Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Lớp 9 Skkn giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt lớp 9 qua môn gdcd...

Tài liệu Skkn giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt lớp 9 qua môn gdcd

.DOC
16
335
122

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Phát triển giáo dục đào tạo gắn liền với nhu cầu phát triển của xã hội, những tiến bộ của khoa học công nghệ và cũng cố quốc phòng an ninh, thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học lý luận gắn liền với thực tiễn. Học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội. Để đáp ứng được với nhu cầu trong giai đoạn mới thì giáo dục phải đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người có đầy đủ những phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ. Trong đó giáo dục học sinh bậc trung học cơ sở giữ vai trò quan trọng vì ở lứa tuổi này các em chưa ổn định về tâm sinh lý, phát triển thể chất và thay đổi trong các mối quan hệ, hành vi, hành động. Thực tế giáo dục tại trường TH&THCS Tân Bình, huyện Như Xuân hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn những tồn tại gây bức xúc trong học đường và xã hội, đó là vẫn còn có một số học sinh học tập yếu kém, nhiều gia đình lo làm ăn không quan tâm đến giáo dục con cái nên dẫn đến một số học sinh vi phạm đạo đức, bạo lực học đường.v.v. Mặc dù các em cùng sống trong một môi trường giáo dục, cùng nhà trường cùng một lớp song không phải học sinh nào cũng có sự phát triển về năng lực, trí tuệ, đạo đức giống nhau. Số lượng học sinh cá biệt ngày càng gia tăng không chỉ làm ảnh hưởng đến các học sinh khác, ảnh hưởng đến nề nếp của nhà trường gây khó khăn trong việc quản lý học sinh, ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội. Đây là vấn đề được báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng đề cập rất nhiều và ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng vẫn chưa tìm ra được biện pháp giải quyết thoả đáng. Hiện nay các nhà giáo dục học, tâm lý học, xã hội học… và toàn thể xã hội đang nghiên cứu để tìm ra thực trạng của vấn đề này. Từ thực trạng trên, tôi đề xuất: “Một số kinh nghiệp giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt lớp 9 trong môn GDCD ở trường TH&THCS Tân Bình” góp phần uốn nắn những em học sinh chậm tiến bộ, cá biệt có nhận thức đúng đắn, nâng cao chất lượng học tập trong năm học 2017-2018 và những năm học tiếp theo. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Bước đầu tìm hiểu một số học sinh chưa ngoan và chậm tiến ở khối 9 trường TH&THCS Tân Bình . Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp kịp thời có hiệu quả trong học tập và rèn luyện uốn nắn các em trở thành người công dân tốt. - Rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu thái độ học tập và tư tưởng đạo đức của học sinh chưa chăm ngoan, chậm tiến ở trường TH&THCS Tân Bình, huyện Như Xuân .. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 1.4.1. Phương pháp quan sát, điều tra: - Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn về năng lực học tập của học sinh thông qua học bạ, sổ điểm, sổ liên lạc. 1 - Điều tra một cách khách quan không lựa chọn, không bắt buộc để thu thập các thông tin chính xác và sử dụng một số kết quả thu thập được sau khi điều tra. - Quan sát các em trong giờ học, giờ ra chơi để biết thái độ học tập của các em, cách ứng xử của các em với bạn bè, thầy cô. 1.4.2. Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò chuyện với học sinh qua việc tiếp xúc, nói chuyện với các em, đặt ra các câu hỏi có liên quan để tìm hiểu nhận thức của các em về học tập là gì? để cho các em trả lời đúng với suy nghĩ của mình. 1.4.3. Phương pháp trắc nghiệm: Dùng phiếu có ghi các câu hỏi và đáp án trả lời, trong đó có nhiều cách trả lời nhưng chỉ có một cách đúng nhất. 1.4.4. Phương pháp thực nghiệm: - Theo dõi, đánh giá xem học sinh có tiếp thu được bài không trong các tiết học. - Tác động đến đối tượng học sinh bằng việc khống chế thời gian, không gian như kiểm tra 15 phút, 1 tiết. 2 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Khái niệm - Học sinh chưa ngoan có thói quen lười biếng, quay cóp trong học tập, lừa dối cha mẹ, thầy cô, dọa nạt bạn bè, hay trốn học và lảng tránh các hoạt động tập thể. Những học sinh chưa ngoan có tính giảm sút phổ biến trong tất cả các lĩnh vực, trừ những lĩnh vực gắn liền với những nhu cầu trái với xã hội, trái với đạo đức: hay ngủ gật, lười chép bài, học bài, nhưng lại tỏ ra khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, với cha mẹ. Những em này hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, cha mẹ nhằm thỏa mãn những trò nghịch đã sắp sẵn trong đầu. Các em thường đánh mất lòng tự trọng và trở nên chai lì. Những học sinh này thường vi phạm nội quy, kỷ luật nhưng các em không dễ dàng nhận ngay mà phải sau nhiều lần vặn hỏi với đầy đủ những lý lẽ chứng cứ thì mới chỉ chấp nhận. Các em cho việc nói dối là bình thường. Ở các học sinh này uy tín của cha mẹ, thầy cô bị thay thế bằng uy tín của những kẻ cầm đầu, đại ca, chính vì điều này dễ đẩy các em vào cạm bẫy, bị sai khiến làm việc sai trái. Một trong những diều dễ nhận thấy ở học sinh này là cách nói năng, đi đứng, ăn mặc, hành động khác người, luôn tạo sự chú ý của mọi người. 2.1.2. Những nguyên tắc giáo dục Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan của những thành viên trong nội bộ nhà trường và thống nhất với phối hợp giáo dục giữa nhà trường và xã hội. 2.1.3. Các phương pháp giáo dục - Phương pháp thuyết phục: Là phương pháp tác động vào lý trí, tình cảm của học sinh để từ đó xây dựng những niềm tin đạo đức. - Phương pháp rèn luyện: Là phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em có được những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm thàn hành động thực tế. - Phương pháp thúc đẩy: Là dùng những tác động có tính chất « cưỡng bách đạo đức bên ngoài » để điều chỉnh, khuyến khích những động cơ kích thích bên trong của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN. Vấn đề học sinh chưa ngoan và chậm tiến, vô lễ với thầy cô giáo, gia đình, đang là nỗi băn khoăn trăn trở, bức xúc của nhà trường và xã hội. Đó là những học sinh có những biểu hiện không tốt trong học tập, hay quậy phá trong giờ học làm ảnh hưởng đến lớp. Thực chất các em rất chậm tiến trong học tập nên không hiểu bài dẫn tới chán nản thờ ơ, vào lớp tâm trạng mệt mỏi, học mang tính đối phó, không tham gia xây dựng bài học, ồn ào làm mất trật tự ảnh hưởng đến thành viên khác, có quan hệ không tốt với mọi người, thường giữ khoảng cách với bạn bè. Sau đây là danh sách một số học sinh chưa ngoan, chậm tiến của học sinh khối 9 trường TH&THCS Tân Bình: 3 Cụ nghiên cứu, biểu hiện sinh chưa chậm tiến ở sau: 2.2.1. TT 1 2 3 4 5 6 7 8 HỌ VÀ TÊN HỌC SINH Lương Ngọc Huấn Đoàn Văn Huy Hà Văn Lợi Đặng Văn Lượng Lê Viết Nhâm Trần Hữu Tuấn Nguyễn Ngọc Tú Lê Văn Thắng LỚP 9 9 9 9 9 9 9 9 thể tôi xem xét của học ngoan, các mặt Về học tập Học tập là một hoạt động chủ đạo của học sinh THCS, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển tâm sinh lý và nhận thức để hình thành và phát triển nhân cách. Để tìm hiểu học sinh có học lực yếu kém là đối tượng thường xuyên mắc lỗi trong học tập, do đó tôi đã theo dõi quá trình học tập, sổ điểm của lớp và đã trực tiếp gặp giáo viên chủ nhiệm trao đổi và đặt ra câu hỏi để các em trả lời. Nội dung điều tra như sau: Câu 1: Em thích học môn nào nhất? Vì sao? Kết quả: 4 em trả lời thích học môn Thể Dục nhất vì môn này học được thoải mái. 2 em trả lời thích học môn Kỹ Thuật vì không phải học bài cũ. 2 em trả lời thích học môn Mĩ Thuật vì bài tập dễ thực hiện hơn. Câu 2: Trong lớp khi cô giáo (thầy giáo) đang giảng bài, em thường: a. Chú ý lắng nghe, ghi chép bài đầy đủ. b. Nói chuyện, nghịch phá. c. Đôi lúc nghịch. Kết quả: TT HỌ VÀ TÊN HỌC SINH LỚP a b c 1 Lương Ngọc Huấn 9 X 2 Đoàn Văn Huy 9 X 3 Hà Văn Lợi 9 X 4 Đặng Văn Lượng 9 X 5 Lê Viết Nhâm 9 X 6 Trần Hữu Tuấn 9 X 7 Nguyễn Ngọc Tú 9 X 8 Lê Văn Thắng 9 X KẾT QUẢ (%): 50% 25% 25% Câu 3: Em học bài ở nhà trong thời gian bao lâu? Kết quả: Cả 8 em đều trả lời là học từ 2 tiếng chiếm 100%. Câu 4: Giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm có thường xuyên quan tâm đến em không? a. Có b. Thỉnh thoảng c. Không Kết quả: TT HỌ VÀ TÊN HỌC SINH LỚP a b c 1 Lương Ngọc Huấn 9 X 2 Đoàn Văn Huy 9 X 4 3 4 5 6 7 8 Hà Văn Lợi Đặng Văn Lượng Lê Viết Nhâm Trần Hữu Tuấn Nguyễn Ngọc Tú Lê Văn Thắng KẾT QUẢ (%): 9 9 9 9 9 9 X X X x 75% X X 25% 0% Câu 5: Ở nhà bố mẹ có tạo điều kiện nhắc nhở các em học bài không? a. Có b. Thỉnh thoảng c. Không Kết quả: TT HỌ VÀ TÊN HỌC SINH 1 Lương Ngọc Huấn 2 Đoàn Văn Huy 3 Hà Văn Lợi 4 Đặng Văn Lượng 5 Lê Viết Nhâm 6 Trần Hữu Tuấn 7 Nguyễn Ngọc Tú 8 Lê Văn Thắng KẾT QUẢ (%): LỚP 9 9 9 9 9 9 9 9 A X X b c X X X X X X 50% 50% 0% Câu 6: Em không đi học phụ đạo ? Vì sao? a. Không thích vì học yếu. b. Không có điều kiện. Kết quả: Có 4 em trả lời không có điều kiện vì nhà nghèo, còn 4 em trả lời không thích. Qua những câu hỏi trên tôi nhận thấy rằng các em một phần vì lười học, một phần do điều kiện gia đình làm nông nghiệp vì thế gia đình không có nhiều thời gian quan tâm tới con cái vì ngoài việc học các em còn phải lao động phụ giúp gia đình nên không có điều kiện đi học phụ đạo. Một số giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn chưa thực sự quan tâm tới các em học yếu. Mặc dù các em đã bắt đầu thích học nhưng do kiến thức bị hổng nên chưa tiếp thu bài đầy đủ hoặc do các em ham vui bị lôi kéo làm mất hứng thú học tập. Vì nhà trường có nề nếp nghiêm túc nên phong trào hoạt động của đội cờ đỏ tốt, các em học yếu thường xuyên học bài không đầy đủ bị trừ điểm thi đua của lớp, do đó giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp có nhiều hình thức kỷ luật nghiêm khắc nên các em hay né tránh, ít tiếp xúc với thầy cô, hơn nữa các bạn cán sự bộ môn thường xuyên kiểm tra bài tập về nhà, do vậy những em này tự tách riêng, cô lập trong tập thể. Các em do điều kiện gia đình làm nông, phải giúp đỡ gia đình nên thời gian giành cho học tập rất ít, hoặc một số gia đình mải buôn bán nên không có thời gian quan tâm tới con, không có đủ sách vở để tham khảo thêm. Vì vậy chúng ta phải tìm ra nguyên nhân để có biện pháp hợp lý răn đe giáo dục các em 5 trong việc học tập cũng như phát triển nhân cách. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường cùng giáo dục uốn nắn dạy dỗ các em để các em ý thức được rằng việc chính của các em là học. 2.2.2. Về đạo đức Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội nên nó chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội như hoàn cảnh lịch sử nền kinh tế. Đạo đức sẽ thay đổi để đáp ứng các yêu cầu của xã hội, của dân tộc, của cộng đồng và của giai cấp…. Bên cạnh đó đạo đức còn chịu ảnh hưởng của chính cá nhân con người đó. Bởi vậy bản thân tôi đã gặp trao đổi với giáo viên chủ nhiệm, phụ huynh học sinh và chính bản thân các em rồi đặt ra câu hỏi gợi ý để các em trả lời đúng suy nghĩ của mình. Câu 1: Em cảm thấy như thế nào khi bản thân luôn vi phạm kỷ luật và bị nêu tên trong các buổi chào cờ? a. Xấu hổ b. Bình thường c. Không quan tâm. Kết quả: 6 em trả lời câu a chiếm 75%. 2 em trả lời câu b chiếm 25%. Tôi thấy rằng phần lớn các em đều xấu hổ khi bị nêu tên, thầy cô và các bạn nhìn với ánh mắt khác. Tuy nhiên vẫn còn một số em đã quen với việc vi phạm kỷ luật nên trong buổi chào cờ việc nhắc nhở là bình thường. Đây có thể là những biểu hiện của học cá biệt, do đó cần phải có những biện pháp nghiêm khắc song phải nhẹ nhàng khuyên bảo để các em biết lỗi và nhận lỗi. Câu 2: Nếu em làm một việc gì sai trái mà sau đó em biết mình có lỗi với thầy (cô) giáo hoặc với bố mẹ thì em sẽ: a. Xin lỗi và hứa sẽ sữa chữa. b. Im lặng và cố gắng khắc phục. c. Biết mà vẫn thờ ơ. Kết quả: 2 em trả lời câu a chiếm 25%. 4 em trả lời câu b chiếm 50%. 2 em trả lời câu c chiếm 25%. Qua đó tôi thấy rằng các em biết nhận lỗi là điều tốt, đáng hoan nghênh. Tuy nhiên có em biết lỗi nhưng im lặng và cố gắng khắc phục, chúng ta cần động viên các em hơn. Bên cạnh đó vẫn còn có những em không hề quan tâm dù biết rằng mình có lỗi. Do đó, chúng ta cần phân tích cho các em thấy rõ lỗi của mình để sữa chữa. Câu 3: Giờ kiểm tra bạn em quay bài đạt điểm cao hơn em, em thấy thế nào? a. Cố gắng ở bài sau. b. Lần sau em sẽ quay như thế. c. Không quan tâm. Kết quả: 2 em trả lời câu a chiếm 25%. 2 em trả lời câu b chiếm 25%. 4 em trả lời câu c chiếm 50%. Như vậy vẫn còn những em rơi vào trường hợp c, đó là những em thờ ơ với chuyện học hành nên dù cho kết quả cao hay thấp các em không hề quan 6 tâm. Vì vậy việc cần thiết, cấp bách là phải tìm ra nguyên nhân cụ thể để có phương pháp phù hợp giúp các em tìm lại hứng thú học tập. 2.3. Một số giải pháp giải quyết thực trạng Trong thời gian nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm này, tôi không khỏi băn khoăn trăn trở trước học sinh chưa ngoan và chậm tiến về đạo đức cũng như học tập. Là những người làm công tác giáo dục, tôi tự thấy mình phải có một phần trách nhiệm trong vấn đề này. Mặc dù mới ra dạy chưa lâu, kinh nghiệm chưa có nhiều nhưng tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giáo dục để tạo cho các em có cách nhìn mới, có ý thức học tập nghiêm túc nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Cụ thể: 2.3.1. Tìm hiểu môi trường giáo dục (Gia đình – Nhà trường – Xã hội) - Đối với gia đình học sinh: Cần có sự quan tâm hơn nữa tới các em, chăm lo đến việc học tập và rèn luyện đến con em mình, thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt được kết quả học tập và rèn luyện của các em để kịp thời uốn nắn, sữa chữa những sai lầm và cần khen thưởng khuyến khích các em cố gắng hơn. Tạo điều kiện để các em tham gia vào hoạt động đoàn đội và những công tác xã hội khác ở địa phương để các em có cơ hội học hỏi được điều hay lẽ phải và có thái độ đúng đắn với những người xung quanh. - Đối với chính quyền địa phương: Quan tâm thiết thực đến việc giáo dục đào tạo của nhà trường, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc những hành vi, thái độ không tốt. Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt, giao lưu văn hoá, đem lại nhiều điều tốt cho các em, đồng thời tuyên truyền các vấn đề về xã hội và môi trường. Mặt khác cần dẹp bỏ những hàng quán trước cổng trường và không cấp phép cho những quán internet trong phạm vi bán kính 200 mét gần trường học. - Đối với nhà trường: Kết hợp chặt chẽ với gia đình, xã hội để theo dõi cụ thể từng học sinh từ đó có biện pháp ngăn chặn kịp thời những biểu hiện xấu. Xử lý nghiêm những vi phạm, khuyến khích nêu gương những em có thái độ học tập tốt. Cụ thể: - Đưa ra các nội quy chặt chẽ. - Thực hiện đôi bạn cùng tiến. - Phân loại học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu kém để dễ theo dõi và có biện pháp dạy cho phù hợp. - Phân bố chỗ ngồi hợp lý. - Trình lên Ban Giám Hiệu để có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh yếu kém. - Tổ chức, thực hiện tốt hoạt động ngoài giờ lên lớp ở tất cả các khối lớp nhằm thu hút, lôi kéo học sinh tham gia. - Tạo môi trường giáo dục thân thiện, thực hiện “ môi trường thân thiện , học sinh tích cực”. - Mỗi thầy cô giáo phải luôn là tấm gương sáng để các em noi theo. 7 - Giáo viên chủ nhiệm cùng với ban giám hiệu, giáo viên bộ môn vào thăm hỏi động viên cũng như tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng của từng em để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. 2.3.2. Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp Trong công tác chủ nhiệm, nếu làm đúng vai trò trách nhiệm thì người thầy phải bỏ ra nhiều thời gian, rất vất cả trong việc theo dõi, quản lý lớp. Đối tượng học simh rất quan trọng trong việc quyết định hiệu quả công tác chủ nhiệm, cũng như sự lựa chọn phương pháp của giáo viên chủ nhiệm. Do đó người giáo viên muốn làm tốt công tác của mình trước hết phải làm tốt công tác tổ chức lớp, thực hiện một số công việc sau: - Xếp chỗ ngồi: Giáo viên chủ nhiệm phải xem trước học bạ của từng học sinh trong năm học trước để nắm được học lực, hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp xếp chỗ ngồi nên chia đều những học sinh có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực trung bình , học sinh yếu . Nếu thấy trong lớp có những học sinh bị ghi trong học bạ là hạnh kiểm chưa tốt hoặc học sinh lưu ban nên xếp chỗ ngồi cho các em ở những dãy bàn đầu để tiện quan sát, theo dõi. Sau khi xếp chỗ ngồi xong giáo viên chủ nhiệm lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo dõi. Lưu ý: Nếu trong lớp đã có học sinh cá biệt thì không nên cho các em ngồi gần nhau. Không nên cho các em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham chơi, hay đùa giỡn thường thích ngồi gần nhau. Bầu Ban cán sự (BCS) lớp: Khi giáo viên chủ nhiệm lớp đã nắm được học lực, hạnh kiểm của học sinh sẽ lựa chọn những học sinh có đủ phẩm chất đạo đức để bầu làm lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó. Đây là vấn đề rất cần thiết để giao trách nhiệm cho ban cán sự lớp thay mặt giáo viên chủ nhiệm điều hành, quản lý lớp. Trong quá trình giao nhiệm vụ, nếu thấy trong ban cán sự lớp những học sinh nào không làm tốt sẽ thay bằng học sinh khác để tiếp tục quản lý lớp. Lưu ý: Tránh trường hợp học sinh không đủ năng lực nhưng giáo viên chủ nhiệm vẫn bắt buộc phải làm lớp trưởng hoặc lớp phó, từ đó làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập của các em và tạo điều kiện cho những mầm mống học sinh cá biệt xuất hiện. - Giáo viên chủ nhiệm xây dựng nội quy lớp: Ngoài việc giáo viên chủ nhiệm phổ biến cho học sinh biết về Nội quy nhà trường bắt buộc học sinh phải thực hiện bên cạnh giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng Nội quy riêng cho lớp để các em thực hiện. Có thể ở mỗi lớp giáo viên chủ nhiệm xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của lớp. Sau khi xây dựng xong nội quy lớp, giáo viên chủ nhiệm phổ biến trước lớp cho tất cả học sinh đều biết và thống nhất thực hiện. Sau đó giáo viên chủ nhiệm phát cho mỗi học sinh một bảng Nội quy và bắt buộc các em phải giữ bảng Nội quy này và thường xuyên mang theo trong suốt năm học để làm cơ sở xử lý học sinh vi phạm, nếu học sinh vi phạm nhẹ có thể bắt học sinh đọc lại bảng Nội quy trước lớp hoặc học thuộc bảng Nội quy... 8 Lưu ý: Giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò hết sức quan trong trọng việc rèn luyện, giáo dục học sinh, nên trong các buổi 15 phút đầu giờ giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên đến lớp để theo dõi tình hình. Bên cạnh tác phong của giáo viên chủ nhiệm cũng rất cần thiết như: đầu tóc, trang phục phải gọn gàng , lên lớp đúng giờ, những gì nói với học sinh thì phải thực hiện bằng được tránh tình trạng dễ giải qua loa, phải xử lý học sinh đúng quy định đã đặt ra dù cho học sinh đó vô tình hay cố ý vi phạm. Từ đó giúp học sinh học hỏi được phong cách, tác phong trước tiên từ người giáo viên chủ nhiệm lớp, làm các em càng kính trọng hơn. - Giáo viên chủ nhiệm khảo sát, theo dõi học sinh: Sau khi làm xong công tác tổ chức lớp,giáo viên chủ nhiệm tiến hành khảo sát để nắm được những thông tin có liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia đình của các em. Qua đó giúp giáo viên chủ nhiệm biết được hoàn cảnh từng đối tượng học sinh, trong số đó dễ dàng nhận ra được những học sinh sẽ rơi vào trường hợp học sinh cá biệt để kịp thời ngăn chặn, uốn nắn, biết được những học sinh nào có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến nguy cơ bỏ học cao để báo lên Hội khuyến học nhà trường kịp thời giúp đỡ. Sau khi nắm được những thông tin của học sinh, giáo viên chủ nhiệm sẽ phân luồng đối tượng, xem những học sinh nào có thể dẫn đến sa sút về học tập và sẽ trở thành học sinh cá biệt sau đó lập sổ để theo dõi dành riêng cho những đối tượng học sinh này. - Tiếp xúc với cha mẹ học sinh Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm giáo viên chủ nhiệm phải cố gắng nắm được số điện thoại liên lạc của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi giúp giáo viên chủ nhiệm trao đổi gián tiếp với cha mẹ học sinh khi cần thiết. Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi thông tin với cha mẹ của những học sinh cá biệt, đây là điều rất cần thiết, không thể thiếu đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Thông qua công việc này giúp giáo viên biết được các thói quen, sở thích, thái độ của học sinh thường biểu hiện ở gia đình. Qua đó giúp cha mẹ học sinh biết được tình hình học tập, những dấu hiệu sa sút của các em đồng thời giúp cha mẹ học sinh thấy được sự quan tâm của nhà trường đối với gia đình từ đó tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong việc giáo dục con cái của họ. Mối quan hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em, giúp các em giảm bớt tâm lý lo sợ khi tiếp xúc với giáo viên chủ nhiệm. - Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh Ngoài những thông tin mà giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu về học sinh cá biệt, bên cạnh cần phải tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết những đối tượng mà học sinh này đang chơi chung ,họ như thế nào. Có thể giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các học sinh khác trong lớp, thông qua phiếu khảo sát… Có những học sinh ít giao tiếp với bạn bè chỉ thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh khác trong lớp thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống trong môi trường đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường hợp nào. Giáo 9 viên chủ nhiệm có thể giáo dục các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp các em tự nhận thấy những khuyết điểm của mình để từng bước sửa chữa. Giaó viên chủ nhiệm nên gặp riêng từng học sinh để trao đổi, giải thích cho các em hiểu những sai trái của mình để các em có hướng khắc phục, không nên làm các em cảm thấy mặc cảm trước lớp. - Tạo sự gần gũi, quan tâm với học sinh Tạo mối quan hệ gần gũi là thể hiện sự quan tâm đối với các em, nhưng người thầy vẫn luôn giữ chuẩn mực, nghiêm khắc. Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em, nhằm để động viên, khích lệ tạo cho các em có được chỗ dựa tinh thần vững chắc. Để các em thấy sự quan tâm của người thầy như người cha, người mẹ của các em luôn dìu dắt, nâng đỡ các em khi vấp phải những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Khi học sinh nghỉ học, dù có phép hay không phép, dù bất cứ lý do gì những buổi học sau phải tiếp xúc để thăm hỏi các em, đôi khi cũng có những lý do khá đặc biệt người thầy có thể chia sẽ với các em, làm cho các em cảm thấy vui hơn khi được thầy cô quan tâm đến mình, từ đó những biểu hiện cá biệt dần dần biến mất. - Công tác phối hợp. Để giáo dục được những học sinh cá biệt, bản thân của mỗi giáo viên chủ nhiệm cần phải biết phối hợp kịp thời, linh hoạt với các bộ phận trong nhà trường. Như phối hợp với Tổ tự quản, cung cấp cho Tổ tự quan danh sách những học sinh cá biệt để kịp thời hỗ trợ trong việc theo dõi, nhắc nhỡ và xử lý những vi phạm của các em. Phối hợp với giáo viên bộ môn, thông qua đó giáo viên có thể theo dõi thái độ học tập của các em ở từng môn học để có hướng bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho các em về kiến thức. - Giao nhiệm vụ cho học sinh: Thường giáo viên chủ nhiệm không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng những học sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em mà chỉ luôn la rầy, nêu tên là chính. Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em hơn. Cho nên đối với những đối tượng này, giáo viên chủ nhiệm nên tạo cho các em một cơ hội để các em thấy được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của các em và nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao, tham gia làm báo tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chức…Khi hoàn thành nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp . - Rèn luyện học sinh tính trung thực Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó khăn thử thách, không nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó khẳng định là các em đã trưởng thành, phải chịu trách nhiệm trước công việc của mình làm, nếu có sai phạm phải tự nhận lấy, không đổ lỗi cho người khác. Từ đó giúp các em tự khẳng định được mình và các em sẽ đắn đo trước những công việc mà mình sắp làm nhằm hạn chế bớt những sai phạm. - Sinh hoạt chủ nhiệm 10 Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn các em từng bước tiến hành. Sau đó giáo viên chủ nhiệm sẽ là người kết luận cuối cùng. Đối với những trường hợp vi phạm cho các em tự báo cáo về mình dựa theo nội quy của lớp. (từng học sinh báo báo) Nội dung báo cáo Ngày vi phạm Số lần vi phạm 1. Đến lớp phải đúng giờ quy định. 2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp 3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào học. 4.Tác phong: quần....., áo …., đầu tóc …, giày dép …., phù hiệu. 5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống bằng chai, lon, bọc nylon vào phòng. 6. Giữ gìn vệ sinh phòng học. Không được nhả kẹo cao su xuống nền gạch. 7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế. 8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự trong giờ học. 9. Nếu nghỉ học, ngày sau đi học phải báo cáo với GVCN… 10. Đi học phải mang theo nội quy lớp. Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo không chính xác để giáo viên chủ nhiệm xử lý. Trong việc xử lý những học sinh vi phạm phải đúng người, đúng tội theo Nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp vị nễ, xử học sinh này nặng, xử học sinh kia nhẹ làm mất đi tính nghiêm khắc, công minh của người thầy. Những học sinh vi phạm phải chấp nhận hành vi vi phạm của mình. Điều này thông qua sự báo cáo của ban cán sự lớp phải thật sự chính xác công bằng. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học sinh đó phải thực hiện, giáo viên chủ nhiệm không bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được điều đó sẽ giúp cho nề nếp lớp học đi vào khuôn khổ nhất định, rèn luyện cho các em chấp hành tốt Nội quy trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học sinh có biểu hiện cá biệt tái phạm. Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, giáo viên chủ nhiệm cần phải có hình thức biểu dương, khen thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt thông thường vốn khó tính, khó dạy nếu giáo viên chủ nhiệm thiên vị lập tức sẽ có sự phản ứng ngược lại. Mỗi khi học sinh cá biệt làm được một việc tốt, đạt điểm tốt thì phải động viên khuyến khích các em nên tiếp tục phát huy. Nếu các em sai phạm thì cứ nhẹ nhàng xử lý như những học sinh khác, tránh nóng vội, kỳ thị để các em tự nhận lỗi và sửa chữa. 11 Sau khi thực hiện các giải pháp nêu trên, giáo viên chủ nhiệm có thể kiểm chứng kết quả xem các giải pháp có thể làm thay đổi thái độ học tập của học sinh cá biệt hay không. Có thể tổng hợp kết quả theo học kỳ và cuối năm học: Họ tên HS Các biểu hiện đầu năm Số lần vi phạm từng tháng Kết Số lần khắc quả Tháng 1 Tháng 2 Tháng … phục sửa chữa cuối năm 2.3.3. Giáo dục nâng cao đạo đức học sinh thông qua các bài dạy GDCD Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học Giáo dục công dân muốn thực hiện được tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Thầy là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học, học sinh phải được "phát ngôn" theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học, giúp học sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người tâm giao, có vướng mắc là các em hỏi ngay mà không ngại. Một số biện pháp cụ thể: - Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho bài giảng phong phú, sinh động, học sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu về bài học: Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính thời sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng internet, truyền hình… giáo viên phải lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho bài giảng. - Biện pháp nêu gương: Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về người thật, việc thật. Đồng thời cả gương xấu nếu có để học sinh tránh. Những tấm gương nêu ra phải được học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở lớp, ở trường, ở giâ đình,ở địa phương mình. - Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo đức, pháp luật, người tốt - việc tốt liên quan đến bài học giáo dục đạo đức: Biện pháp này giáo 12 viên có thể kết hợp với đoàn thoại - giáo viên chủ nhiệm lớp để học sinh được tập duyệt trong giờ sinh hoạt. Đồng thời những chủ đề lớn như "An toàn giao thông", "Phòng chống tệ nạn xã hội", “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” cần tổ chức trong các buổi chào cờ đầu tuần, hoạt động ngoại khóa, rất thiết thực đối với mỗi học sinh. 2.4. Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm Qua thực hiện các biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan trong năm học 2017-2018, bản thân nhận thấy số học sinh chưa ngoan đã có nhiều biểu hiện tích cực, Số ngày vắng học đã giảm, kết quả học tập có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể: Bảng so sánh mức độ tiến bộ của học sinh: + Bảng 1: Kết quả khảo sát năng lực học sinh đầu năm học Hạnh kiểm Học lực Tốt Khá T.bìn Yếu Giỏi Khá T.bình Yếu h 0 0 2 6 0 0 2 4 Kém 2 + Bảng 2: Kết quả sau khi áp dụng các giải pháp Hạnh kiểm Tốt Khá 2 6 T.bìn h 0 Yếu 0 3. Học lực Giỏ Khá i 0 0 T.bình 8 Yếu 0 Kém 0 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: 13 Trên đây là những suy nghĩ và một số ý kiến đề xuất về biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Những biện pháp này có thành công hay không đòi hỏi phải có lòng nhiệt tình, tận tuỵ với tinh thần trách nhiệm cao của những người làm công tác giáo dục. Để cảm hoá các em, định hướng cho các em đi đúng mục đích giáo dục, trở thành những người công dân có ích cho xã hội với đủ cả đức lẫn tài, đòi hỏi các nhà giáo dục phải có những biện pháp thích hợp. Như Bác Hồ đã nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì vậy, là một người giáo viên tôi hiểu và ý thức được rằng việc truyền đạt kiến thức và giáo dục đạo đức cho học sinh là một công việc khó, đang được toàn xã hội quan tâm. Tôi mong muốn và hy vọng rằng bản thân mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp trồng người của nước nhà, uốn nắn, đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo hội tụ đầy đủ cả đức lẫn tài để đáp ứng đủ nhu cầu của thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng với câu: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bên cạnh đó bản thân không ngừng trau dồi kiến thức lẫn tu dưỡng đạo đức, là tấm gương sáng cho tất cả học sinh noi theo. 3.2. Một số kiến nghị: 3.2. Những kiến nghị ,đề xuất: Để công tác chủ nhiệm đạt kết quả cao góp phần cùng với nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục hơn nữa, tôi xin kiến nghị , đề xuất như sau: - Đối với Ban Giám Hiệu: + Thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động giáo dục bổ ích trong nhà trường như vui chơi, giải trí để các em có được sân chơi lành manh, bổ ích như hội thi rung chuông vàng, vẽ tranh về bạo lực học đường, viết thư thăm hỏi các chú Bộ đội ngoài đảo xa , cắm trại, tổ chức các trò chơi dân gian , giao lưu văn nghệ giữa các trường học đóng trên địa bàn ... + Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thường xuyên. + Tổ chức hội thi viết bài về tấm gương sáng trong lớp, trong trường. + Tổ chức hội thi kể chuyện về những tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh trong trường. - Đối với gia đình: - Tạo điều kiện, quan tâm, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, động viên, chia sẻ với các em những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. - Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt được tình hình học tập của con em mình . Trên đây là những kinh nghiệm từ thực tế của bản thân tôi, chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi mong muốn được sự góp ý chân thành của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để kinh nghiệm này ngày càng hoàn chỉnh, cho tôi có thêm kinh nghiệm trong nghề dạy học của mình XÁC NHẬN Như xuân, ngày 18 tháng 04 năm 2018 CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. 14 Đặng Xuân Lĩnh 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/Phương pháp dạy học tích cực – Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục 1995 2/Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2011. 3/Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, NXB Đại học sư phạm 2010. 4/Thông tư 58/TT-BGDĐT, ngày 12/12/2011 về việc ban hành quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và THPT. 5/ Kỷ năng quản lý lớp học hiệu quả ,NXB Đại học quốc gia Hà Nội . 6/ Giáo dục kỹ năng phòng chống bạo lực học đường và tệ nạn xã hội cho học sinh THCS- Phạm Thanh Hà ,NSB Đại học quốc gia Hà Nội . 7/ Thực hành kỹ năng sống 6,7,8,9 - Lưu Thu Thủy , NSB Đại học sư phạm 8/ Phạm Thị Hải Anh, Thanh Thủy, “ Giáo dục đạo đức cho học sinh”, “Giáo viên chủ nhiệm – Chiếc cầu nối đa chiều”, nguồn Giáo dục và Đào tạo online. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan