Phần 1:
MỞ ĐẦU
Trẻ em có rất nhiều niềm vui, hạnh phúc và một trong những hạnh phúc lớn
nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một
thế giới mới rộng lớn mênh mông sẽ mở ra trước mắt để các em nô đùa khám phá và
chiếm lĩnh.
Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Vì vậy dạy chữ
chính là dạy người, đặt nền tảng nhân cách đầu tiên của quá trình giáo dục. Những
vấn đề đó luôn được các nhà sư phạm quan tâm, trăn trở và tích cực tìm tòi, lựa chọn
những giải pháp tốt nhất cho chất lượng và dần được xã hội đúc kết “nét chữ nết
người”. Thực tiễn giáo dục đã khẳng định vai trò công cụ của môn học Tiếng Việt ở
bậc Tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng mà chữ viết là một bộ phận không thể tách
rời trong quá trình dạy học.
Với tầm quan trọng như thế nên trong quá trình dạy học giáo viên luôn chú
trọng và tìm tòi nhiều giải pháp tốt nhất để rèn kỹ năng đọc, viết cho các em. Điều đó
đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục.
I/Lí do chọn đề tài:
Tri thức luôn được nhân loại trân trọng đón nhận và làm giàu thêm mỗi ngày,
do đó việc dạy học những kiến thức đầu tiên như dạy đọc và dạy viết được cho trẻ
luôn được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp công, góp
sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết. Tuy vậy,
nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình học tập của các em.
Bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng và lớp 1 là lớp nền tảng của bậc học
nền tảng này. Tiếng Việt là môn học công cụ, do đó dạy Tiếng Việt và tập viết
Tiếng Việt là chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở ra cánh cửa bước
vào tương lai, để các em tiếp nhận, vận dụng và đóng góp tri thức vào kho tang
tri thức nhân loại trong suốt quá trình học tập và lao động. Không thể trông chờ
gặt hái những gì mà ta không gieo trồng, chất lượng dạy học phụ thuộc rất nhiều
yếu tố, trong đó người dạy là yếu tố chủ đạo. Chúng ta cần những giải pháp phù
hợp, có biện pháp khắc phục khó khăn vướng mắc trong quá trình giảng dạy, sự
chuẩn bị chu đáo trong từng giờ dạy và nhất là phải kiên trì. Từ những cơ sở
khoa học của phân môn, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và những kinh nghiệm
trong thực tiễn giảng dạy tôi tiến hành rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 mà bản
thân đã và đang dạy.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Rèn chữ viết
cho học sinh lớp 1, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng “Vở sạch chữ
đẹp”.
II/ Phạm vi và đối tượng của đề tài :
1
Nghiên cứu thực trạng dạy tập viết và rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ở trường
Tiểu học Minh Thuận 1. Qua đó đưa ra những giải pháp, kinh nghiệm và sáng kiến để
nâng cao chất lượng dạy học tập viết – Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 để nâng cao
chất lượng “Vở sạch chữ đẹp”
III/ Mục đích của đề tài:
Hiện nay, chữ viết của các em học sinh tiểu học chưa được đẹp, chưa đúng
mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ
viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút - nhiều màu mực để viết bài nên còn
hạn chế trong việc giữ gìn “vở sạch - viết chữ đẹp”. Đây là một mảng quan trọng có
ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm. Nâng cao chất
lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp thì phong trào “vở sạch chữ đẹp” mới có chất lượng.
Từ thực tế giảng dạy và trao đổi với các đồng nghiệp, tất cả đều cho rằng phân
môn tập viết lớp 1 rất khó dạy nhất là những lớp vùng sâu, vùng xa học sinh chưa
được học mẫu giáo. Giáo viên nhận thức đầy đủ vai trò của phân môn này trong
chương trình học, từ đó phần lớn thầy cô giáo dạy đúng và đủ số tiết theo qui định.
Phương pháp dạy học cũng được thầy cô giáo chú trọng. Thế nhưng học sinh lớp 1
thường viết không đạt yêu cầu (theo chuẩn kiến thức kĩ năng), chất lượng ấy có cả
nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.
-Về mặt khách quan: Nhiều học sinh lớp 1 chưa được học mẫu giáo, nhất là
học sinh ở vùng sâu như xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng. Ngoài ra còn có học
sinh dân tộc, học sinh hoà nhập cùng học một lớp, từ đó việc hướng dẫn học sinh các
thao tác ban đầu mất rất nhiều thời gian. Nhiều phụ huynh học sinh ít quan tâm đến
việc học của con em mình, họ cho rằng việc dạy học nói chung và hướng dẫn học sinh
tập viết nói riêng là nhiệm vụ của giáo viên, của nhà trường.
-Về mặt chủ quan: Một bộ phận thầy cô giáo chưa chú ý đến quá trình rèn chữ
viết cho học sinh, hoặc chú ý ở giai đoạn đầu rồi về sau chỉ hướng dẫn các em thực
hành. Giáo viên chỉ chú ý đến viết được hay chưa được chứ ít chú ý đến viết đúng và
viết đẹp, vì họ cho rằng lớp 1 viết được cũng là một cố gắng lớn rồi, lên các lớp trên
học sinh sẽ được tiếp tục rèn luyện. Mặt khác nhiều giáo viên dạy phân môn tập viết
chưa tích hợp được với các môn học khác. Đó là một hạn chế cần phải tránh, vì lớp
Một là nền tản của bậc học Tiểu học. Nếu các em viết không đúng độ cao, độ rộng
của con chữ thì rất khó sửa chữa về sau.
Từ những bức xúc trên bản thân muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học
tập viết lớp 1 nên tiến hành khảo sát thực trạng dạy và học tập viết lớp 1, từ đó đưa ra
sáng kiến nâng cao chất lượng giờ dạy và chất lượng phân môn.
IV/ Những điểm mới:
Đề tài vận dụng kết hợp giữa các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng viết chữ đối với
học sinh lớp 1 và khả năng thực tế của học sinh ở lớp đang giảng dạy.
Giúp học sinh tự tin và hứng thú hơn trong việc học tập và thực hành viết chữ.
Nâng cao nhận thức về bảo quản vở sạch, chữ đẹp đối với các bậc phụ huynh.
Làm công cụ để các em học tập môn Tiếng việt và các môn học khác.
V/ Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của đề tài:
2
Đề tài chỉ ra các cơ sở khoa học và đặc điểm tâm lý lứa tuổi ở học sinh lớp 1, từ
đó vận dụng đúng quy trình, phù hợp với từng đối tượng học sinh để nâng cao chất
lượng dạy học tập viết ở lớp 1.
Qua quá trình thực hiện chỉ ra những thành công những hạn chế và nguyên
nhân của nó để phát huy cũng như khắc phục thực hiện. Và khẳng định, với cùng một
đối tượng học sinh chúng ta có thể cho ra kết quả dạy học khác nhau bởi quá trình
giảng dạy và giáo dục.
Phần 2:
NỘI DUNG
I/ Cơ sở lý luận:
1/ Đặc điểm bộ môn:
Tập viết là một phân môn của môn Tiếng việt ở bậc Tiểu học. Phân môn này
được học từ lớp 1 đến hết lớp 3. Cùng với các phân môn khác trong môn Tiếng việt
rèn luyện học sinh đọc thông viết thạo để làm công cụ học các môn học khác. Môn
tập viết ở lớp 1 có nhiệm vụ rèn chữ viết, đến cuối lớp 1 các em thực hành viết được
văn bản để học tập các phân môn khác và lớp tiếp theo. Với yêu cầu đó nên các em
cần phải viết đạt được cả về kiến thức lẫn kỹ năng.
3
Tập viết lớp 1 được dạy phối hợp với học vần, sau mỗi âm, tiếng, từ… đã học
các em được hướng dẫn thực hành viết. Ngoài việc tập viết khi học học vần, chương
trình còn dành riêng mỗi tuần 1 tiết (sau 2 tuần có 2 tiết tập viết dạy liền nhau), mỗi
tiết 30 phút để học sinh thực hành viết. Phân môn tập viết ở lớp 1 được chia làm 3 giai
đoạn:
-Giai đoạn 1 (1 tuần): Học sinh được làm quen với những thao tác chung của
quy trình tập viết. Luyện tập các thao tác như cầm bút, đặt vở, tư thế ngồi, xác định
dòng kẻ trên vở tập viết, khung chữ cần viết… và tập viết các nét cơ bản.
-Giai đoạn 2 (5 tháng đầu): Luyện viết chữ cái viết thường, viết chữ số theo
đúng qui trình. Mỗi tiết học viết 1 dòng chữ to, 1 dòng chữ vừa và 2 dòng chữ nhỏ.
Khi viết ứng dụng yêu cầu học sinh ghép phụ âm đầu với vần đúng khoảng cách và độ
cao của chữ.
-Giai đoạn 3 (4 tháng cuối): Học sinh nhìn bài trên bảng lớp, kết hợp với nghe
giáo viên đọc từng tiếng chép lại theo cỡ chữ nhỏ.
Cùng với học vần tập viết rèn luyện những kỹ năng cơ bản của môn Tiếng việt
cho học sinh, đó là các kỹ năng nghe, đọc, nói và viết. Đến cuối lớp 1 học sinh tập
chép được các bài theo yêu cầu và bước đầu biết trình bày một bài viết. Các em nhìn
và nhận xét bài của bạn đẹp hay chưa đẹp; và nhiều học sinh khá, giỏi còn biết chỉ ra
những điểm viết sai cần khắc phục cho bạn.
2/ Yêu cầu cơ bản của dạy tập viết ở lớp 1:
- Kiến thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ
cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các
chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.
- Kỹ năng: Viết đúng quy trình - nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo
thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ.
Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút,
để vở… bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập đọc (không mắc
quá 5 lỗi chính tả).
- Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở tập
viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.
Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để học sinh
rèn luyện cách viết các chữ vừa học.
- Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc, như: đường kẻ
ngang, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, ký hiệu
luyện viết ở nhà.
Vở tập viết của Bộ giáo dục phát hành giúp học sinh không ngừng nâng cao về
chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn học khác nhằm phát huy vai trò của
phân môn tập viết. Chương trình tập viết lớp một gồm có:
Học kỳ I: Sau mỗi bài học vần học sinh được luyện viết những chữ các em vừa
học và mỗi tuần có thêm 1 tiết tập viết.
Học kỳ II: (Từ tuần 25 trở đi) Mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết 35 phút và
học sinh được làm quen với chữ viết hoa.
4
II/ Thực trạng dạy học tập viết và rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu
học Minh Thuận 1:
1/ Thực trạng tình hình:
Tập viết lớp 1 là một phân môn trong môn học Tiếng Việt, môn học công cụ
của các môn học, do đó tập viết – chữ đẹp được nhà trường và thầy cô quan tâm từ
những ngày đầu nhận lớp giảng dạy. Giáo viên nào cũng mong muốn học sinh mình
biết bảo quản sách vở, có chữ viết đẹp, do đó các em được nhắc nhỡ và hướng dẫn
thường xuyên.
Qua thực tế giảng dạy, thực trạng học sinh và chương trình, qua một giai đoạn
đầu năm làm quen và tìm hiểu từng đối tượng học sinh, đến giữa học kì 1 chúng ta
tiến hành khảo sát để phân loại học sinh, kết quả khảo sát học sinh khối 1 (thống kê
riêng về về khả năng viết) ở trường Tiểu học Minh Thuận 1, như sau:
CHẤT LƯỢNG TẬP VIẾT CỦA HỌC SINH LỚP 1,
TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH THUẬN 1
(Được Ban giám hiệu cho phép và sự thống nhất của giáo viên
chủ nhiệm lớp ở các đơn vị khảo sát)
-Thời gian tiến hành: Đầu tháng 10-2010
-Đối tượng và địa điểm: Học sinh lớp 1A, 1B và 1C của trường Tiểu học Minh
Thuận 1, huyện U Minh Thương tỉnh Kiên Giang.
T
T
Họ và tên
1
Nguyễn Thị Mộng Thi
GVCN
Lớp
1A
T.số
HS
28
Đánh giá bằng điểm số
Điểm
9-10
Điểm
7-8
5
14
1
Điểm
5-6
Điểm
dưới
5
8 Lớp
thực
nghi
ệm
2
Trần Thị Ánh Đào
1B
26
2
5
13
6
3
Đặng Thanh Trúc
1C
27
2
7
13
5
81
5
17
40
19
Cộng chung
Phụ ghi
Nội dung khảo sát được cho phù hợp với chương trình, và yêu cầu về chuẩn
kiến thức ở thời điểm tiến hành khảo sát.
Nhận xét: Tỷ lệ học sinh đạt điểm từ khá trở lên chiếm tỷ lệ rất thấp và ngược
lại tỷ lệ học sinh đạt điểm trung bình và yếu chiếm tỷ lệ khá cao. Đây là một trở ngại
lớn cho việc dạy học phân môn tập viết nói riêng và môn Tiếng việt cũng như các
môn học khác trong chương trình nói chung. Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề này một
cách nghiêm túc trên cơ sở những nguyên nhân chủ quan và khách quan đã nêu trên
để sớm đưa ra lời giải cho bài toán chất lượng của phân môn tập viết lớp 1.
5
Từ thực tế nêu trên, tôi quyết định tìm ra hướng đi thích hợp để nâng cao chất
lượng chữ viết cho học sinh lớp mình. Bằng sự quyết tâm và kiên trì cộng với phương
pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh một cách tích hợp tôi tin rằng sẽ gặt hái được
những thành công nhất định.
2/ Những hạn chế khó khăn khi giải quyết vấn đề trong thực tiễn dạy học:
Đặc điểm tâm lý
Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức. Nếu trẻ được viết
trong tư thế thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả tốt. Ngược lại, nếu trẻ
buồn phiền, phân tán hoặc không hứng thú thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng.
a) Lý thuyết hoạt động:
Để viết được chữ thì học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng của
thần kinh và bắp thịt). Hoạt động viết của học sinh được thực hiện qua thao tác sau:
- Làm quen với đối tượng: Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ sẽ tri giác bằng mắt,
tai và tay sẽ làm theo.
- Nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét của chữ
cái để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng chữ đó.
- Nói thầm kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc trước
khi viết.
- Làm thử: Hình ảnh đã có trong óc cần được thể hiện trên bảng, trên giấy bằng
các dụng cụ như bút bảng, phấn, bút mực.
- Kiểm tra lại kết quả so với mẫu để rút kinh nghiệm cho lần sau.
b) Đặc điểm đôi tay trẻ khi viết:
- Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn tay của
trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay vụng về, chóng
mệt mỏi.
- Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng tự nhiên
là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
- Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh phải biết
kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), bàn tay phải có
điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng quá chặt sẽ khó vận
động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
- Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận động cổ
tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng
và nhanh được.
c) Đặc điểm đôi mắt trẻ khi viết:
- Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết được trình
bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát xuống để nhìn
cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị.
- Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn tay chưa
ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại
nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì các em mới chép đúng mẫu.
Cấu tạo chữ viết:
a) Xác định tọa độ và chiều hướng chữ:
6
Tọa độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết. Mỗi đơn vị
dòng kẻ trong vở gồm có 4 dòng kẻ ngang (1 dòng đầu đậm và 3 dòng còn lại được in
nhạt hơn). Ta ký hiệu đường kẻ trên là số 1 các đường khác là 2, 3, 4 kể từ dưới lên
trên.
Ví dụ:
-> Đường kẻ ngang
Đường kẻ dọc
Cách xác định tọa độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ
ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện để dạy chữ
viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành
trình ngòi bút đi qua tọa độ các chữ.
Xác định tọa độ cấu tạo các chữ viết hoa đều phải căn cứ vào các ô vuông của
khung chữ mẫu để phân tích cách viết.
Ngoài việc thống nhất các khái niệm về đường kẻ, ô vuông như trên, để việc tổ
chức dạy tập viết có hiệu quả hơn, cần chú ý thêm một số thuật ngữ có liên quan:
a.1- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút
có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
Ví dụ: điểm đặt bút (1) nằm trên đường
kẻ ngang
điểm đặt bút (1) không nằm
trên đường kẻ ngang
a.2- Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm
dừng có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
Ví dụ: điểm dừng bút (2) trùng với điểm
đặt bút
điểm dừng bút (2) nằm trên
đường kẻ ngang
a.3- Tọa độ điểm đặt hoặc dừng bút: Về cơ bản, tọa độ này thống nhất ở vị trí
1/3 đơn vị chiều cao chữ cái, có thể ở vị trí trên hoặc dưới đường kẻ ngang.
a.4- Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét
đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
7
Ví dụ: - a nối với m
-> am
- x nối với inh
-> xinh
=> Các nét bút viết liền mạch khi viết không nhấc bút
a.5- Kỹ thuật lia bút:
Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với
nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) không
chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng). Thao tác đưa bút trên không gọi là lia bút.
Ví dụ: b nối với a
-> ba
=> Từ b -> a không viết liền được ta viết chữ b sau đó lia bút sang điểm bắt đầu
của chữ a.
a.6- Kỹ thuật rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét
chữ vừa viết. Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ
điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
Ví dụ: Khi viết chữ ph phải viết nét thẳng của chữ ( ) sau đó không nhấc bút để
viết mà rê ngược bút lên đường kẻ ngang thứ 2 để viết nét móc 2 đầu ( )
Đoạn (1), (2) là đoạn rê bút
b) Cấu tạo của chữ cái Tiếng Việt:
Kí hiệu ngôn ngữ do các chất liệu âm thanh hoặc nét đồ họa thể hiện. Chữ viết
được xây dựng trên cơ sở của hệ thống kí tự đã được chuẩn hóa. Những đặc điểm cấu
tạo chữ viết là những yếu tố cần và đủ để phân biệt các chữ cái khi thể hiện ngôn ngữ
viết. Những yếu tố cấu tạo chữ viết này chính là hệ thống các nét chữ.
Yêu cầu về hệ thống nét: Việc xác định hệ thống các nét chữ được phân tích
trên cơ sở số lượng nét càng ít càng tốt để dễ dạy, dễ học. Đồng thời hệ thống nét đó
lại phản ánh toàn bộ hệ thống chữ cái và chữ số Tiếng Việt. Do đó, cần quan niệm hệ
thống nét cơ bản cấu tạo chữ cái Tiếng Việt gồm hai loại:
* Nét thẳng: thẳng đứng , nét ngang , nét xiên , \
8
* Nét cong: cong hở (cong phải, cong trái), cong khép kín O.
Tuy nhiên, hệ thống chữ La tinh ghi âm vị Tiếng Việt ngoài các nét cơ bản
trong cấu tạo chữ viết còn có các nét dư. Những nét dư thừa này có chức năng tạo sự
liên kết giữa các nét trong từng chữ cái và giữa các chữ cái với nhau.
Việc cải tiến chữ cái (kiểu chữ CCGD) bằng cách lược bỏ những nét dư thừa đã
làm mờ sự khu biệt cần thiết giữa các chữ cái và gây trở ngại trong giao tiếp, mặt
khác cách làm này cho chữ viết tay không liền mạch, không đẹp và tốc độ viết
chậm.Ví dụ: anh
* Nét phối hợp: Trên cơ sở lấy nét chữ cơ bản làm nền, tính từ điểm xuất phát
kéo dài nét đó cho đến khi không thể và không cần thiết kéo dài được nữa (đến đây đã
đủ nét và nếu cứ tiếp tục kéo dài sẽ trùng với nét khác hoặc dư thừa nét) thì chấm dứt.
Loại nét này gọi là nét phối hợp. Nhờ cách quan niệm như vậy, các nét cấu tạo chữ
cái không bị cắt vụn. Chẳng hạn, với chữ cái “a” thông thường có thể phân thành 3
nét: nét cong trái, nét thẳng đứng và nét cong phải (C, |,
) nhưng khi viết, thông
thường người viết kéo dài nét thẳng đứng cho đến khi kết thúc nét, lúc đó ta được nét
móc phải (là sự kết hợp giữa nét thẳng đứng và nét cong). Vì vậy, ta chọn lối phân
tích chữ “a” thành 2 nét: nét cong kín (O) và nét móc phải ( ).
Với cách xác định chữ như trên, việc phân tích các chữ trở nên gọn và dễ hiểu.
Sau đây là danh sách các nét phối hợp cần được thống nhất để dạy viết nét và
viết chữ cái tiếng Việt:
1. Nét móc: Nét móc xuôi, nét móc ngược
2. Nét móc hai đầu:
3. Nét thắt giữa:
4. Nét khuyết: - nét khuyết trên
- nét khuyết dưới.
5. Nét thắt trên:
Cách sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự vào cùng bài dạy xuất phát từ
quan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy viết theo thứ tự từ
đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ.
Nhóm 1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc (hoặc
nét thẳng): a, ă, â, d, đ, g.
Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, m, n.
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối hợp
với nét móc): l, h, k, b, y, g.
Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét thắt:r,v,s
Về cơ bản, cách sắp xếp này cũng theo sát các nhóm bài luyện tập viết trong
vở.
III/ Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Qua thực tế giảng dạy, bản thân luôn muốn nâng cao chất lượng dạy học ở lớp
mình qua đó góp phần chung nâng cao chất lượng của trường và của địa phương.
Không thể trông chờ gặt hái những gì ta không gieo trồng, chất lượng dạy học phụ
thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó người dạy là yếu tố chủ đạo. Chúng ta cần những giải
9
pháp phù hợp, có biện pháp khắc phục khó khăn vướng mắc trong quá trình giảng
dạy, sự chuẩn bị chu đáo trong từng giờ dạy và nhất là phải kiên trì. Từ những cơ sở
khoa học của phân môn, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và những kinh nghiệm trong
thực tiễn giảng dạy tôi tiến hành rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 mình đang dạy ở năm
học này.
Trong quá trình rèn chữ viết để các em có được “Vở sạch chữ đẹp” chúng ta
cần chú ý đến hệ thống phương pháp và tích hợp chúng khi dạy học phân môn tập
viết, đó là:
1/ Tìm hiểu những thông tin ở các nhóm học sinh:
- Trước khi vào lớp 1 các em có được học mẫu giáo chưa(?);
- Mức độ quan tâm của gia đình đối với các em;
- Dụng cụ học tập có đầy đủ và đúng qui cách không(?);
- Hứng thú học môn tập viết của các em.
Sau khi phân loại và tìm hiểu những đầy đủ thông tin tôi nhận thấy chất lượng
từng nhóm học sinh có sự tác động cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan, nhưng nguyên
nhân khách quan chiếm đa số hơn.
2/ Nghiên cứu thực trạng:
Ở năm học trước phần lớn các em đến cuối năm học đều viết được chữ, chép
được bài tập chép, nhưng thường viết chậm và sai nhiều lỗi chính tả. Nhiều em viết
chữ chưa đúng độ cao, chiều rộng của các con chữ và chữ viết xấu, khó đọc. tính chất
thực hành của phân môn nhiều lúc ít được kiểm tra nên học sinh không nhận ra những
điểm sai cần điều chỉnh.
Mặt khác, một số gia đình học sinh khó khăn, nhiều em thiếu dụng cụ học tập
hoặc dụng cụ không đạt yêu cầu… Nhiều gia đình chưa quan tâm đúng mức, ít chú
trọng đến chất lượng học tập của con em mình. Từ đó làm cho giờ dạy tập viết mất
nhiều thời gian cho việc chuẩn bị, hướng dẫn… làm giảm thời gian thực hành.Qua đó
ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng dạy học nói chung và chất lượng phân môn tập viết
nói riêng
3/ Phân loại trình độ học sinh (ở phân môn tập viết):
- Nhóm học sinh Khá, Giỏi:
- Nhóm học sinh Trung bình;
- Nhóm học sinh yếu.
4/ Lựa chọn phương pháp:
Phương pháp trực quan: Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng
nhiều con đường: kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ
động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và
khác nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh
tương đồng.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện
đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng
to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu… Tiêu
chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng và đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng:
10
- Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ quan
sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo
chữ cái cần viết trong bài học.
- Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các
nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết
liền mạch, viết nhanh.
- Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một loại
chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ không đơn điệu, giáo viên cần coi trọng việc xử lý
quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập viết,
nhất là những âm mà địa phương hay lẫn, giáo viên cần đọc mẫu. Việc viết đúng củng
cố việc đọc đúng và đọc đúng đóng góp vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng.
Phương pháp đàm thoại gợi mở: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai
đoạn đầu của tiết học. Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng
một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ
cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ
cái đã phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ A, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ A gồm có bao nhiêu
nét? là những nét nào? chữ A cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?…
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em. Vai
trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ cái
chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
Phương pháp luyện tập: Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập
viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học
sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ,
sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ
phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở
các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác.
Khi học sinh luyện tập chữ viết, giáo viên cần luôn luôn uốn nắn cách ngồi viết.
Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp.
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và bức
đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để kiểm tra bài cũ
hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ đó, giáo
viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ, hình dáng, thứ
tự các nét viết).
Tập viết chữ vào bảng con của học sinh:
Học sinh luyện tập viết bằng phấn (hoặc bút bảng) vào bảng con trước khi viết
vào vở. Học sinh có thể viết chữ cái, vần, chữ khó vào bảng. Khi sử dụng bảng, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh cả cách lau bảng, cách giơ bảng, cách sử dụng và bảo
quản phấn…
Luyện viết trong vở:
11
Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết, giáo viên cần hướng dẫn tỉ
mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng
cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét…) giúp các em viết đủ, viết
đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng ở tất cả các môn học là cần thiết.
Có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên. Việc
làm này yêu cầu người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự
kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề - mến trẻ.
Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp: Chất lượng về chữ viết của học sinh không
chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ
sư phạm của giáo viên…) mà còn có sự tác động của những yếu tố khách quan (điều
kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy và học Tập viết). Do vậy, muốn rèn cho học
sinh nếp viết rõ ràng, sạch đẹp, giáo viên cần quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở các em
thường xuyên về các mặt chủ yếu dưới đây:
Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông
qua 2 hình thức: viết trên bảng (bảng cá nhân – bảng con, bảng lớp) bằng phấn và viết
trong vở tập viết (tài liệu học tập chính thức do Bộ GD&ĐT qui định đối với lớp 1)
bằng bút chì, bút mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần
có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau:
Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau.
Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn
(thể hiện được 4 dòng) tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có
chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Bút dạ viết trên bảng phoóc trắng có dòng
kẻ, cầm vừa tay, đầu viết nhỏ, ra mực đều mới viết được dễ dàng. Khăn lau sạch sẽ,
có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xoá bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa không ảnh
hưởng đến chữ viết.
Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên
nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp thời
xử lí, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra.
Để việc sử dụng các đồ dùng học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả
tốt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau:
Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng qui định:
+ Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết.
+ Phấn viết có độ dài vừa phải.
+ Khăn lau sạch.
Sử dụng bảng con hợp lí và đảm bảo vệ sinh:
+ Ngồi viết đúng tư thế.
+ Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách.
+ Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ
bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét.
+ Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng.
Vở tập viết, bút chì, bút mực:
12
Vở tập viết lớp 1 cần được giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc giây bẩn.
Bút chì dùng ở 3 tuần đầu lớp 1 cần được bọc cho cẩn thận, đầu chì không nhọn quá
hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ. Riêng về bút mực, trước đây đòi hỏi học sinh hoàn
toàn sử dụng loại bút có quản, ngòi bút nhọn đầu viết được nét thanh nét đậm. Từ khi
loại bút bi được sử dụng phổ biến thay thế cho bút chấm mực, việc học tập viết của
học sinh có phần tiện lợi (viết nhanh, đỡ giây mực…) song chất lượng chữ viết có
phần giảm sút.
Thực hiện đúng qui định khi viết chữ:
- Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt
cách vở 25 – 30cm; nên cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết
không bị xê dịch; hai chân để song song, thoải mái (tham khảo hình vẽ minh hoạ ở
trang 2, vở Tập viết 1 – tập 1)
- Cách cầm bút: Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón
giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá): khi viết, dùng ba
ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ
tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái.
- Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay
ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép
vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết độ nghiêng
của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết
theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ
khác nhau về cách để vở).
- Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết;
viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết
chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được tẩy xoá mà cần để
cách một khoảng ngắn rồi viết lại.
5/ Soạn kế hoạch dạy học:
Tuần 11
Bài dạy:
CÁI KÉO, TRÁI ĐÀO, SÁO SẬU, LÍU LO
CHÚ CỪU, RAU NON, THỢ HÀN
I/ Mục tiêu:
-Giúp học sinh viết đúng các chữ: cái kéo, trái đào, sáo sậu, líu lo,chú cừu, rau non
thợ hàn, dăn dò (kiểu chữ viết thường cỡ vừa theo vở tập viết 1, tập 1);
II/ Chuẩn bị:
-GV: Bảng phụ có ghi chữ viết mẫu.
-HS: Bảng con, vở tập viết.
13
III/ Các hoạt động dạy học chủ yếu:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
1/ Ổn định lớp:
Cho học sinh hát tập thể.
Hát bài “Lý cây xanh”
2/ Kiểm tra kiến thức cũ và dụng cụ
học tập:
Cho học sinh thực hành viết các từ đã
Thực hành viết: thợ xẻ, chữ số, mùa
học và luyện viết: thợ xẻ, chữ số, mùa
dưa và tươi cười.
dưa và tươi cười.
Kiểm tra dụng cụ học tập của học
sinh.
Nhận xét.
3/ Dạy bài mới:
Giới thiệu: Hôm nay lớp chúng ta
cùng luyện viết các từ: cái kéo, trái đào,
sáo sậu, líu lo,chú cừu, rau non và thợ
hàn. Ai sẽ là người viết đúng, đẹp và
nhanh hơn(?)
HĐ1: Quan sát chữ mẫu
Treo bảng phụ và hướng dẫn học sinh Quan sát, ghi nhớ.
quan sát chữ viết mẫu.
Cho HS đọc và phân tích cấu tạo
Viết mẫu và hướng dẫn học sinh quy 4 HS đọc và phân tích.
trình viết các từ: cái kéo, trái đào…
Quan sát và thực hành vào bảng con.
Nhận xét và sửa chữa cho học sinh. Chú
ý khả năng viết liền mạch.
HĐ2: Thực hành
Sửa chữa các lỗi.
Hướng dẫn học sinh thực hành viết
vào vở tập viết.
Thực hành vào vở tập viết.
Khi học sinh viết giáo viên chú ý đến
14
tư thế ngồi, cầm bút và giúp đỡ những
học sinh viết yếu…
Thu một số bài ở các nhóm học sinh
khá - giỏi, trung bình và yếu.
Xem,chấm điểm.
Nộp vở tập viết cho giáo viên.
Nhận xét và sửa chữa:
-GV cho Học sinh nhận xét bài viết
của ban, chỉ ra hướng khắc phục và sử
chữa.
Nhận xét bài viết của bạn.
-Giáo viên nhận xét, sửa chữa và
tuyên dương những bài viết đúng, đẹp.
Trình bày bài viết đẹp trước lớp.
4/ Củng cố:
Quan sát, tuyên dương bạn có bài tập
viết đẹp.
Cho 4 học sinh lên bảng lớp, mỗi em
viết 1 từ: chú cừu, rau non, thợ hàn và
trái đào.
4 học sinh thực hành viết trên bảng lớp.
Nhận xét: Cho học sinh nhận xét và
sửa chữa (nếu có sai) cho bạn.
Học sinh còn lại quan sát quy trình viết
của bạn.
Nhận xét sửa chữa.
5/ Dặn dò:
Về nhà các em tiếp tục luyện viết các từ hôm nay học, giờ tập viết sau cô sẽ kiểm
tra vở tập viết ở nhà và cho các em thi viết đẹp và nhanh.
Việc chuẩn bị kế hoạch dạy học là vô cùng quan trọng, khi chuẩn bị chúng ta
nhằm vào từng đối tượng học sinh, cá thể hoá quá trình giảng dạy từ đó nâng dần chất
lượng từng đối tượng học sinh qua mỗi giờ dạy.
Từ những giải pháp cụ thể được tiến hành, chất lượng học tập môn tập viết của
của học sinh được nâng dần lên theo thời gian, góp phần vào việc học các môn học
khác.
IV/ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
CHẤT LƯỢNG TẬP VIẾT CỦA HỌC SINH LỚP 1,
TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH THUẬN 1 SAU KHI THỰC NGHIỆM
15
(Được Ban giám hiệu cho phép và sự thống nhất của giáo viên
chủ nhiệm lớp ở đơn vị khảo sát)
-Thời gian tiến hành: Giữa tháng 3/2011
-Đối tượng và địa điểm: Học sinh lớp 1A, 1B và 1C của trường Tiểu học Minh
Thuận 1, huyện U Minh Thương tỉnh Kiên Giang.
T
T
Họ và tên
1
Nguyễn Thị Mộng Thi
1A
2
Trần Thị Ánh Đào
3
Đặng Thanh Trúc
GVCN
Cộng chung
Lớp
T.số
Đánh giá bằng điểm số
Điểm
dưới
5
Điểm
9-10
Điểm
7-8
Điểm
5-6
28
6
12
9
1B
26
4
8
10
4
1C
27
5
9
9
4
81
15
29
28
9
HS
Phụ ghi
1 Lớp thực nghiệm
Đánh giá:
Ở các lớp tỷ lệ học sinh đạt điểm từ khá trở lên đều có tăng, tỷ lệ học sinh yếu
giảm song vẫn còn khá cao, nếu không được chú ý rèn luyện thêm trong thời gian còn
lại của năm học thì nguy cơ các em này lưu ban là rất cao, nếu được lên lớp thì các
em rất có thể là học sinh yếu của lớp kế tiếp. Riêng đối với lớp thực nghiệm cho sáng
kiến kinh nghiệm RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP ĐỂ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG “VỞ SẠCH CHỮ ĐẸP” thì tỷ lệ học sinh đạt khá giỏi rất cao và
đặc biệt là học sinh yếu chỉ còn 1 em, mà thời gian năm học vẫn còn. Đáng chú ý hơn
là khi kiểm tra vở viết của học sinh ba lớp 1 thì ở lớp thực nghiệm này có tỷ lê học
sinh đạt “Vở sạch chữ đẹp” cao hơn hẳn hai lớp còn lại.
Từ thực tế kết quả đó ta có thể khẳng định sáng kiến kinh nghiệm này đã thành
công, góp phần nâng cao chất lượng rèn “Vở sạch chữ đẹp” ở học sinh lớp 1 nói riêng
và chất lương giáo dục nói chung ở địa phương nhà. Qua quá trình thực hiện tôi nhận
thấy rằng đây không phải là một vấn đề khó, ai cũng có thể thành công nếu biết vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp cho học sinh lớp 1 ở lớp giảng dạy của mình.
16
Phần 3:
KẾT LUẬN
Dạy học nói chung và dạy học tập viết – rèn cho học sinh lớp 1 đạt được “Vở
sạch chữ đẹp” nói riêng vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Phải dạy cho các
em ngồi đúng tư thế, cầm bút, đặt vở và qui trình viết một âm, một từ… đó là khoa
học, không ai có thể hướng dẫn khác đi được. Song mỗi người có một phương pháp
chuyển tải các kiến thức khoa học đó đến với học sinh không hẳn giống nhau và
thường cho kết quả dạy học cũng có sự khác biệt; đó chính là yếu tố nghệ thuật. Với
đặc thù học sinh lớp 1 và phân môn tập viết thì yếu tố nghệ thuật cưc kỳ quang trọng.
Tiếng Việt vốn rất khó đọc và khó viết nếu không yêu thích mà chỉ thực hành theo
“mệnh lệnh” thì rất khó thành công. Nếu như chúng ta không khơi dậy tình yêu và
lòng tự hào ở mỗi học sinh về tiếng mẹ đẻ của mình, thì việc viết được, viết đúng đối
với học sinh lớp 1 là đã quá khó rồi chứ chưa nói đến viết đẹp hay đạt “Vở sạch chữ
đẹp”.
I/ Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tế giảng dạy và thực hiện đề tài, qua trao đổi với các đồng nghiệp, tất
cả đều cho rằng phân môn tập viết lớp 1 rất khó dạy, nhất là những lớp vùng sâu,
vùng xa học sinh chưa được học mẫu giáo. Giáo viên nhận thức đầy đủ vai trò của
phân môn này trong chương trình học, từ đó phần lớn thầy cô giáo dạy đúng và đủ số
tiết theo qui định. Phương pháp dạy học cũng được thầy cô giáo chú trọng. Thế nhưng
học sinh lớp 1 thường viết không đạt yêu cầu (theo chuẩn kiến thức lớp học), chất
lượng ấy có cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
-Về mặt chủ quan: Một bộ phận thầy cô giáo chưa chú ý đến quá trình rèn chữ
viết cho học sinh, hoặc chú ý ở giai đoạn đầu rồi về sau chỉ hướng dẫn các em thực
hành. Giáo viên chỉ chú ý đến viết được hay chưa được chứ ít chú ý đến viết đúng và
viết đẹp, vì họ cho rằng lớp 1 viết được cũng là một cố gắng lớn rồi, lên các lớp trên
học sinh sẽ được tiếp tục rèn luyện. Mặt khác nhiều giáo viên dạy phân môn tập viết
chưa tích hợp được với các môn học khác. Đó là một hạn chế cần phải tránh, vì lớp
Một là nền tản của bậc học Tiểu học. Nếu các em viết không đúng độ cao, độ rộng
của con chữ thì rất khó sửa chữa về sau.
-Về mặt khách quan: Nhiều học sinh lớp 1 chưa được học mẫu giáo, nhất là
học sinh ở vùng sâu như U Minh Thượng. Ngoài ra còn có học sinh dân tộc, học sinh
hoà nhập cùng học một lớp, từ đó việc hướng dẫn học sinh các thao tác ban đầu mất
rất nhiều thời gian. Nhiều phụ huynh học sinh ít quan tâm đến việc học của con em
mình, họ cho rằng việc dạy học nói chung và hướng dẫn học sinh tập viết nói riêng là
nhiệm vụ của giáo viên, của nhà trường. Dụng cụ học tập của số ít học sinh thiếu hoặc
không đúng qui cách làm ảnh hưởng đến công tác dạy và học. Cơ sở vật chất còn bất
17
cập như phòng học, bàn ghế không đúng qui cách (bộ bàn ghế dùng chung cho học
sinh từ lớp 1 đến lớp 5).
Bản thân người giáo viên cần biết tận dụng vốn sống và kinh nghiệm của học
sinh, khắc phục các yếu tố chủ quan và tiến hành rèn chữ viết cho học sinh theo trình
tự thời gian, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và trình độ thực hành viết của từng cá thể
học sinh. Phát huy các ưu điểm vốn có của học sinh, giúp các em vượt qua rào cản về
thực hành viết và tiến đến hình thành cho các em long đam mê, tự hào về chữ viết của
mình.
II/ Ý nghĩa:
Với đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 1 (6 tuổi) chúng ta đừng nghĩ đến việc
trách phạt, mà cần tuyên dương các em nhiều hơn dù chỉ là những thành công hay tiến
bộ nhỏ nhất. Điều đó giúp các em tự tin, hăng hái làm việc hơn trong giờ học tập viết.
Muốn làm tốt được điều đó ta cần chuẩn bị kế hoạch dạy học thật chu đáo và phù hợp
với học sinh ở lớp mình dạy và cá thể hóa được quá trình dạy học; từ đó giúp cho
nhiều đối tượng học sinh cùng hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Học sinh có được chữ viết đúng, đẹp và biết giữ gìn vở sạch chữ đẹp. Từ đó
giúp các em tự tin hơn trong học tập và học các môn học khác trong suốt quá trình
học tập của mình.
III/ Khả năng ứng dụng và hướng phát triển:
Qua quá trình thực hiện và kết quả của đề tài, nhận thấy chất lượng dạy học tập
viết ở lớp 1 được nâng lên, phần lớn học sinh viết đúng và đẹp; nhưng quan trọng hơn
là các em yêu cái đẹp của tiếng mẹ đẻ, tự tin trong học tập.
Kết quả này sẽ được trao đổi với các đồng nghiệp, nhà chuyên môn và lãnh đạo
ngành giáo dục để vận dụng vào những năm học tiếp theo, từng bước đưa công tác
dạy và học tập viết ở lớp 1 đi vào chiều sâu, đưa phong trào rèn “Vở sạch chữ đẹp”
cho học sinh ở địa phương nhà ngày càng phát triển và cũng góp phần nâng cao chất
lượng dạy học – chất lượng giáo dục.
Để thực hiện ngày càng tốt và hiệu quả hơn phong trào “Vở sạch chữ đẹp” tôi
rất mong được lắng nghe ý kiến đóng góp quí báu của các cấp lãnh đạo ngành giáo
dục, các bạn đồng nghiệp và tất cả những ai quan tâm, am hiểu giáo dục./.
Minh Thuận, ngày 15 tháng 02 năm
2011
Người viết
Nguyễn Thị Mộng Thi
18
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA KHEN THƯỞNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH THUẬN 1
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA KHEN THƯỞNG
PHÒNG GD&ĐT U MINH THƯỢNG
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………….
19
- Xem thêm -