Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn giáo dục kỹ năng sống 19 20 hoài...

Tài liệu Skkn giáo dục kỹ năng sống 19 20 hoài

.DOCX
11
21
76

Mô tả:

1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Đúng vậy, trẻ em là mầm xanh tương lai của đất nước, đất nước có lớn mạnh hay không là nhờ vào thế hệ trẻ em hôm nay. Vì vậy, việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bên cạnh đó, không chỉ dạy trẻ học chữ, học kiến thức mà phải dạy trẻ từ lời ăn, tiếng nói, cử chỉ, hành động, từ đó giúp cho trẻ có vốn kinh nghiệm sống để sau này lớn lên biết trải nghiệm trong xã hội một cách tự tin và biết hoà nhập với thế giới xung quanh một cách dễ dàng. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta hiện nay đang trên đà hội nhập Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Vậy nên, hiện nay thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực và có lối sống ích kĩ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn hóa của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay, là nhiệm vụ cần thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong thời đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức vẹn toàn. Nhằm giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, hoạt bát, biết giao tiếp, ứng xử với mọi tình huống xảy ra, có thể xử lý được những sự việc xảy ra một cách tế nhị trong quá trình trẻ học tập ở trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng cao. Giáo viên phải tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các bạn trong nhóm lớp. Tạo cơ hội để trẻ trải nghiệm, tương tác, giao tiếp với nhau: thảo luận, trao đổi, bày tỏ ý kiến, cảm xúc, giải quyết tình huống, chia sẻ kinh nghiệm... Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tự khẳng định bản thân, để trẻ phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt và đặc biệt là hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Là một giáo viên mầm non, sau nhiều năm thực tế trãi nghiệm tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi”, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non. 1.2. Điểm mới của đề tài: Điểm mới của đề tài là giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào dân tộc Bru Vân Kiều. Tùy theo tình hình đặc điểm của lớp, của nhà trường, của trẻ để giáo viên vận dụng và lồng ghép một cách phù hợp các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, nhằm giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài: Đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi”. Trước hết được áp dụng cho trẻ ở độ tuổi 5 – 6 tuổi trong nhà trường và sau đó áp dụng rộng rãi ở các đơn vị trường mầm non thuộc vùng dân tộc thiểu số. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu: Năm học 2019 – 2020 bản thân tôi được nhà trường phân công đứng lớp mẫu giáo lớn, tổng số 30 cháu. Các cháu đa số đều là con em dân tộc Bru Vân Kiều. * Đặc điểm tình hình của lớp Thực hiện kế hoạch huy động số lượng của nhà trường giao, lớp tôi tổng số là 30 cháu, tôi đã huy động đạt 100% số trẻ ngay từ đầu năm học. Trẻ phần đa là dân tộc Bru Vân Kiều. Vì vậy, phụ huynh vẫn còn xem nhẹ việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Nhận thức của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa được rèn luyện về kỹ năng sống nhiều, trẻ còn nhút nhát thiếu tự tin mạnh dạn, trẻ chưa biết cách tự bảo vệ, tự phục vụ và chưa biết xử lý một số tình huống khi gặp phải… Trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi - Được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lệ Thuỷ, của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện đầy đủ về cơ sở vật chất cũng như tài liệu, trang bị chuyên môn, kiến thức tạo điều kiện cho tôi được học hỏi bồi dưỡng chuyên môn, học tập tham quan ở các trường bạn. - Bản thân trực tiếp đứng lớp và chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5-6 tuổi tại trường. - 100% trẻ tại lớp cùng một độ tuổi và bán trú tại trường. - Môi trường lớp học thân thiện, trang trí theo hướng mở “Lấy trẻ làm trung tâm” cùng những đồ dùng, đồ chơi tự tạo ra giúp trẻ hứng thú hơn trong các giờ hoạt động. - Lớp học rộng rãi, sạch sẽ, thoáng mát, đa số trẻ đi học chuyên cần. - Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, năng động sáng tạo, có trình độ trên chuẩn, có ý thức học hỏi đồng nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng. - Một số phụ huynh của lớp rất nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ và phối kết hợp với cô giáo trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. * Khó khăn: - Đa số là trẻ em dân tộc thiểu số nên trẻ còn rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và không muốn tham gia vào hoạt động. - Đa số các bậc phu huynh làm nương rẫy, nên ít có thời gian quan tâm và có nhận thức chưa đúng đắn về việc học của con cái. - Việc giao tiếp bằng Tiếng Việt của trẻ còn hạn chế, trẻ đến lớp chưa chủ động mạnh dạn giao tiếp với cô, với bạn, chưa biết chào cô khi đến lớp và khi ra về. - Đa số trẻ trong giờ ăn chưa có thói quen mời cô, mời bạn trước khi ăn. Một số trẻ thích gác chân lên ghế khi ăn. - Một số trẻ chưa quen nề nếp, chưa có kỹ năng sống nên thường xuyên đánh bạn, thích chơi một mình. Vào đầu tháng 9, tôi tiến hành khảo sát để đánh giá về kỹ năng sống của trẻ 5 – 6 tuổi tại lớp tôi đang giảng dạy. Tôi đánh giá mức độ: Đạt, không đạt, để từ đó có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể: Đạt Mức độ nội dung khảo sát Số lượng Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ Số lượng % 1. Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 12/30 40% 18/30 60% 2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 10/30 33% 20/30 67% 3.Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng 10/30 33% 20/30 67% nhóm 4. Kỹ năng vệ sinh 12/30 40% 18/30 60% 5. Kỹ năng thích nghi 8/30 27% 22/30 73% 6. Mạnh dạn tự tin 9/30 30% 21/30 70% 2.2. Các biện pháp: Qua quá trình giảng dạy và khảo sát trẻ đầu năm học, bản thân tôi tìm tòi nghiên cứu và đã tìm ra một số giải pháp để áp dụng vào “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi”. Biện pháp 1: Cô giáo là tấm gương sáng cho trẻ noi theo Với thực tế quan sát và thu thập được, ở lớp tôi có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào cô, chào khách, chưa có kỹ năng ứng xử, chưa có kỹ năng tự phục vụ…Hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ ở lớp tôi chưa cụ thể và chưa được thực hiện một cách thường xuyên. Tôi nhận thấy kỹ năng sống chính là cái cốt lõi để giúp trẻ phát triển tự tin, thoải mái về mọi mặt, ứng xử linh hoạt về mọi điều xảy ra trong cuộc sống. Chính vì vậy bản thân tôi đã tự bồi dưỡng, học hỏi qua tài liệu, sách báo, bạn bè cũng như qua mạng internet, qua đó nắm vững được các phương pháp để dạy trẻ một số kỹ năng cơ bản nhất. Nắm bắt được tầm quan trọng và sự cần thiết của kỹ năng sống đối với trẻ. Vì vậy, tôi nhận thấy rằng điều đầu tiên và điều quan trọng nhất đó là chính giáo viên phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo, để trẻ học tập, để trẻ thấy được rằng cô giáo chính là một tấm gương sáng mà trẻ cần phải học tập. Cô giáo cần phải là một tấm gương mẫu mực về lời ăn, tiếng nói, về hành vi ứng xử, cách giải quyết tình huống… Đó là những yêu cầu mà đòi hỏi giáo viên phải rèn luyện, phải uốn nắn và phải cân nhắc kĩ trước khi nói và thực hiện hành động của mình trước mặt trẻ. Cụ thể như: Bản thân tôi đặt ra cho mình định hướng đúng đắn. Thực hiện nghiêm túc phong cách nề nếp của cô giáo: + Đầu tóc, ăn mặc: gọn gàng, lịch sự + Đi, đứng, ngồi: nhẹ nhàng, lịch sự + Đối xử, nói năng: nhã nhặn, âu yếm, khiêm tốn, đối xử với trẻ công bằng, vô tư, gần gủi thân thiện với trẻ + Giao tiếp: Chào hỏi, xưng hô lễ phép + Mẫu mực trong việc làm và sinh hoạt: Thực hiện nghiêm túc các giờ học tập và sinh hoạt của trẻ, không nói to, không cười đùa ầm ĩ, đến lớp đúng giờ và chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trước khi lên lớp… Bên cạnh đó tôi: - Luôn động viên và tin tưởng vào năng lực của trẻ. - Kiên nhẫn và có ý thức lắng nghe tâm tư của trẻ. - Kiên trì học tập, trau dồi kinh nghiệm cho bản thân. - Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ. - Sáng tạo, chủ động và tích cực trong việc tạo ra môi trường học tập tốt và bầu không khí thoải mái cho trẻ. Biện pháp 2: Tăng cường phát triển kỹ năng giao tiếp ứng xử đối với mọi người xung quanh. “Học ăn, học nói, học gói, học mở” là điều mà mỗi đứa trẻ sinh ra đều phải học hỏi để trưởng thành. Trên bước đường phát triển nhân cách điều này là không thể thiếu. Giao tiếp ứng xử là một trong những kĩ năng xuyên suốt chiều dài phát triển của một đứa trẻ. Việc giao tiếp ứng xử có hiệu quả giúp trẻ tự tin và khẳng định được bản thân của trẻ trước mọi người, vì vậy tôi luôn tạo điều kiện cho trẻ giao tiếp ứng xử với bạn bè, người lớn, tạo tình huống để giúp trẻ giải quyết các vấn đề trong giao tiếp hằng ngày. Vì vậy, tôi đã sưu tầm những bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội dung giáo dục về lễ giáo để giáo dục trẻ. Ví dụ: Bài thơ: Phải là hai tay Ngồi bên mẹ bé băn khoăn Đưa tăm sao phải đưa bằng hai tay Con ơi! Con hỏi rõ hay Cái tăm nhẹ lắm một tay được rồi Nhưng đâu chỉ nhẹ mà thôi Mà là lễ phép với người bề trên Hai tay kính mến đưa lên Là lòng con thảo cháu hiền hiện ra Đưa mời bố mẹ, ông bà Cái tăm hiếu thảo phải là hai tay (Nguyễn Huệ) Hay những bài thơ: “Ông và cháu, yêu bà, thương ông, bó hoa tặng cô, lấy tăm cho bà” giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng tốt. Ngoài ra tôi còn tạo ra các tình huống để trẻ tự giải quyết, cho trẻ tham gia các hoạt động đóng vai, diễn kịch. Bên cạnh đó, thông qua các tình huống xảy ra ngay ở lớp để giáo dục trẻ. Ví dụ: Trẻ giành đồ chơi của nhau hay trẻ đánh bạn trong giờ hoạt động góc, tôi đến bên hỏi trẻ lí do và sau đó gợi ý để trẻ có thể xin lỗi bạn và cho các trẻ khác nêu lên cách giải quyết của mình: + Nếu bạn giành đồ chơi của con thì con sẽ làm gì? + Nếu con có nhiều đồ chơi đẹp thì con sẽ làm gì? + Giành đồ chơi của bạn/ đánh bạn là hành vi đúng hay sai? Vì sao?... Qua đó, dạy trẻ biết thể hiện sự chia sẽ cùng nhau, biết yêu thương, đùm bọc bạn bè. Hoặc thông qua các bài thơ: Che mưa cho bạn, bạn mới, tình bạn… Tình bạn Hôm nay đến lớp Thấy vắng Thỏ Nâu Các bạn hỏi nhau Thỏ đi đâu thế? Gấu liền nói khẽ: “ Thỏ bị ốm rồi! Này các bạn ơi! Gấu tôi mua khế Khế ngọt lại thanh” “ Mèo tôi mua chanh Đánh đường mát ngọt Hươu mua sữa bột Nai, sữa đậu nành Chúc bạn khỏe nhanh Cùng nhau đến lớp Học tập thật tốt Xứng đáng cháu ngoan Trò giỏi kết đòan Thắm tình bè bạn (Trần Thị Hương) Qua đó, dạy trẻ biết quan tâm, yêu thương bạn bè khi bạn bị ốm nghỉ học, biết giao tiếp với nhau bằng nụ cười thân thiện, bằng tình cảm chan hoà, vui vẻ, thân mật, động viên, giúp đỡ nhau… Ví dụ: Khi bạn bị ngã thì trẻ sẵn sàng đỡ bạn dậy và hỏi han về bạn. Có đồ chơi đẹp chia sẽ cho bạn hoặc cùng nhau chơi Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động học hàng ngày. * Thông qua hoạt động làm quen văn học Thông qua các câu chuyện để trẻ đóng vai các nhân vật, biết học tập nhân vật tốt và không làm theo nhân vật xấu. Và thông qua các bài thơ các câu chuyện trẻ có thái độ đúng đắn đối với các nhân vật. Ví dụ: Truyện: Nhổ củ cải. Dạy trẻ kỹ năng hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ Truyện: Gấu con bị sâu răng. Dạy trẻ kỹ năng vệ sinh sạch sẽ Thơ: Tình bạn. Dạy trẻ biết yêu thương, quan tâm bạn bè Thơ: Lấy tăm cho bà. Dạy trẻ biết kính trọng lễ phép… * Thông qua hoạt động nghệ thuật Thông qua: Vẽ nặn, xé dán, ca hát… Qua đó trẻ sẽ bộc lộ được sáng tạo, khả năng nghệ thuật của mình thông qua các sản phẩm tạo hình. Từ đó giáo dục trẻ biết chia sẽ nguyên vật liệu tạo hình cùng bạn, biết giúp đỡ bạn khi bạn không làm được, hay biết phối hợp với nhau khi múa minh họa… Ví dụ: Vẽ người thân trong gia đình. Giáo dục trẻ biết yêu quý những người thân trong gia đình mình và biết vâng lời, kính trọng ông bà cha mẹ. Thông qua hoạt động dạy hát: “Chim vành khuyên”. Dạy trẻ biết vâng lời, chào hỏi lễ phép. * Thông qua hoạt động khám phá khoa học Thông qua các hoạt động khám phá khoa học, khám phá xã hội giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Ví dụ: Hoạt động: Trò chuyện về trường mầm non. Dạy trẻ biết đoàn kết, giúp đỡ bạn bè. Hoạt động: Tìm hiểu về gia đình bé: Dạy trẻ biết yêu thương, kính trọng, lễ phép Hoạt động: Tìm hiểu về các bộ phận trên cơ thể bé. Dạy trẻ kỹ năng vệ sinh cá nhân. Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động học. Ví dụ: Dạy trẻ kỹ năng chào hỏi lễ phép (ở chủ đề: trường mầm non) Dạy trẻ kỹ năng vệ sinh (ở chủ đề: bản thân)... * Thông qua hoạt động thể dục Tôi tổ chức cho trẻ thực hiện các vận động như: Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục đầu đội túi cát, chuyền bóng, bật qua vật cản, nhảy từ độ cao 45cm, ném trúng đích thẳng đứng, bò zíc zắc qua 7 điểm, đi nối bàn chân tiến lùi … qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động, biết bảo vệ sức khỏe. Thông qua các trò chơi vận động giúp trẻ biết đoàn kết, hợp tác với bạn trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ chơi của nhóm mình. Ví dụ: Trò chơi “Chạy tiếp cờ, chuyền bóng qua đầu qua chân” rèn cho trẻ kỹ năng hợp tác, phối hợp cùng bạn. * Thông qua hoạt động “Làm quen với toán” Bản thân tôi cho trẻ trực tiếp hoạt động với đồ vật tạo cho trẻ một không khí học tập thoải mái. Cho trẻ hoạt động nhóm để tạo ra kết quả học tập, bên cạnh đó rèn cho trẻ tinh thần hợp tác và làm việc nhóm hiệu quả qua các trò chơi tĩnh và trò chơi động. Biện pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động mọi lúc mọi nơi. Trong các hoạt động ở lớp tôi thường lồng ghép giáo dục và tạo cơ hội để trẻ có cơ hội rèn luyện các kỹ năng sống của mình. Ví dụ: * Trong giờ đón trả trẻ: Tôi trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giày dép, cặp sách đúng nơi quy định, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…Rèn thói quen chào cô, chào bố mẹ khi đến lớp và khi ra về. * Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: đi vệ sinh đúng nơi quy định, uống nước theo lượt nếu đông bạn… * Trong giờ ăn: Tôi giáo dục cho trẻ kỹ năng sống bằng cách hỏi trẻ về các món ăn, sau đó dạy trẻ mời cô giáo và mời các bạn trước khi ăn. Ăn từ tốn, không rơi vãi, không nhai nhồm nhoàm mất lịch sự. * Giờ ngủ: Biết vâng lời cô, ngủ theo dãy bạn trai, bạn gái, biết tự lấy và cất đồ dùng của mình đúng nơi quy định (giường, gối, chăn…) * Trong giờ hoạt động ngoài trời: Thông qua hoạt động ngoài trời tôi rèn cho trẻ thói quen biết lắng nghe người khác, biết chơi đoàn kết, chia sẽ đồ chơi cùng bạn... * Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì vậy tôi luôn uốn nắn và sửa sai ngay cho trẻ, đây là một việc làm thường xuyên, qua trò chơi giúp trẻ có mối liên hệ qua lại với nhau, trẻ thể hiện cuộc sống thực hàng ngày thông qua các góc chơi. Ví dụ: Ở góc phân vai, khi đóng vai làm người bán hàng người mua hàng: Trẻ biết chào hỏi khách lịch sự nhẹ nhàng, biết cách giao tiếp trao đổi với nhau. Chơi mẹ con, cô giáo, bác sỹ biết xưng hô lễ phép từ đó hình thành kỹ năng giao tiếp, hợp tác cho trẻ. * Giáo dục kỹ năng sống qua góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ Việc giáo dục trẻ có kỹ năng sống để ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày là một việc làm không phải ngày một ngày hai mà có, mà phải được thực hành hàng ngày, qua đó trẻ mới hình thành cho mình những kỹ năng sống để phục vụ trẻ hàng ngày, chính vì vậy tôi xây dựng kế hoạch tổ chức thực hành kỹ năng sống cho trẻ thường xuyên thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày như: Rửa tay bằng xà phòng, cách tự chải tóc, soi gương hàng ngày, cách tết tóc cho bạn gái, tự xếp gối chăn sau khi ngủ dậy, cách chải răng đúng cách, biết tực mặc áo quần, tự cài cúc áo.... Biện pháp 5: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Việc tuyên truyền cho phụ huynh để họ hiểu và có biện pháp phối kết hợp cùng cô giáo rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức cần thiết, chính vì vậy tôi đã thông qua các buổi đón, trẻ trẻ, họp phụ huynh, giữ mối liên lạc hàng ngày với phụ huynh, sưu tầm soạn các nội dung ở góc tuyên truyền về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, qua đó cùng với phụ huynh có các giải pháp giáo dục cho trẻ ở trường và ở nhà đạt hiệu quả cao. Ví dụ: Muốn trẻ tiến bộ hơn trong việc thực hiện thói quen rữa tay bằng xà phòng đúng cách, tôi phối hợp với phụ huynh và đưa ra các bước rữa tay đúng cách để phụ huynh nắm và về nhà rèn luyện cho trẻ. Hoặc trao đổi với phụ huynh về cách giao tiếp ứng xử phù hợp, đúng mực giữa các thành viên trong gia đình để trẻ noi theo. Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt, cấm đoán trẻ. Thay vì “Con không được làm thế này, thế kia” thì ta nên đưa ra các tình huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì sẽ phải làm như thế nào? Chính từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó giúp trẻ dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm mình đã có để tìm cách giải quyết. Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống khác trong thực tế hàng ngày mà trẻ gặp. Dần dầnhình thành cho trẻ những kinh nghiệm, những kỹ năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này. Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ trẻ. Nội dung giáo dục phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để cọ sát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, thực hành và áp dụng. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: - Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ. - Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa câu hỏi để trẻ tự tìm tòi. - Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình. - Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận và có thể đưa ra kết luận của mình. 2.3. Kết quả đạt được Với các giải pháp trên, tôi đã áp dụng thực hiện tại lớp mà tôi giảng dạy. Sau một thời gian áp dụng tôi thấy rằng trẻ đã có những tiến bộ rõ rệt, trẻ mạnh dạn tự tin và biết lao động tự phục vụ bản thân phù hợp với khả năng của mình. Số trẻ đạt được thể hiện ở các mặt như sau: Đạt Mức độ nội dung khảo sát Số lượng 1. Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 26/30 2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 24/30 3.Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng 25/30 nhóm 4. Kỹ năng vệ sinh 27/30 5. Kỹ năng thích nghi 24/30 6. Mạnh dạn tự tin 25/30 3. PHẦN KẾT LUẬN Tỷ lệ % Chưa đạt Tỷ lệ Số lượng % 87% 80% 4/30 6/30 13% 20% 83% 5/30 17% 90% 80% 83% 3/30 6/30 5/30 10% 20% 17% 3.1. Ý nghĩa của đề tài Việc nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng ở vùng dân tộc Bru Vân Kiều có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện về “đức - trí - thể - mĩ”, hình thành cho trẻ nhân cách con người, tạo điều kiện phát triển toàn diện cho trẻ. Để thế giới ngày mai được tốt đẹp hơn, con người sống có trách nhiệm, có sự tự tin, tự lập, người với người sống với nhau có tình, có nghĩa hơn… Chúng ta hãy bắt đầu dạy trẻ kỹ năng sống ngay từ bây giờ, ngay từ lúc này. Việc dạy trẻ kỹ năng sống bắt đầu từ những việc nhỏ nhất, gần gũi nhất với cuộc sống hằng ngày của trẻ và dần tạo cho trẻ các thói quen tốt. Đứa trẻ thích nghi được kỹ năng sống nhanh hay chậm, hình thành được lâu dài hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong việc dạy trẻ của mỗi chúng ta. Vì trình độ nhận thức và tiếp thu của mỗi trẻ khác nhau, hoàn cảnh sống từng gia đình mỗi trẻ không giống nhau. Vì vậy để thực hiện tốt việc này thì cha mẹ trẻ và giáo viên cần phải có biện pháp phù hợp, có lòng quyết tâm, sự bền bỉ, thường xuyên nỗ lực cố gắng, phải tận tâm, tận lực. Và phải luôn cố gắng là tấm gương để trẻ học theo. 3.2. Kiến nghị Để việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở trong trường mầm non nói chung và ở nhóm lớp 5 - 6 tuổi mà tôi phụ trách nói riêng được tốt, tôi có một số kiến nghị sau: * Đối với Phòng Giáo dục và đào tạo: Tăng cường tổ chức tập huấn cho giáo viên về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ với các nội dung gần gũi, thực tiễn và phù hợp với trẻ mầm non. * Đối với nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường cần thường xuyên tổ chức các sân chơi tập thể để trẻ có cơ hội giao lưu, hoạt động qua đó trẻ tự tin mạnh dạn hơn. - Tạo điều kiện cho giáo viên được học hỏi và bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. * Đối với giáo viên các lớp: Cần tự học, tự bồi dưỡng để hiểu đúng hơn về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Cần mẫu mực, là tấm gương để trẻ noi theo. Thường xuyên khuyến khích, tạo điều kiện để trẻ có cơ hội được rèn luyện kỹ năng sống qua các hoạt động. Cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. * Đối với phụ huynh: Phối hợp chặt chẽ với giáo viên và cùng giáo viên rèn luyện thêm ở nhà cho trẻ. Trên đây là một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 -6 tuổi trong trường Mầm non mà tôi đã áp dụng thành công trên trẻ. Tôi rất mong được sự quan tâm, chỉ đạo của BGH nhà trường và hội đồng khoa học cũng như sự góp ý của bạn bè, đồng nghiệp giúp tôi có những giải pháp hiệu quả và sáng tạo hơn. ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐT ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng