Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thpt qua bài học môn gdcd...

Tài liệu Skkn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thpt qua bài học môn gdcd

.PDF
20
109
134

Mô tả:

DANH MỤC VIẾT TẮT Danh mục được viết tắt Stt Nội dung 1 GD&ĐT Giáo dục và đạo tạo 2 THPT Trung học phổ thông 3 KNS Kĩ năng sống 4 GDCD Giáo dục công dân 5 SGK Sách giáo khoa 6 SGV Sách giáo viên 7 KTKN Kiến thức kĩ năng 8 HS Học sinh -1- MỤC LỤC NỘI DUNG Phần I: Mở đầu TRANG 3 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục đích nghiên cứu 5 3. Đỗi tượng nghiên cứu 6 4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6 6. Phương pháp nghiên cứu 6 7. Thời gian nghiên cứu 6 Phần II: Nội dung của đề tài 6 1. Cơ sở nghiên cứu đề tài 7 2. Thực trạng nghiên cứu đề tài 9 3. Quá trình và giải pháp thực hiện 10 4. Phương pháp thực hiện 12 5. Một số lưu ý khi thực hiện 13 6. Kết quả đạt được 14 7. Bài học kinh nghiệm 17 8. Kết luận 17 9. Kiến nghị, đề xuất 19 -2- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM HỌC: 2013 - 2014 ĐỀ TÀI GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT QUA BÀI HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN. I. Mở đầu: Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, hội nhập có không ít gia đình bố mẹ mải mê kiếm tiền nuôi gia đình không quan tâm đến việc giáo dục các con, bên cạnh đó tình trạng bùng nổ công nghệ thông tin cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục các kĩ năng cần thiết cho các em. Lứa tuổi học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại. 1. Lý do chọn đề tài: Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta nói chung và ở địa phương nói riêng hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ bên cạch những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơn….bên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào; mặt khác về phía nhà trường thì nội dung chương trình giáo dục đạo đức – -3- giáo dục công dân có bài còn nặng về lý thuyết, ít liên hệ với thực tiễn địa phương. Thực tế hiện nay một bộ phận lơn học sinh còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đắc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý trí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức. Vấn đề học sinh hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, bản thân đang là những càn trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc phụ huynh làm cha làm mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập. Vấn đề khác là tình trạng bạo lực học đường ngày càng tăng và có dấu hiệu lan rộng làm cho học sinh lo lắng làm thế nào để bảo vệ mình an toan khi đi học từ nhà đến trường khi có nhóm đối tượng xấu rình rập, ức hiếp những học sinh ngoan hiền…. nhiều học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, luôn đắm mình vào thế giới ảo của Internet của thế giới game…., mà quyên đi hoặc đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện khả năng tiềm ẩn của mình trước đám đông và ngoài xã hội. Trước những yêu cầu thiết thực trên bộ môn GDCD giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên, khi xem xét về phương diện nào đó thì vai trò của môn học này chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn có, đặc biệt GDCD lớp 12. Ở năm học cuối cấp, học sinh chịu nhiều áp lực bởi chương trình học nặng hơn cũng như lo lắng nhiều cho việc thực hiện ước mơ hoài bão bằng con đường thi cử. Các em đa số chú tâm, -4- giành nhiều thời gian cho những môn học mà tới các em sẽ thi tốt nghiệp và thi Đại học. Bộ môn GDCD thường bị các em coi nhẹ, “học đối phó để lấy điểm” . Vì vậy cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, của học sinh; mặt khác góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những công dân mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Các em học sinh lớp 10 mới bước chân vào môi trường học mới, môi trường cấp học THPT đặc biệt các em người dân tộc thiểu số phải trọ học xa gia đình thì các em chưa thực sự tự tin, còn rụt rè lúc này có những mối quan hệ xung quanh như: kết bạn, mối quan hệ giữa thày, cô, nhà trường và xã hội….. với các quan hệ phức tạp ấy, các em cần có những kĩ năng để tiếp cận trước những lôi cuốn của bạn bè xấu sẽ ảnh hưởng kết quả học tập về sau. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ môn GDCD trong việc giáo dục hình thành nhân cách học sinh cấp THPT, trong thời gian qua nhà trường đã tạo mọi cơ hội cho việc giáo dục đạo đức học sinh học chính khóa, ngoại khóa đã từng bước kịp thời uốn nắn các em. Tuy nhiên trong thực tế tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận học sinh hiện nay như: Lối sống buông thả, bạo lực học đường, sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội…. đây cũng là điều khiến tôi phải suy nghĩ trước quyết định viết sáng kiến này. Tôi xin trình bày những điều rút ra từ thực tiễn rất mong được sự chia sẻ của đồng nghiệp cùng đóng góp trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cấp THPT hiện nay. Với phạm vi đề tài tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây là ứng dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực khác nhau nhằm tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua giảng dạy bộ môn GDCD nhằm góp phần vào mục tiêu chung của trường 2. Mục đích nghiên cứu. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của -5- cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại. 3. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh trường THPT số 2 Bảo Yên. Năm học 2013 - 2014 4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu. Tích hợp nội dung về giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD trong trường THPT. Tập trung nghiên cứu tích hợp các kĩ năng cho học sinh gắn với thực tiễn đời sống, đáp ứng yêu cầu của xã hội. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. Giáo dục các kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống thường ngày cho học sinh THPT. 6. Phương pháp nghiên cứu. a. Cơ sở lý luận nghiên cứu: Các tài liệu liên quan phục vụ cho tích hợp giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh nói chung học sinh cấp THPT nói riêng. b. Phương pháp điều tra nghiên cứu: Kết hợp các phương pháp như tìm hiểu, nghiên cứu, nêu gương, điều tra phỏng vấn học sinh, phụ huynh học sinh và lấy ý kiến của các tổ chức đoàn thể trong trường. 7. Thời gian nghiên cứu: Với vấn đề nghiên cứu và vận dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân về giáo dục tích hợp KNS cho học sinh trường THPT được vận dụng trong một năm học 2012 - 2013. Trên cơ sở những kết quả đã thu thập sẽ phân tích tác động qua lại và tổng hợp một số kinh nghiệm trong việc tích hợp giáo dục KNS qua môn học cho học sinh trường THPT. II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI. -6- 1. Cơ sở nghiên cứu của đề tài. 1.1. Cơ sở pháp lý: Tài liệu giáo dục tích hợp kĩ năng sống. Các giá trị sống cần thiết trang bị cho học sinh. Các phóng sự, video về tích hợp giáo dục kĩ năng cần thiết. 1.2. Cơ sở lý luận: Thực hiện theo các văn bản hướng dẫn, quán triệt về việc giáo dục tích hợp cho học sinh. Nghiên cứu tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cần thiết cho học sinh cấp THPT. Giáo dục kĩ năng sống (KNS) là một nội dung quan trọng được thực hiện một cách có hệ thống trong nhà trường. Giáo dục KNS giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục KNS giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống. Môn GDCD ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, là một môn học có nhiều khả năng giáo dục KNS cho HS, điều đó được thể hiện: Nhiệm vụ và nội dung môn GDCD chứa đựng những yếu tố của giáo dục KNS, phù hợp với trọng tâm của giáo dục KNS là quá trình đối thoại, tương tác lẫn nhau, sử dụng vốn kinh nghiệm của người học để thực hành kĩ năng; phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống. Một trong những đặc điểm của môn GDCD là sự tích hợp nhiều nội dung giáo dục, trong đó có các nội dung giáo dục về các vấn đề xã hội. Vì vậy, việc tích hợp nội dung giáo dục KNS vào môn GDCD là điều có thể thực hiện và phù hợp với xu thế hiện nay. Việc giáo dục các chuẩn mực xã hội không thể chỉ xuất phát từ yêu cầu nhà giáo mà phải xuất phát từ quyền lợi và nhu cầu phát triển của học sinh. Giáo -7- dục KNS giúp học sinh có những kĩ năng thiết thực để sống an toàn, lành mạnh, có hiệu quả, do đó học sinh hứng thú học tập và lĩnh hội các chuẩn mực một cách chủ động, tự giác. Từ khả năng giáo dục KNS trong môn GDCD được xác định là hết sức quan trọng và cần thiết, mục tiêu giáo dục KNS trong môn GDCD cũng được xác định rõ ràng. Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT nhằm giúp học sinh: Hiểu được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân có thể sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần. Có kĩ năng làm chủ bản thân, biết xử trí linh hoạt trong các tình huống giao tiếp hằng ngày; có kĩ năng tự bảo vệ mình; rèn luyện lối sống có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và cộng đồng. Có nhu cầu rèn luyện KNS trong cuộc sống hằng ngày; ưa thích lối sống lành mạnh, có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh; tích cực, tự tin tham gia các hoạt động, có quyết định đúng đắn trong cuộc sống. 1.3. Cơ sở thực tiễn : Giáo dục và rèn KNS là một phạm trù rộng, tất cả các bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như: Đoàn thanh niên, Công đoàn, tổ chuyên môn và tất cả giáo viên, học sinh đều phải bắt tay vào thực hiện. Trong đó môn GDCD là môn học có nhiều khả năng để thực hiện nội dung này nhất. Vì hầu hết tất cả các chủ đề và nội dung bài học đều có thể lồng ghép các nội dung giáo dục KNS cho học sinh. Trong những năm gần đây, việc giáo dục học sinh trong nhà trường đã không bó hẹp ở việc giảng dạy , cung cấp tri thức văn hóa mà yêu cầu cần phải cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết về kĩ năng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt từ năm học 2011- 2012, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục tích hợp KNS vào các môn học và đã tổ chức tập huấn cho cán bộ giáo viên trực tiếp đứng lớp ở các cấp học và triển khai thực hiện nội dung này một -8- cách có hệ thống và đồng bộ. Và đây cũng là xu thế giáo dục chung của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên khi triển khai và tổ chức thực hiện giáo dục KNS nói chung và đối với môn GDCD nói riêng nhiều lúc giáo viên còn lúng túng khi lựa chọn kĩ năng thích hợp để giáo dục học sinh, việc điều tiết giữa nội dung bài học với các KNS cần giáo dục trong thời gian 45’ của một tiết học gặp nhiều khó khăn cho giáo viên có năng lực chuyên môn còn hạn chế. Từ những vấn đề nêu trên bản thân cá nhân tôi đã lựa chọn chuyên đề “Giáo dục KNS cho học sinh THPT qua bài học môn GDCD” 2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu: 2.1. Khái quát phạm vi: Ở các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Bảo Yên nói chung và xã Bảo Hà nói riêng cuốn theo nền kinh tế thị trường nhiều gia đình bố mẹ mải kiếm tiền quên mất trách nhiệm phải dạy con các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống vì thế các em thiếu các kĩ năng tối thiểu trong cuộc sống. Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại là hết sức cần thiết trong mỗi nhà trường. 2.2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu: Học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, điều đó sẽ giúp các em được rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Điều đó cũng giúp các em tăng cường khả năng tâm lí, có khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại. Chính vì bản thân được phân công trực tiếp giảng dạy môn GDCD rất rễ lồng ghép tích hợp với giáo dục kĩ năng sống cho các em trong việc các kĩ năng ứng phó với cuộc sống đời thường. -9- 2.3. Nguyên nhân của thực trạng: Nơi trường đóng tuy cách xa trung tâm huyện nhưng địa phương xã Bảo Hà là khu vực tâm linh phát triển vì vậy kinh tế địa phương phát triển, điều đó không ít gia đình bố mẹ mải mê kiếm tiền nuôi gia đình không quan tâm đến việc giáo dục các con, bên cạnh đó tình trạng bùng nổ công nghệ thông tin cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục. Lứa tuổi học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các. 3. Quá trình và giải pháp thực hiện: 3.1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh: Để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh cấp THPT thông qua bài học GDCD thì việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh là hết sức cần thiết, là khâu quan trọng quyết định sự thành công việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. a. Đối với giáo viên: Nghiên cứu kĩ tài liệu SGK, SGV và chuẩn KTKN để xác định đúng yêu cầu, mục tiêu bài học; Tìm hiểu rõ nội dung và địa chỉ giáo dục KNS trong từng bài học, từng phần, từng nội dung để xác định các KNS cơ bản cần được giáo dục học sinh. Hướng dẫn cụ thể, giao nhiệm vụ tới tận tay học sinh về yêu cầu của nội dung tích hợp giáo dục cho từng phần, từng bài học. Chuẩn bị kĩ các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc dạy và học của từng phần, từng bài. Cụ thể như: Tài liệu SGK, SGV, chuẩn KTKN. Máy tính, máy chiếu, bút dạ, giấy khổ lớn, phiếu học tập…. Các phim liệu, thông tin thống kê, tranh ảnh…. b. Đối với học sinh: - 10 - Học sinh phải biết và phải tìm hiểu thông tin liên quan đến nội dung bài học như: sưu tầm tư liệu, tranh ảnh (nếu có), tìm hiểu trước nội dung bài học để tạo sự chủ động trong việc tìm kiếm, xử lí và tiếp nhận thông tin, kiến thức cho các em trong mỗi bài học. Học sinh chủ động tâm lí sẵn sàng, tự tin khi tham gia hoạt động tìm hiểu kiến thức rèn kĩ năng, giải quyết tình huống hay tham gia vào các trò chơi qua đó các em có cơ hội tự rèn cho mình những kĩ năng cần thiết. 3.2. Giải pháp thực hiện: * Giải pháp 1: Nghiên cứu tài liệu chuẩn KTKN, xác định rõ mục tiêu bài học. Sau đó nghiên cứu nội dung bài ở SGK, kết hợp tham khảo hướng dẫn giảng dạy ở SGV... để định hướng kiến thức cần đạt qua một tiết học. * Giải pháp 2: Nghiên cứu tài liệu Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT để xác định những KNS cơ bản cần được giáo dục. Tham khảo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng tùy theo đối tượng và điều kiện dạy học cho phù hợp. Ví dụ: Qua bài học “Các cặp phạm trù cơ bản của đạo đức học” giáo viên đã xác định được các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục và các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng đó là: Các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục: Kĩ năng xác định, phân tích, so sánh biểu hiện của tự trọng, tự ái thiếu tự trọng. Kĩ năng xác định giá trị của sự tự trọng, thể hiện sự tự trọng... Kĩ năng tự nhận thức của bản thân về lòng tự tin, tự trọng. Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng: Thảo luận nhóm. Nghiên cứu trường hợp điển hình. Xử lí tình huống…. * Giải pháp 3: - 11 - Tiến hành soạn bài đáp ứng yêu cầu việc tích hợp giáo dục KNS cho học sinh. Khám phá: Kích lệ học sinh tự tìm hiểu xem các em đã biết những gì về bài học sắp tới; Ở bài học này chúng tôi cho học sinh tiếp xúc với một câu trong nhật ký Đặng Thùy Trâm giúp các em thể hiện được kỹ năng phân tích và trình bày. Kết nối: Giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo cầu nối liên kết giữa cái đã biết và cái chưa biết; HS được xem một đoạn video quà tặng cuộc sống về “Bài học về tự trọng” qua đó rèn luyện cho học sinh kỹ năng phân tích, quan sát và tư duy phê phán HS cùng nhau tiếp sức qua trò chơi để rèn luyện kỹ năng hợp tác… Thực hành: tạo cơ hội cho học sinh thực hành, vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống qua đó rèn kĩ năng vào cuộc sống thực tiễn. Vận dụng: Mở rộng và vận dụng kiến thức, kĩ năng có được vào các tình huống, của đời sống xã hội. Sau đó, tiến hành thiết kế bài giảng đáp ứng yêu cầu giáo dục KNS. * Giải pháp 4: Chuẩn bị đồ dùng dạy học đã được xác định trong phần chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Với việc xác định mục tiêu bài học theo chuẩn KTKN, xác định những KNS cần được giáo dục qua bài học, chúng tôi mạnh dạn tiến hành bài dạy theo các phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh phát huy tính tự giác, sáng tạo của học sinh để học sinh rễ tiếp thu bài học, đồng thời giúp các em hình thành và rèn luyện các KNS cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. 4. Phương pháp chủ yếu để thực hiện đề tài. 4.1 Phương pháp thảo luận nhóm: Khi dạy các em lựa chọn phương pháp thảo luận nhóm cùng trao đổi, nhận xét, phát hiện, bày tỏ ý kiến của mình về KNS của bản thân, của bạn của - 12 - mình… giáo viên đưa ra ý kiến của mình qua đó đánh giá hành vi đúng, sai của các em điều đó giúp các em mới nhớ rất lâu những nội dung đã từng thảo luận. 4.2 Phương pháp hồi tưởng: Ví dụ khi dạy bài 11 GDCD lớp 10 “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học”: Các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức. Cho học sinh kể lại những hành vi phạm trong cuộc sống thường ngày. Sau đó học sinh trình bày những quan điểm của mình. Giáo viên có nhiệm vụ liệt kê trên bảng, giáo viên nhắc lại những điều cần thiết trong cuộc sống, nhất là những em còn vi phạm cần rèn ngay. 4.3 Phương pháp đóng kịch: Cho các em đóng kịch thể hiện ngay trên sân khấu thông qua các buổi sinh hoạt tập thể. Từ đó các em được nhắc lại những các giá trị sống và các kĩ năng sống cần thiết trong đời sống. 4.4 Phương pháp trắc nghiệm: Như những các môn học khác trong một giờ học phải tạo cho các em hứng thú học tập, nên các giảng dạy môn GDCD tích hợp việc giáo dục KNS cũng phải phong phú đa dạng, theo hướng từ đơn giản đến phức tạp, các em có kĩ năng cần thiết và phải được hình thành từ thụ động đến chủ động, hướng dẫn các em từ từ không nên ép buộc các em phải nhớ ngay mà các em sẽ có kỹ năng dần trong các giờ thực hành ngoại khóa, hay từ những tình huống thật mà các em thường gặp phải. 4.5 Phương pháp nêu gương: Tuyên dương, phê bình kịp thời và thường xuyên các em rèn kĩ năng sống tốt trong các giờ học môn GDCD hay trong các buổi sinh hoạt tập thể, thực điều này sẽ giúp cho những học sinh thực hiện tốt luật giao thông đường bộ sẽ hình thành cho mình thói quen cơ bản nhất, ngược lại nếu học sinh nào thực hiện chưa tốt sẽ lấy bạn làm gương để thực hiện tốt hơn. 5. Một số lưu ý khi giáo dục KNS cho học sinh THPT qua bài học môn GDCD: * Thuận lợi: - 13 - Giáo viên giảng dạy bộ môn phải thực sự nhiệt tình yêu nghề; được tham gia các lớp tập huấn về các nội dung giáo dục KNS; luôn nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, tổ bộ môn trong suốt quá trình giảng dạy; BGH, tổ chuyên môn giáo viên cùng bộ môn luôn quan tâm, giúp đỡ động viên một cách kịp thời. HS có ý thức học tập luôn chăm ngoan tu dưỡng đạo đức và hứng thú với việc học tập và rèn luyện các kĩ năng trong cuộc sống. * Khó khăn: Tài liệu phục vụ giảng dạy và giáo dục KNS còn thiếu, chỉ mang tính định hướng nên giáo viên phải tự nghiên cứu, tìm tòi các thông tin, tài liệu khác để bổ trợ cho việc dạy - học và rèn kĩ năng cho cho học sinh. Áp lực về thời gian chỉ tổ chức được trong một tiết học 45 phút. Cơ sở vật chất tuy đã được đầu tư và cải tiến nhiều song nó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như lớp học thiếu không gian rộng để chia nhóm, di chuyển học sinh trong lớp học khi sử dụng phòng trình chiếu mất nhiều thời gian và gây ảnh hưởng các lớp học khác. Học sinh của trường chủ yếu là người dân tộc thiểu số ít vai chạm nên còn rụt rè, nhút nhát trong việc học tập và rèn kĩ năng trong cuộc sống. Trong nhận thức của học sinh, phụ huynh học sinh vẫn xem nhẹ, coi thương môn học GDCD, chỉ xem đây là một môn học phụ nên chưa thực sự chú tâm, đầu tư cho việc học tập. Tài liệu SGK phục vụ cho việc dạy học của giáo viên không phù hợp với thực tiễn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội. Học sinh cấp THPT là học sinh học từ lớp 10 đến lớp 12 được học rất nhiều về những đức tính tốt, các quy luật và các điều quy định của pháp luật ….nhưng vẫn còn nhiều hiện tượng học sinh vi phạm luật, điều này cho thấy sự vận dụng nội dung bài học vào thực tế đời sống của các em chưa cao, các em chưa có các KNS thích hợp trong xã hội. * Thực hiện: - 14 - Việc lựa chon và lồng ghép giáo dục KNS phải tùy thuộc nội dung vào từng bài học cụ thể và tình hình học sinh ở từng trường, từng địa phương khác nhau: Phạm trù về đạo đức học như Lương tâm, danh dự, nhân phẩm, tự trọng, tự ái, hạnh phúc….chúng ta có thể hình thành và rèn luyện cho các em những KNS sống như kỹ năng phê phán, thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự nhận thức…. Khi dạy các bài về chủ đề pháp luật thì chúng ta có thể giáo dục cho các em các kỹ năng: phân tích so sánh, tư duy sáng tạo, tìm kiểm và xử lý thông tin, kỹ năng kiên định, kỹ năng ra quyết định, kỹ thực hiện….. Khi dạy lồng ghép giáo dục KNS giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng liên quan đến nội dung bài học: 5.1 Rèn kỹ năng cho học sinh giải thích các khái niệm trước khi vào bài học: Giáo viên cần tìm hiểu kỹ các khái niệm liên quan đến nội dung bài học. Giao nội dung cho học sinh chuẩn bị cho tiết học sau, giáo viên yêu cầu học sinh chú ý trước một số khái niệm của tiết học sau. 5.2 Yêu cầu vận dụng khái niệm để giải quyết vấn đề: Sau khi hình thành khái niệm, giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng để giải quyết các tình huống trong phần Đặt vấn đề của Sách giáo khoa ở mỗi bài học. 5.3 Rèn kỹ năng tư duy, phê phán những hành vi sai trái: Đây là một việc làm thường xuyên trong các bài học môn GDCD. Tuy thuộc vào các nội dung cụ thể trong từng bài học, giáo viên đặt ra một số tình huống vi phạm các nội dung pháp luật hoặc trái với các chuẩn mực đạo đức đang học, cho học sinh trình bày những ý kiến đánh giá của mình đối với các hành vi đó, đặt học sinh vào tình huống đó và đề xuất hướng giải quyết vấn đề. 5.4 Rèn kỹ năng vận dụng nội dung bài học để làm bài tập: Sau khi nghiên cứu tìm hiểu xong phần nội dung bài học, yêu cầu học sinh vận dụng ngay để làm các bài tập. Phần này giáo viên có thể tách riêng làm - 15 - một mục trong nội dung bài học, sau khi đã tìm hiểu xong nội dung lý thuyết hoặc có thể kết hợp đan xen trong từng mục của nội dung bài học. 5.5 Rèn kỹ năng vận dụng nội dung bài học để giải quyết một số vấn đề thực tế: Giáo viên có thể sưu tầm một số tình huống trong thực tế của trường mình gần gũi với học sinh để yêu cầu các em đề xuất hướng giải quyết tình huống đó. Có thể yêu cầu học sinh tự liên hệ và tìm các tình huống có liên quan đến nội dung bài học để giải quyết. 5.6 Kỹ năng liên hệ và vận dụng của bản thân: Yêu cầu học sinh tự nhận xét ý kiến của nhau hoặc kiểm điểm bản thân. (Cần chú ý đối với các em thường làm trái với các nội dung chuẩn mực hoặc các quy định có trong nội dung bài học). 6. Kết quả: Việc chú trọng rèn luyện KNS cho học sinh vào nội dung các môn học trong đó có môn GDCD đã đem lại một số kết quả như sau: Học sinh có khả năng giao tiếp và trình bày trước tập thể của học sinh được tăng lên. Các em học sinh khá giỏi, thường tham gia các hoạt động tập thể thì đã đi vào độ chuyên nghiệp hơn, dám nhận một số công việc trong các hoạt động lớn của Đoàn thanh niên như dẫn chương trình, hùng biện, trình bày các vấn đề trước tập thể; đối với các học sinh còn hạn chế về nhận thức thì nay các em cũng đã mạnh dạn hơn, dám đưa tay phát biểu và trình bày ý kiến của mình trước tập thể…. Tỷ lệ học sinh vi phạm về đạo đức đã giảm khá rõ nét, không còn tình trạng học sinh vi phạm pháp luật ở địa phương, việc chấp hành nội quy học sinh cũng được thực hiện nghiêm túc hơn trước Học sinh hứng thú, say mê với bộ môn thích khám phá bày tỏ ý kiến của mình với từng tình huống đặt ra trong từng tiết học, nhờ vậy mà chất lượng bộ môn được tăng lên. Kết quả đạt được: năm học 2013 -2014 đạt tỷ lệ khá giỏi 82 % vượt tỷ lệ khá giỏi năm học 2012 - 2013 là 40% 7. Bài học kinh nghiệm: - 16 - Qua quá trình thực hiện nội dung lồng ghép giáo dục KNS ở trường THPT số 2 Bảo Yên, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm như sau: Việc giáo dục KNS không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện cho học sinh mà ngay cả với giáo viên thông qua nội dung bài dạy, các thao tác tổ chức dạy học cho học sinh thì đồng thời giáo viên cũng phải tích cực rèn luyện KNS cho bản thân để mỗi khi các em lúng túng thì các thầy cô giáo cũng kịp thời giải quyết trên tinh thần thân thiện.Thành công của một tiết dạy lồng ghép KNS đó là sự chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng, lựa chọn các KNS đưa vào bài dạy sao cho phù hợp, giáo viên phải luôn đặt niềm tin vào học sinh khi giao nhiệm vụ hay hướng giải quyết. Tất cả giáo viên dạy GDCD cần phải nắm chắc khái quát nội dung chương trình, các nội dung cần tích hợp liên quan đến từng bài dạy, từng tiết học cụ thể. Tích cực, chủ động sưu tầm các tình huống thực tế liên quan đến nội dung bài học và thật gần gũi thân thiết với học sinh, giúp các em dễ dàng liên hệ và vận dụng với bản thân trong xã hội. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần chú ý liên hệ với nội dung tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi đây cũng là một nội dung tích hợp trong chương trình giáo dục quy định hiện nay. Trong những lần sinh hoạt tổ chuyên môn, giáo viên cần tập trung vào sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học cần thảo luận, trao đổi những vướng mắc khi tổ chức một tiết giáo dục tích hợp rèn kĩ năng sống cho học sinh. 8. Kết luận: Dạy học gắn với việc giáo dục KNS cho học sinh là một việc làm cần thiết và có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoàn thiện nhân cách học sinh. Nó trang bị cho các em những kỹ năng cần thiết, vận dụng bài học vào thực tiễn, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, chủ động trong học tập để kết quả ngày càng cao hơn. Hơn nữa việc rèn luyện KNS cho học sinh được xác định là một nội dung cơ bản trong phong trào thi đua của trường THPT số 2 Bảo Yên“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Giáo dục KNS là yêu - 17 - cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ và là xu thế chung của các nước đang phát triển trên thế giới. Vì vậy, việc định hướng giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường nói chung và qua môn GDCD nói riêng cần được xác định rõ về mục tiêu, nguyên tắc, nội dung và phương pháp, kĩ thuật giáo dục KNS. Để làm tốt việc giáo dục KNS cho học sinh qua bài học môn GDCD, giáo viên cần không ngừng tự học, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các kĩ thuật dạy học trong điều kiện cụ thể để nâng cao hiệu quả giảng dạy, giáo dục KNS cho học sinh. Giáo viên cần tìm hiểu, xác định đối tượng học sinh của mình để có những phương pháp giáo dục KNS phù hợp và hình thành những KNS cần thiết cho các em. Ngoài ra, giáo viên nên định hướng cho các em một số hoạt động chuẩn bị cho bài học mới sau khi học xong bài để cho các em chủ động tự tin khi học bài mới và tham gia các hoạt động. Việc rèn luyện và giáo dục KNS cho học sinh là một vấn đề rất phức tạp, có quy mô lớn. Nó được thể hiện thông qua các tình huống cụ thể trong thực tế cuộc sống: Học để biết gồm các kỹ năng tư duy như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hiệu quả… Học làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin… Học để sống với người khác gồm các kỹ năng xã hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông… Học để làm: gồm các kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt ra mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm… Từ đấy có thể thấy rằng KNS bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả…Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. KNS được hình thành - 18 - thông qua quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Chính vì thế, KNS vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội, chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng và xã hội. 9. Kiến nghị, đề xuất: Bộ GD&ĐT cần thay đổi tài liệu sách giáo khoa, sách cho giáo viên cắt bớt phần giảm tải, cụ thể phần KNS, bài tập tình huống thực sự gần gũi với học sinh. Giáo viên giảng dạy bộ môn, cần tích cực trau dồi và rèn luyện các KNS cần thiết cho bản thân, vì hơn ai hết chính sự tự tin và khả năng giải quyết khéo léo mọi tình huống xảy ra trong thực tế giảng dạy và cuộc sống của giáo viên chính là những bài học tự nhiên và có hiệu quả nhất đối với học sinh vì “Mỗi giáo viên phải thực sự là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” Nhà trường cần đầu từ thêm các tài liệu về giáo dục KNS như: Từ điển GDCD, các video, bài tập tình huống gắn liền với đời sống hiện tại. Cần có những giải pháp để tuyên truyền trong học sinh và phụ huynh về tầm quan trong của việc giáo dục KNS để từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục. Trên đây là một vài suy nghĩ về việc làm của chúng tôi trong quá trình thực hiện chuyên đề: “Giáo dục KNS cho học sinh trường THPT số 2 Bảo Yên qua bài học môn GDCD” nhằm góp phần nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng mục tiêu dạy học chú trọng rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý từ quý cấp quản lí, các thầy cô giáo để chúng ta cùng nhau rút kinh nghiệm để việc tích hợp giáo kĩ năng sống qua môn học GDCD đạt hiệu quả cao! Tôi xin chân thành cảm ơn Bảo Yên, ngày 25 tháng 5 năm 2014 NGƯỜI THỰC HIỆN Vương Văn Kiên - 19 - TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Sách giáo khoa GDCD 10; 11; 12 ( Nhà xuất bản Giáo Dục) 2 Phân phối chương trình 10; 11; 12 ( Sở GD&ĐT Lào Cai) 3 Chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD 10; 11; 12 ( Bộ GD&ĐT) 4 Bài tập tình huống GDCD 10; 11; 12 ( Nhà xuất bản Giáo Dục) 5 Tài liệu giá trị sống ( Nhà xuất bản Giáo Dục) 6 Phương pháp dạy học tích cực ( Nhà xuất bản Giáo Dục) 7 Tài liệu từ các Website giáo dục - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan