trang sử dân tộc học sinh sẽ nắm được truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của cha ông trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là yếu tố để vun đắp nên nền tảng đạo đức truyền thống dân tộc cho các thế hệ học sinh. Để hiểu rõ thực trạng việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước trong giảng dạy lịch sử, chúng tôi đã tiến hành khảo sát đối với một số giáo viên dạy lịch sử trong tỉnh và học sinh các trường: THPT Hoàng Mai 2; THPT Tây Hiếu (Phiếu khảo sát ở Phụ lục). 6 Thu được kết quả như sau: Về phía giáo viên Câu hỏi khảo sát Thầy/ cô đã tiến hành việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương với tần suất như thế nào? Thầy/ cô có thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy của mình không? Thầy/ cô có thường xuyên hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa không? Thầy/ cô có tiếp cận thêm những phương pháp dạy học mới để giúp học sinh tích cực hứng thú hơn trong học tập không? Kết quả thu được về phía học sinh: THPT Huỳnh Thúc Kháng Câu hỏi khảo sát Có Không Em có thích học lịch sử 231/250 19/250 địa phương Nghệ An 92% 8% không? Theo em, trong trường THPT có cần thiết phải 240/250 10/250 giáo dục truyền thống 96% 4% yêu quê hương đất nước không? Trong giờ học Lịch sử, giáo viên của các em có áp dụng đa dạng các phương pháp dạy học 105/250 145/250 và sử dụng các phương 42% 58% tiện dạy học để giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước không? Theo em, để giáo dục truyền thống yêu quê 200/250 50/250 hương đất nước thì hoạt 80% 20% động ngoại khóa có quan trọng không? Em có thường xuyên tìm hiểu nhân vật lịch 80/250 170/250 sử và các sự kiện lịch 32% 68% sử diễn ra trên quê hương mình không? Kết quả khảo sát Thường Thỉnh Không xuyên thoảng bao giờ 15/25 60% 9/25 36% 1/25 4% 8/25 32% 7/25 28% 17/25 68% 16/25 64% 2/25 8% 13/25 52% 11/25 44% 1/25 4% 0 THPT Hoàng Mai THPT Tây Hiếu 2 Có Không Có Không 225/250 25/250 188/250 62/250 90% 10% 75% 25% 202/250 48/250 228/250 22/250 81% 19% 91% 9% 125/250 125/250 158/250 92/250 50% 50% 63% 36% 165/250 85/250 170/250 80/250 66% 34% 68% 32% 95/250 155/250 107/250 143/250 38% 62% 43% 57% 7 Như vậy, khi khảo sát thực tiễn dạy học ở các môi trường khác nhau như trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT Hoàng Mai 2, THPT Tây Hiếu; tôi nhận thấy đa phần giáo viên thấy được nhận thức đúng về tầm quan trọng và ý nghĩa của việc dạy học lịch sử địa phương, do đó đã chú ý nhiều hơn đến những tiết dạy phần lịch sử địa phương, kết hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy. Học sinh hiện nay rất năng động sáng tạo, thích khám phá và trải nghiệm… cơ sở vật chất của các trường đã có nhiều cải thiện. Đó là những thuận lợi trong việc áp dụng những phương pháp dạy học tích cực mới. Tuy nhiên công tác giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, những bất cập đó là: - Nhà trường chưa đặt đúng vị trí và chức năng của môn lịch sử trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông, hầu như chỉ tập trung vào các môn như Toán, Lý, Hóa… khiến học sinh có xu hướng coi nhẹ môn Lịch sử, không thích học môn Lịch sử dẫn đến chất lượng môn lịch sử hiện nay rất thấp kém. - Vẫn còn một số ít giáo viên và học sinh chưa chú ý đúng mức tới vai trò và ý nghĩa của việc dạy và học Lịch sử địa phương khiến cho nội dung dạy học lịch sử địa phương khô khan, không hấp dẫn làm cho hiệu quả giáo dục không cao. Không những vậy phương pháp dạy học buồn tẻ, truyền thụ một chiều, nặng về đọc chép là nguyên nhân góp phần làm cho học sinh không thích học lịch sử địa phương. - Lịch sử địa phương với rất nhiều nguồn tư liệu phong phú là cơ sở để người giáo viên có thể khai thác để giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước song việc giáo dục chỉ có thể thực hiện tốt và thực sự hiệu quả khi người giáo viên xác định đúng nội dung và phương pháp trong quá trình dạy học. Bởi vậy, hiệu quả của việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương còn hạn chế. III. NHỮNG YÊU CẦU CHUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1. Yêu cầu chung 1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục lòng yêu quê hương với lòng yêu đất nước Trong quá trình dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần chú ý đến mối quan hệ giữa lòng yêu quê hương và lòng yêu đất nước. Mỗi một địa phương là một bộ phận của Tổ quốc, vì vậy giáo dục lòng yêu quê hương cần kết hợp chặt chẽ với giáo dục lòng yêu nước. Giáo dục lòng yêu quê hương phải hướng lên giáo dục lòng yêu nước và ngược lại, giáo dục lòng yêu nước phải chú ý đến tình cảm với quê hương. Phải làm sao để bất cứ người dân ở vùng quê nào, khi Tổ quốc cần sẵn đi bất cứ nơi đâu để chiến đấu, để xây dựng, để bảo vệ dù cho 8 đó không phải là quê hương mình. 1.2. Đảm bảo tính toàn diện, tính khoa học Tính toàn diện được thể hiện ở chỗ đảm bảo cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản về lịch sử địa phương trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Để từ đó, các em có hiểu biết toàn diện về lịch sử, con người và truyền thống của quê hương mình. Tính toàn diện còn bao hàm cả ở việc rèn luyện, phát triển ở học sinh những kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nhằm hình thành cho các em năng lực, phẩm chất, vừa phát triển trí tuệ, tình cảm và ý chí, vừa phát triển lý luận và khả năng thực tiễn. Tính khoa học được thể hiện trong việc khai thác, lựa chọn nội dung kiến thức về lịch sử địa phương phải chính xác, tiêu biểu. Bởi chỉ có trên cơ sở lựa chọn, cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học, chính xác thì giáo viên mới có cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em. Từ Nhận thức  Tình cảm  Niềm tin  Hành động. Ở đây chúng ta cần khẳng định rằng những nội dung kiến thức lịch sử địa phương được cung cấp cho các em ở trường phổ thông đều phải là những kiến thức phản ánh sự tồn tại, phát triển của xã hội, lịch sử và con người ở địa phương đó. Điều này sẽ tạo nên trong đầu các em bức tranh chân thực về lịch sử, con người trên mảnh đất quê hương mình trong quá khứ. Nó có khả năng giúp các em hình thành thế giới quan khoa học, trong đó có sự thống nhất giữa niềm tin và hoạt động thực tiễn. Bên cạnh việc lựa chọn nội dung kiến thức chính xác thì tính khoa học còn thể hiện ở việc lựa chọn những nội dung cơ bản. Sự kiện cơ bản trong dạy học lịch sử địa phương là những sự kiện tiêu biểu nhất, cơ bản nhất của lịch sử địa phương mình. Không phải sự kiện nào được nói đến cũng mang ra dạy cho học sinh mà người giáo viên phải biết lựa chọn những sự kiện nào tiêu biểu, có ảnh hưởng tới tiến trình lịch sử địa phương đó. Ở đây chúng ta cần khẳng định rằng những nội dung kiến thức lịch sử địa phương được cung cấp cho các em ở trường phổ thông đều phải là những kiến thức phản ánh sự tồn tại, phát triển của xã hội, lịch sử và con người ở địa phương đó. Điều này sẽ tạo nên trong đầu các em bức tranh chân thực về lịch sử, con người trên mảnh đất quê hương mình trong quá khứ. Nó có khả năng giúp các em hình thành thế giới quan khoa học, trong đó có sự thống nhất giữa niềm tin và hoạt động thực tiễn. Để làm được như trên, người giáo viên phải có một vốn hiểu biết toàn diện, hệ thống và sâu sắc về lịch sử địa phương mình. Phải không ngừng tiếp thu, cập nhật kiến thức đồng thời rèn luyện khả năng sư phạm. Không những vậy tính khoa học của nội dung bài học còn được thể hiện ở việc đánh giá, giải thích để tìm ra bản chất mối quan hệ nhân quả, sự phát triển hợp quy luật của các sự kiện, hiện tượng lịch sử, khi giải thích, đánh giá phải đảm bảo nguyên tắc của phương pháp luận sử học: quan điểm lịch sử kết hợp thống nhất với quan điểm giai cấp, tránh “hiện đại hóa”, xuyên tạc, bóp méo sự 9 thật lịch sử. Nghĩa là khi xem xét, đánh giá một sự kiện nào phải thống nhất giữa tính đúng và tính khoa học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, vừa đảm bảo việc cung cấp cho học sinh kiến thức khoa học vừa có tác dụng giáo dục đối với học sinh. 1.3. Đảm bảo tính sư phạm Ngoài yêu cầu đảm bảo tính toàn diện, tính khoa học thì để thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT phải đảm bảo tính sư phạm. Từ đặc điểm nhận thức và tâm sinh lý của học sinh THPT nên khi tiến hành giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước trong dạy học lịch sử địa phương, giáo viên cần lựa chọn nội dung kiến thức lịch sử địa phương cho phù hợp với yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng và kỹ năng giáo viên cần tìm hiểu và phân loại kiến thức cho phù hợp với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc. Khi dạy lịch sử địa phương dù là trong bài nội khóa hay hoạt động ngoại khóa, giáo viên cũng phải chú ý đến thời gian học tập, giáo viên phải có kế hoạch sư phạm cụ thể, làm chủ kiến thức để cung cấp cho học sinh phù hợp với thời gian. 1.4. Đảm bảo sự thống nhất giữa nội dung kiến thức lịch sử địa phương với mục đích giáo dục của nhà trường Vì giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương được thực hiện thông qua các hoạt động của nhà trường trên cơ sở cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người ở địa phương, giúp các em hiểu biết về lịch sử đấu tranh anh dũng của nhân dân địa phương trong lịch sử đấu tranh của cả nước, hiểu biết về những di tích văn hóa, nghệ thuật và những kinh nghiệm lao động của nhân dân địa phương, từ đó các em có nhận thức đúng đắn về cuộc sống của nhân dân địa phương trong quá khứ và hiện tại. Trên cơ sở những hiểu biết đố xây dựng cho các em niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, thông minh sáng tạo của địa phương, tự hào về những cảnh trí thiên nhiên bình dị, về phong cách sinh hoạt văn hóa, mang bản sắc địa phương độc đáo. Chính niềm tự hào đó làm cho các em thêm gắn bó với quê hương, có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp vốn có của quê hương, đất nước. Trong dạy học lịch sử nhất là lịch sử địa phương có nhiều ưu thế để tiến hành giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh. Truyền thống đó được thể hiện trong nội dung, trong từng mục, từng ý của mỗi bài học lịch sử. Tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng bài học mà ta có thể giáo dục học sinh, ở bài này có thể là tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất chống ngoại xâm, bài kia là truyền thống lao động cần cù, bài khác lại là truyền thống yêu quê hương, đất nước… Trên đây là một số yêu cầu mang tính nguyên tắc khi giáo viên tiến hành 10 giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ thông. Thực hiện đúng lời dạy của Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Lịch sử đâu có phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử ghi lại, rồi người lịch sử đọc lại, người học lịch sử lại học thuộc lòng”, “dạy Sử là dạy yêu nước”. 2. Một số biện pháp cụ thể 2.1. Giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương Lòng yêu quê hương đất nước được hình thành qua một thời gian lâu dài của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh cũng phải bắt đầu bằng những câu chuyện kể lịch sử đơn giản từ thời tiểu học như: chuyện kể về cuộc đời Bác Hồ, về những tấm gương anh hùng: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Trần Quốc Toản... Ở bậc Trung học phổ thông, trong hầu hết các bài lịch sử dân tộc, giáo viên đều có thể khai thác, lồng ghép việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh. Bằng các sự kiện lịch sử chân thực, sinh động, những tấm gương anh dũng tuyệt vời của các anh hùng qua các giai đoạn lịch sử, những trận đánh quyết tử, những chiến thắng vẻ vang, những đóng góp vật chất lẫn tinh thần của những người đi trước để khơi dậy trong các em sự rung cảm mạnh mẽ về quá khứ, từ đó các em hiểu được rằng, để có được cuộc sống thanh bình, hạnh phúc như ngày hôm nay, đã có biết bao người ngã xuống trên mảnh đất này, giành giật từng tấc đất cho quê hương. Trong qua trình giảng dạy đối với những bài có liên quan đến các nhân vật lịch sử ở địa phương giáo viên dành thời gian để trình bày về các nhân vật lịch sử ở địa phương để qua đó giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em. Để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, học sinh trong việc dạy và học lịch sử địa phương, Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An đã biên soạn cuốn Một số chuyên đề lịch sử địa phương Nghệ An gồm 4 chuyên đề, trong đó chuyên đề 2 đã giới thiệu đầy đủ về tiểu sử và những đóng góp của Hoàng đế Mai Thúc Loan; Cương quốc Công Nguyễn Xí và Nguyễn Xuân Ôn. Song trong quá trình giảng dạy những bài lịch sử dân tộc, chúng tôi đã cố gắng lồng vào để giới thiệu thêm nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu khác của Nghệ An để tăng thêm tính sinh động của giờ học và giúp học sinh hiểu lịch sử địa phương sâu sắc hơn, từ đó tăng thêm hiệu quả của việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước. Những năm gần đây, chúng tôi đã sử dụng các phương án sau để giáo dục lòng yêu quê hương thông qua các nhân vật lịch sử điển hình của địa phương. 2.1.1. Phân công cho các nhóm học sinh tìm hiểu và sưu tầm các tư liệu liên quan nhân vật lịch sử mà các em sắp được học Sử dụng phương án này, sẽ phát huy được khả năng nghiên cứu, tập hợp tư liệu góp phần hình thành kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh. Qua đó, các 11 em không những tiếp nhận thông tin một cách chủ động mà còn rèn luyện được kĩ năng làm việc nhóm - đây là kĩ năng hết sức quan trọng vừa mang lại hiệu quả công việc, tiết kiệm thời gian công sức, bổ sung những khiếm khuyết cho nhau vừa rèn cho các em tính kỉ luật và ý thức trách nhiệm. Khi thực hiện phân công cho các nhóm học sinh, giáo viên cần lưu ý: - Tùy theo số lượng công việc để chia nhóm học sinh bao nhiêu em một nhóm (thường từ 5 đến 8 em). - Trong một nhóm nên có cả học sinh nam và nữ. - Học lực của các nhóm nên đồng đều nhau. Mỗi nhóm nên có cả học sinh giỏi, khá và trung bình, bởi mỗi học sinh có những thế mạnh riêng, điều này sẽ tạo điều kiện để các thành viên giúp đỡ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. - Để tránh mất thời gian của học sinh và nâng cao hiệu quả công việc, khi giao học sinh tìm hiểu nhân vật lịch sử nào giáo viên nên định hướng, giới thiệu cho học sinh nguồn tài liệu (từ sách, báo hay mạng internet, nếu từ sách, báo thì cần hướng dẫn học sinh tìm ở đâu…). - Giáo viên cần định hướng cho học sinh tìm hiểu, sưu tập những gì về nhân vật lịch sử được giao. Chẳng hạn: yêu cầu tìm hiểu về tiểu sử, sự nghiệp, những cống hiến cho đất nước, quê hương, mẫu chuyện, những lời đánh giá nhận xét và tranh ảnh… - Cử nhóm trưởng của các nhóm và yêu cầu nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho các thành viên (thư kí, người thuyết trình…). - Gợi ý cho học sinh cách trình bày sản phẩm: bằng sơ đồ tư duy, powerpoint… - Để công việc được giao đảm bảo tiến độ, giáo viên cần ấn định thời gian cho các nhóm. Sau khi học sinh báo cáo hay thuyết trình, giáo viên cần mời các nhóm khác nhận xét sau đó giáo viên đánh giá để rút kinh nghiệm cho lần sau. Giới thiệu một số ví dụ cụ thể: Khi dạy bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914) (chương trình Lịch sử lớp 11Ban cơ bản), giáo viên có thể giao nhiệm vụ và hướng dẫn cho một nhóm học sinh tìm hiểu về nhà Chí sĩ Đặng Thái Thân. Để tìm hiểu về Chí sĩ Đặng Thái Thân, tôi giao cho nhóm gồm 5 học sinh, trong đó có 2 học sinh nam, 3 học sinh nữ, 2 em có học lực loại giỏi, 3 em loại khá. Công việc được giao là tìm những nét chính về tiểu sử; những cống hiến cho lịch sử dân tộc, cho quê hương; tinh thần chiến đấu kiên cường của Đặng Thái Thân, những nhận xét của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng về Đặng Thái Thân. Do tài liệu về Đặng Thái Thân chưa phong phú, nên tôi 12 hướng dẫn học sinh tìm hiểu tại Thư viện tỉnh và khai thác trên các bài báo của Đảng và địa phương. Mục 1: Phan Bội Châu và xu hướng bạo động cùng với việc giới thiệu về Phan Bội Châu, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày phần việc đã được giao chuẩn bị trước về Đặng Thái Thân, giáo viên nhận xét đánh giá về sản phẩm của học sinh, sau đó giáo viên đưa hình ảnh Đặng Thái Thân và chốt lại: Đặng Thái Thân (hiệu là Ngư Hải), sinh năm 1873 tại làng Mỹ Chiêm (nay là xóm Phong Thái xã Nghi Phong, huyện Nghi Lộc) trong một gia đình nhà Nho làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Ngay từ nhỏ, Đặng Thái Thân đã nổi tiếng thông minh, hiếu học. Với học vấn uyên bác, ông từng thi đỗ đầu xứ nên gọi là “đầu xứ Đặng”. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Đặng Thái Thân đã sớm hình thành lòng căm thù bọn thực dân, phong kiến bù nhìn và khát vọng cứu nước, cứu dân. Ngay từ rất sớm, Đặng Thái Thân đã được tiếp xúc và trở thành người bạn thân thiết của chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu. Từ năm 1900 trở đi, chính Đặng Thái Thân là người đã tận tình giúp đỡ cho cụ Phan vào Nam ra Bắc tìm bạn đồng chí, tuyên truyền vận động yêu nước, gây dựng cơ sở quần chúng, tạo nguồn vật chất cho việc lớn sau này. Tháng 4 năm 1904, Đặng Thái Thân cùng với Phan Bội Châu và một số nhà yêu nước khác lập ra Hội Duy Tân, đề xướng phong trào Đông Du. Tháng 12 năm 1904, trong một cuộc họp tại Quảng Nam, Hội Duy Tân đã phân công Đặng Thái Thân nhận trọng trách lo chuẩn bị lực lượng trong nước. Ông đã phải lặn lộn khắp nơi để gây dựng lực lượng, giúp đỡ phong trào. Bên cạnh đó, ông còn tích cực vận động, lôi kéo những phần tử trong hàng ngũ địch. Chính ông là người đã trực tiếp vận động, tuyên truyền một Chánh suất đội phụ trách đội lính tập trong thành Nghệ An đem cả khí giới về với Hội Duy Tân. Ngày 1/3/1910, trong lúc về làng Phan Thôn (nay là xã Nghi Kim, TP Vinh) để hoạt động, do có kẻ chỉ điểm, Đặng Thái Thân đã bị giặc Pháp bao vây. Trước tình thế nguy cấp, để bảo vệ tài liệu mật và kiên quyết không để giặc bắt, Đặng Thái Thân đã bắn chết tên tay sai, hủy tài liệu mật và anh dũng tự sát. Lúc này, Đặng Thái Thân mới 37 tuổi. Cái chết oanh liệt của Đặng Thái Thân là một tổn thất to lớn cho tổ chức, cho phong trào, để lại lòng xót thương vô hạn cho đồng chí, đồng bào. Phan Bội Châu ghi về ông: “Đặng quân vốn người hăng hái gan dạ, nhân phẩm lại cao, trải mười năm vừa là thầy vừa là bạn tôi” (Ngục Trung Thư). Huỳnh Thúc Kháng đề cao ông: “Người khảng khái, trầm tĩnh, học vấn uyên bác, đởm thức hơn người; cái năng lực gánh nặng đi đường xa không lộ ra ngoài, không phải là người đồng chí tâm giao thì không ai biết là người thế nào. Cụ Sào Nam ở ngoài, sau Tây Hồ và Tiểu La bị đày, mà trong khoảng vài năm phong trào Đông học còn ảnh hưởng lừng lẫy không dứt, chính nhờ sức Ngư Hải. Trong miền Nam thì có Sơn Tẩu (Đỗ Đăng Tuyển) và Nam Xương (Thái Phiên). Từ khi Ngư Hải mất, cụ Sào Nam như mất cánh tay, cái dây liên lạc trong ngoài bị đứt đoạn” (Thi tù tùng thoại). 13 Như vậy, việc giới thiệu về Chí sĩ Đặng Thái Thân không những giúp học sinh hiểu biết thêm về một nhân vật lịch sử của địa phương mà còn giúp học sinh hiểu được tình đồng chí giữa Phan Bội Châu và Đặng Thái Thân, hiểu thêm về hy sinh của các ông vì sự nghiệp cứu nước cứu dân, qua đó tăng thêm tính giáo dục cho học sinh. Bài 15: Phong trào dân chủ 1936-1939 (chương trình Lịch sử 12- Ban cơ bản). Mục II Phong trào dân chủ 1936 -1939, mục 1: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7/1936. Giáo viên đưa ra các câu hỏi định hướng để học sinh tìm hiểu: 1. Em hãy trình bày những nét cơ bản về thân thế và sự nghiệp của đồng chí Lê Hồng Phong. 2. Công lao của đồng chí Lê Hồng Phong đối với cách mạng Việt Nam. Sau khi các nhóm trình bày sản phẩm của mình, giáo viên trình chiếu hình ảnh đồng chí Lê Hồng Phong - người chiến sĩ cộng sản tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, nguyên là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam, người học trò gần gũi và xuất sắc của Bác Hồ và chốt lại những ý cơ bản: Đồng chí có tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 6/9/1902, trong một gia đình nông dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Đồng chí Lê Hồng Phong mang sẵn trong mình lòng yêu nước, chí căm thù giặc và sớm giác ngộ rồi dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước, cứu dân. Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo, dẫn dắt, Lê Hồng Phong đã được học tập, rèn luyện rất toàn diện, bài bản cả về chính trị và quân sự, được Quốc tế Cộng sản tin cậy. Đồng chí có công lao to lớn trong việc khôi phục lại cơ quan lãnh đạo và các tổ chức cơ sở Đảng sau cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Sau khi về nước, trực tiếp cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng, khôi phục tổ chức Đảng, triển khai chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược khi tình hình thay đổi, đồng chí bị địch bắt, rồi đày ra Nhà tù Côn Đảo, tra tấn, hành hạ dã man cho đến lúc đồng chí hy sinh ngày 6/9/1942 khi tròn 40 tuổi. Với 40 tuổi đời, gần 20 năm hoạt động cách mạng, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong cùng các đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng và của dân tộc ta, để lại tấm gương sáng chói về đạo đức cách mạng, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập dân tộc, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, son sắt, thủy chung với bạn bè, đồng chí, lạc quan tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng. 14 2.1.2. Sử dụng các đoạn phim tài liệu lịch sử để giới thiệu nhân vật lịch sử Dựa trên cơ sở lý thuyết của khoa học thần kinh nhận thức, Jean Marc Dénommé và Madeleine Roy (2000) đã đưa ra một cách tiếp cận cơ bản - cách tiếp cận “Sư phạm tương tác”, trong đó chú trọng vào việc nghiên cứu sự tham gia của hệ thống thần kinh vào việc học. Theo quan điểm “Sư phạm tương tác” mỗi người có một “bộ máy học” bao gồm hệ thần kinh và các giác quan. Trong đó các giác quan được coi là cổng vào của tri thức. Càng nhiều giác quan tham gia vào quá trình học tập thì thông tin thu được càng nhiều. Vùng limbic có vai trò là “trung tâm hứng thú”, có thể chấp nhận hoặc loại bỏ thông tin mới. Do vậy để giúp học sinh học tập một cách hiệu quả giáo viên sử dụng các đồ dùng trực quan nhằm kích thích đa giác quan của học sinh và làm cho giờ học trở nên sinh động, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, học sinh không thể trực tiếp quan sát những sự kiện, hiện tượng đó, vì vậy việc nhận thức lịch sử là rất khó khăn. Tuy nhiên, học sinh có thể hình dung được quá khứ lịch sử qua các đoạn phim tư liệu - là loại phim được xây dựng dựa trên hình ảnh hoặc những thước phim ghi lại diễn biến sự kiện lịch sử tại thời điểm mà nó diễn ra. Do vậy, nó đảm bảo tính chính xác, chân thực của quá khứ. Âm thanh, hình ảnh sinh động của phim tư liệu lịch sử là phương tiện tác động đến thị giác, thính giác giúp cho quá trình thu nhận thông tin của “bộ máy học” dễ dàng hơn. Đây là một biện pháp hay, giúp các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn phương pháp đọc - chép truyền thống, có được những biểu hiện lịch sử chân thực, chính xác trong bối cảnh thời gian, không gian xác định ở những điều kiện cụ thể, qua đó giúp các em khôi phục được bức tranh quá khứ đúng như nó đã tồn tại, khắc phục hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử. Trên cơ sở đó, học sinh hiểu sâu sắc bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử và vận dụng vào cuộc sống. Khi tiến hành biện pháp này giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau: - Căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học giáo viên lựa chọn biện pháp sử dụng phim tài liệu lịch sử phù hợp nhằm đạt được hiệu quả dạy học. - Nội dung của phim phải bám sát nội dung bài học, thông tin do đoạn phim cung cấp phải đảm bảo độ chính xác, chân thực. - Thời lượng mỗi đoạn phim tuỳ theo dung lượng của bài học, các đoạn phim không nên quá dài. - Số lần sử dụng phim cho một tiết học không nên quá ba lần vì giáo còn phải kết hợp sử dụng các phương pháp khác. Hơn nữa nếu số lần xem phim quá nhiều dễ làm cho học sinh không tập trung vào nội dung bài học. - Các phương tiện kĩ thuật cần thiết để thực hiện giờ dạy có sử dụng phim tài liệu lịch sử là: máy vi tính, máy chiếu (Projector), màn chiếu. Trong trường 15 hợp không có các thiết bị trên chúng ta có thể sử dụng đầu đọc đĩa CD, màn hình vô tuyến cỡ lớn là có thể thực hiện được bài dạy. - Điều chỉnh ánh sáng trong phòng học, sắp đặt vị trí của máy chiếu, màn chiếu, loa sao cho hợp lí, đảm bảo mọi học sinh trong lớp đều quan sát được phim và nghe rõ được âm thanh. - Giáo viên phải định hướng nhiệm vụ học tập rõ ràng cho học sinh trước khi xem phim nếu không giờ học sẽ biến thành giờ xem phim giải trí. Giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu phim lịch sử trên internet hoặc các đĩa tư liệu dạy học lịch sử do nhà xuất bản giáo dục phát hành đảm bảo tính chính xác và khoa học. Sau đó giáo viên lưu file, sắp xếp theo bài học, khối học cho phù hợp để phục vụ nội dung giảng dạy. Việc sử dụng đoạn phim tài liệu khoa học trong dạy học lịch sử không chỉ làm phong phú thêm bài giảng, hạn chế tình trạng “thầy đọc - trò chép” mà còn giúp học sinh có cảm giác đang sống cùng và tham gia vào các sự kiện, hiện tượng lịch sử đó. Qua đó, hình thành ở các em lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, sự biết ơn đối với những người có công với đất nước, lòng căm thù sâu sắc đối với quân xâm lược… 2.1.3. Sử dụng phương pháp đóng vai nhân vật lịch sử ở địa phương Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định hay một nhân vật nào đó. Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được, giúp các em hiểu rõ thêm về nhân vật mà các em sắm vai. Phương pháp đóng vai có thể góp phần tạo ra những thay đổi tích cực trong cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh. Phương pháp này đã thể hiện được những ưu điểm nổi bật trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, gắn lí thuyết với thực tế, nâng cao khả năng thực hành cho người học và đáp ứng được các mục tiêu giáo dục mà Unessco đã đề ra, đó là “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”, phương pháp đóng vai cũng đáp ứng được tinh thần chỉ đạo mà nghị quyết Trung ương II (khóa VIII) đã chỉ rõ “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen nền nếp tư duy sáng tạo cho người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy học”. a. Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông * Đảm bảo mục tiêu giáo dục: - Về kiến thức: phương pháp đóng vai hay bất kì một phương pháp dạy học nào phải đảm bảo yêu cầu cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ 16 thông, cơ bản và hiện đại, sát với thực tế đất nước trên cơ sở đó sẽ là nền tảng để học sinh đi sâu tự nghiên cứu, tự khám phá ở bậc học cao hơn, phù hợp với năng lực và sở thích của từng cá nhân. - Về kĩ năng: Mỗi phương pháp dạy học phải đảm bảo rèn cho HS các kĩ năng tư duy như so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, đánh giá, khái quát hóa, trừu tượng hóa và các thao tác tư duy gồm tính quyết đoán, độc lập, mềm dẻo... phương pháp đóng vai là một phương pháp dạy học tích cực, càng có điều kiện giúp học sinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thông qua hoạt động nhóm, hoạt động “đóng vai”, ứng xử tình huống... Việc hình thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng và thao tác tư duy có vai trò rất quan trọng vì đây chính là phương tiện giúp học sinh tự mình khám phá tri thức khi rời nhà trường. Bên cạnh yêu cầu cung cấp kiến thức, phát triển trí tuệ thì phương pháp đóng vai phải đảm bảo yêu cầu giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho người học. Đặc biệt lịch sử là môn học có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đó là tình yêu quê hương, đất nước; tự hào, biết ơn về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo về đất nước của cha ông; trân trọng những giá trị văn hóa của đất nước... trên cơ sở đó có ý thức, trách nhiệm xây dựng, bảo vệ, gìn giữ những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của tổ tiên để lại. * Đảm bảo tính kế thừa và phát triển: Kế thừa những nội dung bài giảng đã học của học sinh, lấy những nội dung kiến thức mà các em đã được học làm nền tảng, làm cơ sở để tổ chức hoạt động. * Đảm bảo tính khả thi: - Khả thi về “kịch bản”: Kịch bản phải được xây dựng căn cứ vào mục tiêu, nội dung của bài học nhằm đảm bảo tính đúng lúc, đúng chỗ của việc sử dụng phương pháp dạy học; kịch bản phải có kịch tính để gây hứng thú, gây sự chú ý và mang tính thuyết phục cao về tư tưởng và hành vi; kịch bản phải có tính tích cực, mang lại hiệu quả giáo dục cao; kịch bản phải tôn trọng sự thật lịch sử. Đồng thời, giáo viên không thể bỏ qua khâu duyệt kịch bản trước khi để học sinh “diễn” trước lớp. - Khả thi về thời gian: Thời gian luôn là một yếu tố gây trở ngại với giáo viên khi vận dụng phương pháp đóng vai, đặc biệt là vận dụng phương pháp đóng vai trong giờ nội khóa. Do vậy, việc lựa chọn nội dung phù hợp để vận dụng phương pháp đóng vai là vô cùng quan trọng; khả thi về điều kiện vật chất, phương tiện hỗ trợ dạy học: phương pháp sẽ phát huy tối đa hiệu quả của nó nếu có sự chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ dạy học. Đặc biệt với các chương trình ngoại khóa ngoài phạm vi lớp học cần thiết phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, đầu tư chu đáo. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan