CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TT
1
2
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến Sở Khoa học – Công nghệ tỉnh Ninh Bình
Chúng tôi ghi tên dưới đây:
Tỷ lệ (%)
Trình độ
Ngày tháng
đóng góp
Họ và tên
Nơi công tác Chức vụ chuyên
năm sinh
vào việc tạo
môn
ra sáng kiến
Chuyên
Sở GD&ĐT
Bùi Văn Bình 04-07-1977
viên phòng Tiến sĩ
60%
Ninh Bình
GDTrH
Tổ phó
Trường THCS
Vũ Thị Hương 13-01-1983
chuyên
Đại học
40%
Lạc Vân, NQ
môn
I. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng.
Là nhóm tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: "Dạy học theo định hướng
mới gắn với Stem môn Hóa học THCS trong chương Dung dịch".
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
II. Nội dung sáng kiến.
1. Lí do chọn đề tài
Đáp ứng mục tiêu giáo dục trong chiến lược phát triển giáo dục mới chuyển từ
chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, lấy người học
là trung tâm, gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội,
hướng đến sự hình thành, phát triển năng lực và khả năng học tập suốt đời cho học sinh...
Từ đặc trưng của bộ môn Hóa học: là môn khoa học tự nhiên có nhiều ứng dụng
trong thực tiễn, ngoài ra còn có mối liên kết với nhiều môn học khác như Sinh học, Địa
lí, Công nghệ... Do đó việc ứng dụng kiến thức của môn Hóa học kết hợp với các môn
học khác trong cuộc sống rất phong phú, liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều ngành nghề
trong xã hội.
Từ ưu điểm của phương pháp dạy học: Dạy học theo định hướng mới gắn với
Stem môn Hóa học THCS nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát huy tính sáng
tạo trong việc dạy và học. Góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong trường trung học
nói chung và bộ môn Hóa học nói riêng, góp phần phát huy tính chủ dộng, tích cực, sáng
tạo trong học tập của người học, giúp học sinh vận dụng được kiến thức liên môn trong
việc giải quyết tình huống thực tiễn. Trên cơ sở đó định hướng năng lực cho học sinh.
Rèn luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề và tư
duy phản biển ở góc độ là nhà nghiên cứu, một nhà sản suất, một người sử dụng sản phẩm.
Học sinh luôn tự tin bày tỏ ý tưởng và luôn có những ý tưởng mới trong học tập phần nào
đáp ứng việc hướng tới mục tiêu giáo dục Ba phẩm chất, tám năng lực cho học sinh.
1
Do đó, chúng tôi đã nghiên cứu "Dạy học theo định hướng mới gắn với Stem
môn Hóa học THCS trong chương Dung dịch". Với đề tài này chúng tôi hi vọng sẽ
mang lại cho bản thân, đồng nghiệp và các em học sinh một tài liệu nghiên cứu, học tập
bổ ích.
2. Giải pháp cũ thường làm
2.1. Nội dung Phương pháp dạy học theo giải pháp cũ.
Môn Hóa học được Bộ giáo dục và Đào tạo biên soạn trên tinh thần đổi mới, đảm
bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nó cùng với các
môn học khác trong trường phổ thông góp phần quan trọng vào việc tạo nền tảng ban đầu
để đào tạo con người phát triển toàn diện “Giáo dục phổ thông cơ sở nhằm giúp học sinh
hoàn thiện học vấn phổ thông có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và
hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp
tục học trung học phổ thông, học nghề”.
Thực tế hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Hóa học chưa mang lại
hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của
nhiều giáo viên.
Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp
dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và
sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức lý
thuyết.
Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học
sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm.Việc
ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa
được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường phổ thông cơ sở.
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là nhiều học sinh còn thụ động trong việc học
tập môn Hóa học; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết
các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế như:
Thứ nhất: Thiếu động cơ học tập
Chương trình bộ môn Hóa học còn nặng tính hàn lâm, chưa phù hợp với mọi đối
tượng, chưa đảm bảo được tính vùng miền. Tư tưởng nhiều HS coi môn Hóa học là môn
phụ nên học sinh không lo sợ kết quả, không có hứng thú học tập. Chủ yếu học sinh tập
trung vào Văn, Toán, Anh nên đa số các em không đầu tư nhiều thời gian cho bộ môn
này. Công tác quản lý, theo dõi, đánh giá chưa kích thích được tinh thần, khí thế của
người dạy và người học, chưa thúc đẩy được chất lượng, hiệu quả dạy học và cũng chưa
kịp thời uốn nắn được những lệch lạc xảy ra. Kết quả học tập (thể hiện chất lượng dạy
học) ở từng trường, từng lớp chủ yếu phụ thuộc vào sự đánh giá của cá nhân giáo viên
dạy ở lớp đó, trường đó. Bởi vì thường là người dạy, người ra đề, người chấm thi là một.
Thứ hai: Hạn chế về giáo viên
2
Hiện nay, mặc dù khoa học và công nghệ đang từng ngày, từng giờ thay đổi, các
hiện tượng thực tế học sinh phải tiếp xúc rất phong phú, thế nhưng việc cập nhật thông tin,
đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên chưa được kịp thời. Vì vậy, trong giảng dạy bộ môn,
không ít giáo viên còn tỏ ra lúng túng, một số giáo viên chưa đầu tư đúng mức hoặc chưa
có điều kiện học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu.
Phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng vẫn chủ yếu là phương pháp truyền
thống: thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò ghi, phương pháp này mang tính chất thông
báo, tái hiện. Hiện nay các phương pháp dạy học tích cực đã và đang được nghiên cứu và
vận dụng vào thực tiễn dạy học, thuật ngữ này dần dần trở nên quen thuộc. Tuy nhiên,
nhiều công trình nghiên cứu mới dừng lại ở phạm vi lý luận, hoặc còn là chủ trương, chỉ
thị,… chứ chưa thực sự đi vào nhà trường, chưa trở thành nhu cầu bức thiết với từng giáo
viên, học sinh, từng môn học, bài học. Đại đa số giáo viên đều thấy đổi mới phương
pháp dạy học là cần thiết, nhưng đổi mới như thế nào, triển khai thực hiện ra sao đối với
môn học, bài học cụ thể vẫn còn lúng túng.
Thứ ba: Thiếu sự hỗ trợ từ thiết bị
Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ dạy học còn hạn chế. Nội dung kiến thức môn học
đòi hỏi nhiều phương tiện trực quan như thực hành thí nghiệm tranh vẽ, vật thật,…nhưng
thực tế hiện nay dạy “chay” vẫn phổ biến.
Như vậy phương pháp dạy học cũ không khắc sâu được kiến thức cho học sinh và
không tạo được hứng thú học tập cho các em. Chưa tạo được sự chủ động chiếm lĩnh kiến
thức của người học và học sinh khó áp dụng vào thực tiễn đời sống.
2.2. Kết quả dạy học theo giải pháp cũ.
- Học sinh chưa hứng thú khi học tập đối với bộ môn được tiếp cận muộn và kiến
thức khá trừu tượng. Do đó, chưa định hướng phương pháp học tập hợp lí để chiếm lĩnh
tri thức một cách chủ động. Trong những năm gần đây các trường trung học cơ sở (
THCS) đã có những chuyển đổi tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Học
sinh cũng đã chủ động nghiên cứu tìm tòi khám phá kiến thức xong chỉ dừng lại ở việc
rèn kỹ năng viết phương trình hóa học giải những bài tập định tính và định lượng đơn giản.
- Đối với học sinh THCS các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho
tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có
kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó.
- Môn Hoá học trong trường trung học là một trong những môn học khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp dễ làm cho học sinh thụ động
trong việc tiếp thu. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn Học hoá học,
ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của Hoá học.
- Vấn đề vận dụng kiến thức vào thực tiễn nhằm tăng khả năng tư duy của học
sinh sau khi học xong lí thuyết là hết sức khó khăn.
3
- Thực trạng chất lượng môn Hóa học trước khi áp dụng sáng kiến năm học 20162017; 2017- 2018 của các trường THCS trong huyện nhà( Trường THCS Lạc Vân, Đức
Long, Phú Sơn): Chất lượng học sinh khá giỏi còn thấp so với các trường trong tỉnh. Chất
lượng đại trà trung bình 3 số trường THCS (Trường THCS Lạc Vân, Đức Long, Phú
Sơn) như sau:
(%) Số HS
(%) Số HS
(%) Số HS
(%) Số HS
Loại Giỏi
Loại Khá
Loại Trung bình
Loại Yếu
2016- 2017
4,4
15
72,6
8
2017-2018
4,3
18
70,7
7
Năm học
Bảng 1.1. Thực trạng chất lượng đại trà môn Hóa học trong năm học
2016 - 2017; 2017 - 2018 của các trường THCS :( Trường THCS Lạc Vân, Đức Long,
Phú Sơn) trong huyện Nho Quan.
- Số học sinh yêu thích môn Hóa học còn rất ít. Thông qua lấy ý kiến của 150 học
sinh của một số trường THCS ( Trường THCS Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn) trong huyện
nhà về sự yêu thích môn Hóa học kết quả là:
Năm học
Tổng số học sinh
Số học sinh yêu thích môn Hóa học
Số HS
Số HS
(%)
2016- 2017
150
24
16
2017-2018
150
30
20
Bảng 1.2. Thực trạng sự yêu thích môn Hóa học trong năm học 2015-2016;
2016- 2017 của một số trường THCS ( Trường THCS Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn)trong
huyện Nho Quan.
- Số học sinh được tiếp cận và ứng dụng các phương pháp dạy học gắn với thực
hành học qua hành gắn với thực tiễn đời sống trong các năm học: 2016- 2017; 20172018. Thông qua lấy ý kiến của 150 học sinh của một số trường THCS ( Trường THCS
Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn) trong huyện, về khả năng tiếp cận, ứng dụng và giải thích
được các hiện tượng thực tế bộ môn từ thực hành thí nghiệm phần lớn học sinh chưa
được tiếp cận và với cách học gắn với thực tiễn, các em chỉ học theo lý thuyết không liên
quan đến thực tế thực hành chỉ nắm được lý thuyết cơ bản hóa học.
Đánh giá về mức độ tiếp cận phương pháp dạy học theo
mô hình STEM gắn với học qua hành, và ứng dụng giải Số ý kiến
thích các hiện tượng thực tế đời sống
Chưa được biết cách học gắn với tự tìm hiểu kiến thức và
thực hành thực tế đời sống
Thường xuyên áp dụng cách học gắn với tự tìm hiểu kiến
thức và thực hành thực tế đời sống
Tỷlệ %
6
4
0
0
4
Áp dụng bình thường cách học gắn với tự tìm hiểu kiến thức
và thực hành thực tế đời sống
Rất ít áp dụng cách học gắn với tự tìm hiểu kiến thức và thực
hành thực tế đời sống
Chỉ học theo lý thuyết không liên quan đến thực tế, không
được trải nghiệm thực tế
3
2
3
2
138
92
Bảng 1.3. Ý kiến của học sinh về tiếp cận và ứng dụng các phương pháp dạy học
gắn với thự tiễn đời sống: 2016- 2017; 2017- 2018.
2.3. Đánh giá ưu, nhược điểm của giải pháp cũ
a. Ưu điểm của giải pháp cũ
*. Về không gian và thời gian:
Không gian giới hạn trong một phòng học chỉ với không quá 45 học sinh theo sự
chỉ đạo của Bộ GD&ĐT cho nên giáo viên dễ quan sát, dễ điều hành. Giúp giáo viên có
thể truyền đạt một khối lượng kiến thức lớn trong một khoảng thời gian ngắn; Giáo viên
hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với
những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh tiếp thu được nhiều kiến thức khi họ nhận
được càng nhiều thông tin từ giáo viên;
Thời gian được xác định là 45 phút trong một lớp, do đó giáo viên là người hoàn
toàn chủ động về thời gian và nội dung giảng dạy; Giảm bớt những khó khăn, thời gian
cho giáo viên trong việc chuẩn bị, chỉ cần chuẩn bị bài giảng thuyết trình một lần người
giáo viên có thể sử dụng để giảng dạy trong nhiều lần. Còn các nhà trường cũng chủ động
trong việc xây dựng kế hoạch dạy học.
*. Phương tiện, thiết bị và đồ dùng dạy học:
Giáo viên đã tăng cường sử dụng tranh ảnh, lược đồ, phương tiện nghe nhìn như
máy chiếu, Tivi, đài và kênh hình vào trong giảng dạy. Hiện nay công nghệ thông tin
phát triển giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với tranh ảnh, tư liệu, tài liệu từ mạng
Internet… để làm phong phú hơn cho bài giảng của mình.
Đối tượng: học sinh của một lớp với số lượng không quá 45 học sinh theo sự chỉ
đạo của Bộ GD&ĐT, chính vì vậy giáo viên có thể quản lí một cách dễ dàng không vất
vả, đồng thời hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại
đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh ít nên giờ học tập trung hơn, tiếp
thu được nhiều kiến thức khi các em nhận được càng nhiều thông tin từ giáo viên;
Mặc dù hiện nay việc sử dụng phương tiện, thiết bị và ứng dụng công nghệ thông
tin trong các nhà trường được đẩy mạnh song con đường của nó đến với học sinh chủ yếu
là phương pháp truyền thống, do vậy kết quả đạt được chưa cao.
b. Hạn chế của giải pháp cũ
5
Không gian và thời gian có giới hạn thời gian chỉ có 45 phút cho một tiết học và
không gian bó hẹp, khép kín trong một phòng học cho nên học sinh không có cơ hội và
thời gian để quan sát, tìm hiểu, thu thập những tư liệu, tài liệu từ thực tế để làm phong
phú thêm cho bài học.
Đối tượng học là học sinh của một lớp với số lượng không quá 45 em theo sự chỉ
đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Với số học sinh tham gia có giới hạn do đó các em ít
được trao đổi, thảo luận, tương tác, khả năng hòa nhập cộng đồng chưa có. Về phía giáo
viên khi muốn truyền tải một nội dung kiến thức hay một chủ đề nào đó cho học sinh
trong cùng một khối lớp hoặc ở các khối lớp khác nhau lại phải thực hiện nhiều lần, khiến
cho giáo viên vất vả, hoạt động thì lặp đi lặp lại nhưng hiệu quả thu được không cao.
Tư liệu và thiết bị dạy học ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên tranh ảnh, lược đồ,
máy chiếu, loa đài, băng đĩa … giáo viên và học sinh còn có thể thu thập tư liệu, tài liệu,
tranh ảnh... trên mạng Internet nhưng việc sử dụng các nguồn tư liệu, thiết bị và phương
tiện dạy học còn mang tính hình thức chỉ nhằm mục đích minh họa làm phong phú, sinh
động hơn cho nội dung bài giảng của thầy, học sinh phải học thuộc lòng các kiến thức
Hóa học trừu tượng, nhớ các kiến thức một cách máy móc, phải ghi chép nhiều, các em
chưa được quan sát thực tế, chưa có cơ hội thảo luận, hợp tác, phát huy tính tích cực,
không được hòa nhập vào cộng đồng, trải nghiệm thực tế, không chủ động trong việc lĩnh
hội kiến thức từ thực tế…Cụ Thể
1- Tiến trình giải quyết vấn đề tuân theo chiến lược giải quyết vấn đề trong khoa
học vật lý: logic, chặt chẽ, khoa học.. do giáo viên (SGK) áp đặt (Giáo viên là trung tâm).
2- Nếu thành công có thể góp phần đạt tới mức nhiều mục tiêu của môn học hiện
nay: chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hoạt động, bồi dưỡng các phương thưc tư duy
khoa học và các phương pháp nhận thức khoa học: PP thực nghiệm, PP tượng tự, PP mô
hình, suy luận khoa học…)
3- Dạy theo từng bài riêng lẻ với một thời lượng cố định.
4- Kiến thức thu được rời rạc, hoặc chỉ có mối liên hệ tuyến tính (một chiều theo
thiết kế chương trình học).
5- Trình độ nhận thức sau quá trình học tập thường theo trình tự và thường dừng lại
ở trình độ biết, hiểu và vận dụng (giải bài tập).
6- Kết thúc một chương học, học sinh không có một tổng thể kiến thức mới mà có
kiến thức từng phần riêng biệt hoặc có hệ thống kiến thức liên hệ tuyến tính theo trật tự
các bài học.
7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn mà người học đang sống do sự chậm cập nhật của
nội dung sách giáo khoa.
8- Kiến thức thu được sau khi học thường là hạn hẹp trong chương trình, nội dung học.
6
9- Không thể hướng tới nhiều mục tiêu nhân văn quan trọng như: rèn luyện các kĩ
năng sống và làm việc: giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành, ra quyết …
Do không khơi dậy được tình yêu, niềm say mê với môn học cho học sinh nên
chất lượng đại trà, chất lượng mũi nhọn thường chưa cao. Việc lồng ghép, tích hợp kiến
thức của nhiều môn học với nội dung phù hợp cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến các tiết
học trở nên tẻ nhạt, không khắc sâu được kiến thức, học sinh thụ động tiếp nhận kiến
thức chay từ phía giáo viên mà chưa tạo được sự chủ động chiếm lĩnh kiến thức của
người học và học sinh khó áp dụng vào thực tiễn đời sống hàng ngày. Không thể hướng
tới nhiều mục tiêu nhân văn quan trọng như: rèn luyện các kĩ năng sống và làm việc:
Giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành, ra quyết định. Do đó không đạt được mục tiêu yêu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục trong đó chú trọng đổi mới phương pháp,
cách tiếp cận dạy theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh hướng tới Ba
phẩm chất, tám năng lực cho học sinh.
Để khắc phục các khó khăn và tồn tại nói trên nhằm từng bước nâng cao chất lượng
dạy học, cần phải có những chủ trương, biện pháp đúng đắn, kịp thời. Một trong những
biện pháp có tính khả thi và sẽ mang lại hiệu quả cao là đổi mới phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực nhằm phát triển năng lực của người học, có
nghĩa là hình thành và phát triển tính tích cực chủ động, độc lập và sáng tạo đặc biệt là
khả năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết tình huống trong cuộc sống của người
học. Về khía cạnh giáo dục, STEM trang bị cho người học những kỹ năng về tư duy phản
biện và giải quyết vấn đề; kỹ năng làm việc theo nhóm; khả năng tư duy chiến lược và
định hướng mục tiêu; kỹ năng quản lý thời gian.
3. Giải pháp mới cải tiến
3.1. Nội dung cơ bản
Tìm hiểu về mặt lí luận: chương trình dạy học và kiểm tra đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực học sinh; cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp dạy
học theo theo định hướng mới gắn với Stem môn Hóa học THCS.
Phân tích chương trình phần Dung dịch ở lớp 8 để từ đó xây dựng hệ thống các
chủ đề dạy học với định hướng mới gắn với Stem môn Hóa học THCS.
Xây dựng chủ đề học tập áp dụng phương pháp dạy học theo theo định hướng
mới gắn với Stem môn Hóa học THCS trong phần dung dịch hóa học lớp 8: (Chủ đề:
Pha chế dung dịch). Gồm các bước xây dựng ý tưởng, lập kế hoạch thực hiện, xây dựng
bộ câu hỏi định hướng, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính đúng đắn và tính khả thi của đề tài.
Cụ Thể:
Bước 1: Lựa chọn chủ đề giáo dục STEM: Muối ăn và đường glucozo là nguyên
liệu phổ biếndễ kiếm gần gũi với tất cả mọi người chế tạo dung dịch nước muối sinh lý
dung trong sinh hoạt hàng ngày.
Bước 2: Xác định mục tiêu của chủ đề giáo dục STEM:
7
- Khoa học (S): Cách xác định nồng độ phần trăm, nồng độ mol/l của dung dịch cách pha
chế dung dịch theo nồng độ cho trước.
- Công nghệ (T): Sử dụng các nguyên vật liệu dễ tìm và an toàn vệ sinh thực phẩm: muối
ăn nước tinh khiết đường glucozo
- Kĩ thuật (E): Bản quy trình tạo ra dung dịch nước muối sinh lý và dung dịch nước
đường.
- Toán học (M): Định lượng khối lượng, thể tịch của dung dịch cần pha chế
Bước 3: Xác định các vấn đề cần giải quyết trong chủ đề giáo dục STEM:
Nồng độ phần trăm, nồng độ mol/l, cách pha chế dung dịch theo nồng dộ cho trước.
Bước 4: Xác định các nội dung cụ thể cần sử dụng để giải quyết vấn đề trong chủ
đề STEM:
Tên sản phẩm
Pha chế dung
dịch nước muối
Khoa học
Nồng độ phần
trăm
sinh lí
Pha chế nước
tăng lực đường
glucozo
Nồng độ mol/l
Công nghệ
Kỹ Thuật
Cân điện tử, bộ
dụng cụ pha
Thực hành cân
đo , đong và thí
Tính toán số
gam chất
chế( Cốc chia
vạch, muôi,
thìa, đũa thủy
tinh…
nghiệm
tan(muối) và số
gam nước
Cân điện tử, bộ
Thực hành cân
Tính toán số
dụng cụ pha
chế( Cốc chia
vạch, muôi,
đo , đong và thí
nghiệm
gam chất
tan(Đường
glucozo) và số
thìa, đũa thủy
tinh…
Toán học
gam nước
Bước 5: Thiết kế hoạt động học tập: “Vận dụng phương pháp giáo dục Stem trong
bộ môn Hóa học gắn với học qua hành- Sản suất dung dịch nước muối sinh lí và nước
tăng lực đường glucozo hóa học 8”.
Bước 6: Thiết kế các tiêu chí và bộ công cụ kiểm tra, đánh giá HS:
- Học sinh hoàn thành nội dung phiếu đánh giá toàn bộ quá trình.
- GV thiết kế các phiếu tự đánh giá sản phẩm của nhóm mình, phiếu đánh giá do
GV nhận xét, phiếu hỏi về hứng thú HS sau khi thực hiện xong chủ đề. Đây là một
hoạt động rất ý nghĩa và cần thiết khi kết thúc chủ đề STEM
- Điểm sản phẩm mỗi nhóm được tính bằng trung bình cộng điểm do nhóm HS tự
đánh giá và GV đánh giá.
3.2. Tính mới và tính sáng tạo của giải pháp
Phương pháp dạy học theo định hướng mới gắn với Stem môn Hóa học THCS
đạt được các yêu cầu của đổi mới, đó là: định hướng vào người học, định hướng vào thực
tiễn và định hướng vào sản phẩm.
Đã xây dựng và triển khai hiệu quả các nội dung sau:
8
- Xây dựng hệ thống các chủ đề dạy học theo định hướng mới gắn với Stem môn
Hóa học THCS trong toàn bộ phần dung dịch hóa học lớp 8.
- Thực hiện chủ đề Pha chế dung dịch áp dụng phương pháp dạy học theo định
hướng mới gắn với Stem môn Hóa học THCS:
3.3. Đánh giá ưu điểm của phương pháp mới
- Qua việc triển khai các nội dung của sáng kiến trong năm học 2018-2019 vào quá
trình giảng dạy chúng tôi thấy:
+ Ý nghĩa khoa học: Sáng kiến được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học,
cũng như phát huy tính sáng tạo và khả năng tiếp nhận các kiến thức trong việc dạy và học.
+ Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong trường trung học nói chung và bộ
môn Hóa học nói riêng. Sáng kiến cũng góp phần phát huy tính chủ dộng, tích cực, sáng
tạo trong học tập của người học, giúp học sinh vận dụng được kiến thức liên môn trong
việc giải quyết tình huống thực tiễn. Trên cơ sở đó định hướng năng lực cho học sinh.
Sáng kiến cũng đã cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn học và giữa các môn học
ứng dụng trong cuộc sống, đã khắc phục hiện tượng học tập thụ động nhàm chán ở các
môn học, đưa ra phương pháp dạy học tích cực mới- “ Học qua hành”.
+ Việc tiếp thu kiến thức của các em học sinh nhanh hơn
+ Khắc sâu được kiến thức cho học sinh
+ Tạo sự hứng thú học tập bộ môn cho học sinh, nhiều học sinh yêu thích môn học
+ Người học là người chủ động chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Học sinh dễ áp dụng vào đời sống thực tiễn
+ Rèn luện cho học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giải quyết
vấn đề và tư duy phản biển ở góc độ là nhà nghiên cứu, một nhà sản suất, một người sử
dụng sản phẩm.
+ Năng lực giải quyết vấn đề của học sinh tốt hơn. Độ lệch điểm thấp hơn khi chưa
tác động
Trên cơ sở học tập, học sinh tích cực tham gia cuộc thi do nhà trường, Phòng giáo
dục- sở giáo dục và đào tạo phát động. Học sinh luôn tự tin bày tỏ ý tưởng và luôn có những
ý tưởng mới trong học tập
Sáng kiến cũng đã chỉ rõ từng bước tiến hành theo phương pháp STEM, cùng với ví
dụ minh họa “ Pha chế dung dịch theo nồng độ cho trước – sản xuất nước muối sinh lí,
nước đường glucozo” để bất kỳ ai cũng có thể vận dụng phương pháp dạy học mới này
trong dự án của mình
Như vây: Giúp học sinh trở thành một con người phát triển toàn diện và giúp phát
triển năng lực cụ thể cho học sinh. Đáp ứng được mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục ,phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Đồng thời việc đổi mới hình thức tổ
chức hoạt động học trong dạy học nói chung và môn học Hóa học nói riêng phần nào đáp
9
ứng việc hướng tới mục tiêu giáo dục Ba phẩm chất, tám năng lực cho học sinh. Giúp
học sinh biết sống yêu thương; sống tự chủ và sống trách nhiệm, đồng thời hình thành và
phát triển cho học sinh các năng lực chung chủ yếu là: Năng lực tự học; năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ; năng lực thể chất; năng lực giao tiếp; năng
lực hợp tác; năng lực tính toán và năng lực công nghệ thông tin và truyền thông.
Bảng mô tả và minh họa tính mới, tính sáng tạo, tính ưu việt của giải pháp mới
so với giải pháp cũ:
PHẦN I: XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC CHỦ ĐỀ DẠY HỌC ÁP DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG MỚI GẮN VỚI STEM MÔN
HÓA HỌC THCS( CHƯƠNG DUNG DỊCH HÓA HỌC 8)
Giải pháp cũ
Giải pháp mới
- Dạy các bài theo phân phối chương
trình và chuẩn kiến thức kĩ năng.
- Dạy đơn bài.
- Chỉ thực hiện trong phạm vi lớp học,
tiết học 45 phút.
- Trong giờ học chỉ tổ chức được 1 đến 2
hoạt động nhóm cho học sinh thảo luận.
- Không thực hiện được các hoạt động
trải nghiệm cho học sinh.
PHẦN II: CHỦ ĐỀ CỤ THỂ
Về nội dung kiến thức
Giải pháp cũ
Chủ đề
- Xây dựng được kế hoạch thực hiện và ý
tưởng một cách chi tiết cho cả chủ đề: (8
tiết)
+ Nồng độ dung dịch – Pha chế dung dịch
trong đời sống và sản xuất.
+ Pha chế và tiến tới sản xuất dung dịch
nước muối sinh lý nước đường với vấn đề
môi trường, an toàn thực phẩm và bảo vệ
sức khỏe.
Pha chế
dung dịch
theo nồng
độ cho
trước
Giải pháp mới
Nồng độ phần trăm- Pha - Gộp hai bài 4 tiết thành một chủ đề.
chế dung dịch theo nồng Vấn đề thực tiễn
độ phần trăm cho trước Pha chế dung dịch nước muối sinh lí
Nồng dộ mol/l- Pha chế Pha chế dung dịch nước tăng lực: đường
dung dịch theo nồng độ glucozo
Dể giải thích và hiểu sau khái niệm nồng độ
mol cho trước
phần tram và nồng độ dung dịch cách tính
toán pha chế.
Sản phẩm ứng dụng
Pha chế dung dịch nước muối sinh lí dùng
trong sinh hoạt hàng ngày
Pha chế dung dịch nước tăng lực đường
glucozo
Chủ đề STEM
10
Sản suất nước muối sinh lí dùng trong đời
sống hàng ngày
ứng dụng trong chăm sóc sức khỏe
Về tổ chức dạy học
Giải pháp cũ
Nội dung
Địa điểm
Cách thức
- Trong lớp học
- Giáo viên: Đóng vai
trò trung tâm, lập kế
hoạch và điều khiển các
hoạt động học tập. Thậm
chí còn truyền thụ kiến
thức áp đặt một chiều.
- Học sinh:
+ Thảo luận nhóm trong
phạm vi lớp học.
+ Trong giờ học chỉ tổ
chức được 1, 2 hoạt
động nhóm từ 3-5 phút,
chỉ có những học sinh
tích cực tham gia, không
huy động được cả nhóm.
+ Chủ yếu là nghe giảng,
ghi chép.
+ Không tự chủ trong
các hoạt động của mình.
+ Phát hiện ra kiến thức
nhờ sự truyền thụ của
giáo viên.
Giải pháp mới
- Trong và ngoài lớp học
- Giáo viên: Đóng vai trò định hướng, giám
sát các hoạt động học tập.
- Học sinh:
Bước 1: xác định mục tiêu
Học sinh được giao viên cho tự
nghiên cứu kiến thức khoa học trên mọi tư
liệu mạng intonet sách khoa học, thực
tiễn…, quyết định kiến thức, lựa chọn mục
tiêu của chủ đề. Trong chủ đề có sự liên hệ
nội dung học tập với hoàn cảnh thực tiễn và
đời sống xã hội.
Bước 2: Xây dựng đề cương và kế hoạch
thực hiện
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh xác định những công việc cần làm, thời
gian nghiên cứu, dự trù kinh phí, vật liệu,
phương pháp tiến hành và phân công công
việc trong nhóm.
Bước 3: Thực hiện
Học sinh thu thập và xử lí thông tin,
làm việc nhóm và cá nhân theo kế hoạch đã
đề ra. Các hoạt động trí tuệ và hoạt động
thực hành, thực tiễn trải nghiệm sáng tạo
được thực hiện xen kẽ và tác động qua lại
với nhau, từ đó tạo ra sản phẩm của nhóm.
Như vậy, kiến thức được tích lũy qua quá
trình làm việc và được thử nghiệm qua thực
hành thực tiễn tiễn.
Bước 4: Thu thập kết quả và công bố sản
phẩm
Tất cả học sinh (theo nhóm hoặc cá
11
nhân) cần được tạo điều kiện để trình bày kết
quả cùng với kiến thức mới mà mình đã tích
lũy thông qua quá trình thực hiện.
* Đánh giá: Học sinh được tham gia cùng
giáo viên đánh giá; tự đánh giá bản thân;
đánh giá chéo các bạn trong nhóm và các
nhóm khác.
Về hiệu quả dạy học
Giải pháp cũ
Nội dung
- Kết quả kiểm tra đánh
giá: Tỉ lệ học sinh đạt
điểm khá giỏi chiếm tỉ lệ
thấp (dưới 20%) và
Kết quả học không ổn định, vẫn còn
tập của học học sinh đạt điểm yếu.
sinh
- Không khí lớp học:
chưa thực sự sôi nổi, vẫn
có những học sinh chưa
tích cực tham gia vào
các hoạt động.
Phát triển cho học sinh
các năng lực:
- Năng lực sử dụng ngôn
ngữ hoá học.
- Năng lực thực hành
Phát triển hoá học.
- Năng lực tính toán.
năng lực
- Năng lực vận dụng các
học sinh
kiến thức lí thuyết vào
cuộc sống.
- Thường là các bài kiểm
tra trên lớp.
- Tùy vào phương pháp
Sản phẩm
giảng dạy đôi khi cũng
của học sinh
có sản phẩm là các bản
báo cáo, trình chiếu
nhưng ít và không
Giải pháp mới
- Kết quả kiểm tra đánh giá: Tỉ lệ học sinh
đạt điểm khá giỏi chiếm tỉ lệ cao (trên
65%) và có xu hướng tăng dần qua các lần
kiểm tra.
- Không khí lớp học: Học sinh chủ động,
say mê tìm hiểu kiến thức, thảo luận sôi nổi,
đồng thời mạnh dạn trình bày kết quả. Các
giờ học hào hứng và hiệu quả.
Ngoài phát triển các năng lực như giải pháp
cũ, còn phát triển:
- Năng lực tích hợp kiến thức liên môn.
- Năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn mang
tính tích hợp.
- Năng lực linh hoạt sáng tạo.
- Năng lực nghiên cứu khoa học.
- Năng lực tự điều chỉnh.
- Năng lực đáng giá.
- Văn hóa công nghệ và thông tin truyền
thông
- Kỹ năng làm việc theo nhóm
- Kỹ năng thuyết trình
- Sự hợp tác đồng bộ và hợp lý của các thành
viên trong nhóm, Kỹ năng thuyết trình…)
- Số lượng, chất lượng câu hỏi, tình huống
đặt ra cho nhóm bạn, chất lượng trả lời của
các nhóm trong hoạt động thảo luận.
Sản phẩm sản xuất nước muối sinh lý và ứng
dụng trong cuộc sống hàng ngày bảo vệ sức
12
thường xuyên.
khỏe con người
III. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được
1. Hiệu quả về kinh tế:
* Thể hiện rõ lợi ích có thể đạt được đến quá trình giáo dục.
Thực hiện việc dạy học: “Vận dụng phương pháp giáo dục Stem trong bộ môn
Hóa học gắn với học qua hành- Sản suất dung dịch nước muối sinh lí và nước tăng lực
đường glucozo hóa học 8”.
- Dạy học gắn với đời sống nếu được thực hiện sẽ tạo hứng thú học tập cho học sinh
gần gũi với đời thường để khoa học không còn xa vời với đời sống mà khoa học có ngay
trong đời sống của con người. Đây là bước đầu giúp hình thành được cơ sở cho việc biên
soạn lại bộ sách giáo khoa mới phục vụ nhu cầu tiếp cận kiến thức sâu rộng gắn liền với
thực tiến của học sinh.
- Có cơ hội phát triển ý tưởng cải tiến kỹ thuật trong cuộc sống hàng ngày để tăng
năng suất lao động đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Giải pháp đã cung cấp cho học sinh và giáo viên các tư liệu có thể thay thế các
sách tham khảo, thiết kế trên thị trường với giá trị như sau:
- Đề tài tương đương với một cuốn sách thiết kế bài giảng. Giá tính bình quân mỗi
cuốn sách tham khảo là 25.000 VNĐ. Như vậy với số lượng học sinh khối 8 của một
trường khoảng 90 học sinh sẽ tiết kiệm được: 90 x 15.000 = 1.350.000 VNĐ.
- Nếu áp dụng trong toàn Huyện Nho Quan với 27 trường THCS, thì số tiền làm
lợi là: 1.350.000 x 27 = 36.4500.000 VNĐ (Ba sáu triệu bốn trăm năm mươi nghìn
đồng chẵn.)
- Nếu áp dụng trong toàn tỉnh Ninh Bình với 141 trường THCS, thì số tiền làm lợi
là: 1.350.000 142 = 191.700.000 VNĐ (Một trăm chín mốt triệu bảy trăm nghìn đồng
chẵn.)
Nếu áp dụng trong sản xuất nước muối sinh lý dung trong sinh hoạt hang
ngày:
Huyện nho quan có tổng: 148514 người mỗi tháng sử dụng 01 chai nước muối
650ml: 1 tháng sử dụng hết 148514 chai nước muối tiết kiệm: 148.514 x 6.000 =
891.084.000 VNĐ) (Tám trăm chín mươi một triệu không tram tám mươi tư nghìn
đồng chẵn.)
Ninh Bình có tổng số dân: 982487người số tiền tiết kiệm sẽ lớn hơn rất nhiều
Phần hình ảnh minh họa có trong phụ lục
2. Hiệu quả về xã hội.
2.1. Kết quả đạt được:
13
2.1.1. Thực trạng chất lượng môn Hóa học sau khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm năm học 2018- 2019 ( Trường THCS Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn) trong huyện
Nho Quan.
Chất lượng đại trà trung bình
Năm học
(%) Số HS
Loại Giỏi
(%) Số HS
Loại Khá
(%) Số HS
Loại Trung bình
(%) Số HS
Loại Yếu
2018- 2019
10,8
38,8
47,4
3
Bảng 1.4. Thực trạng chất lượng đại trà môn Hóa học trong năm học
2018- 2019 của( Trường THCS Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn) trong huyện
Qua bảng khảo sát trên tôi thấy chất lượng học sinh khá giỏi tăng lên rõ rệt học sinh yếu
giảm đi rất nhiều.
2.1.2. Số học sinh yêu thích môn học.
- Tôi trưng cầu ý kiến của 150 học sinh của ( Trường THCS Lạc Vân, Đức Long,
Phú Sơn) trong huyện về sự yêu thích môn Hóa học. (Kết quả khảo sát trung bình thể hiện ở
bảng 1.5).
Năm học
2018 - 2019
Tổng số học sinh
Số học sinh yêu thích môn Hóa học
Số HS
Số HS
(%)
150
146
96
Bảng 1.5. Thực trạng sự yêu thích môn Hóa học trong năm học 2018-2019
Như vậy trước đây số học sinh yêu thích môn hóa học còn rất thấp vì các em cho
là bộ môn khó nhiều kiến thức trừu tượng các em không biết giải thích các hiện tượng
thực tế không có ý nghĩa trong cuộc sống thì sau khi áp dụng đề tài các em yêu rất thích
môn học đã giải thích được nhiều hiện tượng thực tế và mong được học tập .
2.1.3. Số học sinh được tiếp cận và ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực
năm học 2018- 2019.
- Chúng tôi lấy ý kiến của 150 học sinh của trường ( Trường THCS Lạc Vân, Đức
Long, Phú Sơn) trong huyện, về khả năng tiếp cận và ứng dụng phương pháp STEM. Kết
là.
Đánh giá về mức độ tiếp cận phương pháp dạy học theo mô
Số ý Tỷlệ
hình STEM gắn với học qua hành, và ứng dụng giải thích các
kiến
%
hiện tượng thực tế đời sống
Chưa được biết cách học học theo mô hình STEM gắn với học qua
0
hành, và ứng dụng giải thích các hiện tượng thực tế đời sống
0
Thường xuyên áp dụng cách học STEM gắn với đời sống
144
96
Áp dụng bình thường cách học STEM gắn với đời sống
6
4
Rất ít áp dụng cách học STEM gắn với đời sống
0
0
14
Chỉ học theo lý thuyết không liên quan đến thực tế
0
0
Bảng 1.6. Ý kiến của học sinh về tiếp cận và ứng dụng các phương pháp các
phương pháp dạy học gắn với thực tiễn đời sống: 2018- 2019 của trường ( Trường THCS
Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn) trong huyện - Nho Quan- Ninh Bình.
- Kết quả ở bảng 1.6 cho thấy phần lớn học sinh chưa được tiếp cận và với cách
học gắn với thực tiễn, các em không còn chỉ học theo lý thuyết không liên quan đến thực
tế nữa hiệu quả chất lượng được nâng cao.
2.1.4. Kết quả thực nghiệm sư phạm : Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm sư
phạm theo định hướng mới gắn với Stem môn Hóa học THCS trong phần dung dịch
hóa học lớp 8: (Chủ đề: Pha chế dung dịch)STEM” với 90 HS lớp thực nghiệm (TN) của
3 trường tại Nho quan là Trường ( THCS Lạc Vân, Đức Long, Phú Sơn)- Nho Quan
năm học 2018-2019; đã thiết kế giáo án, lên kế hoạch bài dạy và tiến hành triển khai
hoạt động, đánh giá sản phẩm của các nhóm HS. Các nhóm đều có sản phẩm, chất lượng
tốt. Kết quả được tính bằng trung bình cộng điểm do HS tự đánh giá và GV đánh giá
Chúng tôi đã sử dụng bảng kiểm soát dành cho GV là công cụ để đánh giá năng lực giải
quyết vấn đề (NLGQVĐ) của HS lớp TN trước tác động và sau khi tác động. Sau khi
phát cho các GV tại 3 trường, chúng tôi đã tổng hợp kết quả như sau
Tra tên các tiêu chí theo số thứ tự: 1) Phân tích, xác định được mục tiêu, tình
huống, nhiệm vụ học tập của chủ đề STEM;2) Đề xuất câu hỏi định hướng nghiên cứu
cho chủ đề STEM đã lựa chọn :3) Xác định và tìm kiếm nguồn thông tin phù hợp với chủ
đề STEM; 4) Lập kế hoạch thực hiện chủ đề STEM; 5) Đề xuất được một số giải pháp
GQVĐ đặt ra; 6) Thực hiện kế hoạch đặt ra một cách hiệu quả; 7) Xây dựng sản phẩm
nghiên cứu chủ đề STEM khoa học, sáng tạo; 8) Trình bày sản phẩm của chủ đề STEM
khoa học, rõ ràng, logic; 9) Tự đánh giá qua thực hiện chủ đề STEM và sản phẩm chủ đề
STEM; 10) Tự điều chỉnh và vận dụng vào bối cảnh tương tự hoặc tình huống mới.
Lớp TN sau tác động
Số HS đạt mức điểm
1,0
2,0
3,0
4,0
Các
tiêu
chí số
1
2
3
4
5
6
7
8
9
3
5
5
6
1
3
7
3
7
10
18
10
15
17
18
15
5
13
32
32
35
34
34
32
32
42
37
45
35
40
35
38
37
36
40
33
Điểm
trung
bình
tiêu
chí
3,32
3,03
3,22
3,09
3,21
3,14
3,08
3,32
3,07
Lớp TN Trước tác dộng
Số HS đạt mức điểm
1,0
2,0
3,0
4,0
18
21
18
10
21
16
14
14
14
22
22
27
28
19
27
25
30
26
20
32
31
30
20
32
34
21
34
30
15
14
12
30
15
17
27
15
Điểm
trung
bình
tiêu
chí
2,69
2,45
2,56
2,26
2,65
2,51
2,6
2,72
2,53
15
10
1
19
34
36
3,19
24
22
33
11
2,34
Điểm trung bình NLGQVĐ của lớp
Điểm trung bình NLGQVĐ của lớp
TN sau tác động = 3,17
TN trước tác động = 2,53
Chênh lệch điểm trung bình = 0,64
Bảng 1.6. Bảng đánh giá sự tiến bộ NLGQVĐ của lớp TN trước tác động và sau tác động
35
3,19
30
3,07
20
15
10
5
10
9
8
7
6
5
4
3
2
1
3,32
2,34
2,53
2,72
2,6
2,51
2,65
2,26
2,56
2,45
2,69
25
3,08
3,14
3,21
3,09
3,22
3,03
3,32
0
1
2
Bảng 1.7: Biểu đồ điểm trung bình các tiêu chí đánh giá NLGQVĐ ở lớp TN
1. Điểm trung bình NLGQVĐ của lớp TN trước tác động
2. Điểm trung bình NLGQVĐ của lớp TN sau tác động
- Điểm trung bình các tiêu chí đánh giá NLGQVĐ ở lớp TN sau tác động cao hơn
lớp TN trước tác động. Sự chênh lệch về giá trị trung bình đó là 0,64 cho thấy rằng các
phương pháp dạy học định hướng STEM đã tác động lớn vào việc phát triển NLGQVĐ
cho HS
7
6
5
4
3
2
1
0
Sau tác động
Trước tác động
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Bảng 1.8 Biểu đồ sự tiến bộ NLGQVĐ, NLGQVĐ
16
- Theo biểu đồ sự tiến bộ NLGQVĐ, NLGQVĐ của lớp TN sau tác động đều tăng
dần trong quá trình rèn luyện, thể hiện ở các hình bên trái, đồ thị biểu diễn mỗi tiêu chí
đều đi lên; ở các hình bên phải đường biểu diễn điểm trung bình các tiêu chí của lớp TN
sau tác động đều nằm ở phía trên cao hơn so với lớp TN trước tác động.
IV. Điều kiện và khả năng áp dụng sáng kiến
1. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
- Để dạy và học bộ môn hóa học đạt hiệu quả trước hết cần có đầy đủ trang thiết bị
cho dạy và học như: Phòng học bộ môn đạt tiêu chuẩn, cán bộ chuyên trách phòng thiết
bị được đào tạo bài bản (không kiêm nhiệm), các trang thiết bị hiện đại (máy chiếu đa
năng, máy vi tính
- Các dụng cụ hóa chất đầy đủ, chất lượng tốt.
- Giáo viên có tâm huyết với nghề, với bộ môn, không ngại khó ngại khổ, khắc
phục khó khăn để thực hiện đầy đủ đổi mới phương pháp dạy học
- Đầu tư thỏa đáng cho giáo dục: Ngân sách, con người, cơ sở vật chất, trang thiết
bị hiên đại, cập nhật.
- Cụ thể
+ Đối với giáo viên: Phải kiên trì đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các vấn đề hoá
học, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy hóa học để có bài giảng thu hút được học sinh.
+ Với nhà trường: Tăng cường đầu tư trang thiết bị dạy học,ngân sách, trang bị
cho giáo viên thêm những tài liệu tham khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên
trong quá trình giảng dạy nói chung và phục vụ cho bộ môn đặc thù như môn Hóa học
nói riêng để đạt hiệu quả cao hơn. Phối hợp cùng phụ huynh học sinh và xã hội cùng
tham gia giáo dục.
+ Với phòng GD & ĐT và Sở GD &ĐT: Tổ chức các chuyên đề để trao đổi kinh
nghiệm phương pháp để tạo hứng thú học tập cho học sinh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
giáo viên... đảm bảo nguồn lực để dễ dàng thực hiện dạy học theo phương pháp STEM,
Như vậy ngày nay, khi việc áp dụng công nghệ tin học vào giảng dạy rất phổ biến;
cơ sở vật chất của các trường học tương đối tốt; công nghệ thông tin phát triển; năng lực
của đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao; trình độ nhận thức, sự linh hoạt, sáng tạo
của học sinh cũng được đánh giá tốt; ngoài ra còn có sự quan tâm, giúp đỡ hết sức nhiệt
tình của các bậc cha mẹ học sinh thì việc vận dụng đề tài trên là không thể không thực
hiện được.
2. Khả năng áp dụng sáng kiến.
Chúng tôi đã áp dụng giải pháp trên trong môn Hóa học tại trường mình. Tôi nhận
thấy khả năng áp dụng của giải pháp trên đối với các trường THCS là hoàn toàn khả thi
luôn mang lại hiệu quả nhằm phát triển năng lực cho học sinh không những thế đối với
các môn khoa học tự nhiên trong các trường THCS khác cũng có thể áp dụng và sẽ mang
lại hiệu quả cao.
17
Với thực trạng học Hoá học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, chúng tôi
mong rằng với sáng kiến này sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng học Hoá học đáp
ứng được phần nào trong giáo dục phổ thông mới. Mặc dù đã cố gắng song không thể
tránh được các thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các
thầy giáo, cô giáo để sáng kiến của chúng tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Nho Quan ngày 07 tháng 9 năm 2019
NGƯỜI NỘP ĐƠN
Bùi Văn Bình.
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO SỞ GIÁO DỤC
18
PHỤ LỤC
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA DẠY HỌC THEO DỰ ÁN
I.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn.
I.1.1. Cơ sở lý luận
Để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Hóa học, trong đó vấn đề đặt ra là làm
thế nào để học sinh ngày càng quan tâm, yêu thích môn Hóa học, chúng ta đã bàn nhiều
đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt, hình thức truyền thụ, xem việc thuyết
giảng là chính đã trở nên đơn điệu, xơ cứng, không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
Mối quan tâm của giáo viên giảng dạy Hóa học ở nhà trường phổ thông là phát huy tính
chủ động, sáng tạo của học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục, khơi gợi niềm say mê hứng
thú học tập bộ môn nghiên cứu khoa học.
Căn cứ Hướng dẫn số 791/HD-BGDĐT ngày 25/6/2013 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo (GD&ĐT) về việc hướng dẫn thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường
phổ thông bắt đầu từ năm học 2013-2014;
Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao trách nhiệm cho Bộ GD&ĐT thúc đẩy triển
khai giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số
trường phổ thông ngay từ năm học 2017-2018.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT về tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học(
PPDH), được sự chỉ đạo, quan tâm của Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT Nho Quan xác định:
việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giảng dạy, tạo điều kiện cho
học sinh hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, khuyến khích đặt câu hỏi xây dựng
bài học, mạnh dạn thảo luận xây dựng các phương án thực hành trong hoạt động nhóm.
Từ đó học sinh luôn có niềm đam mê với khoa học nhiều hơn, đặc biệt luôn yêu thích
môn học Hóa học.
Phương pháp STEM với những ưu điểm của nó sẽ là một phương pháp hiệu quả
để học sinh hình thành và phát huy năng lực bản thân, từng bước khám phá các kiến thức
hóa học quanh ta.Việc phát triển giáo dục STEM trong chương trình mới là tất yếu vì
mục tiêu của chương trình STEM cũng là hình thành những phẩm chất năng lực mà
chương trình GDPT đang hướng tới..Dạy như hiện nay theo cách \"chẻ từng chữ trong
SGK để dạy\" thì STEM không có chỗ, nhưng nếu học sinh tự đọc tài liệu, tự thực hành
để có hiểu biết, năng lực vận dụng vào thực tiễn thì đó là giáo dục STEM
Khái niệm về mô hình STEM
Mô hình giáo dục STEM là quá trình tích hợp kiến thức giữa các môn khoa học,
kỹ thuật, toán học, công nghệ, qua đó giúp HS hình thành kiến thức tổng hợp về các bộ
môn này và hình thành kỹ năng sống.
Mục tiêu của STEM là xây dựng cho HS các kỹ năng được kết hợp hài hòa từ kiến
thức của các bộ môn nói trên để sử dụng khi làm việc trong thế giới công nghệ ngày nay.
19
Những kỹ năng STEM là tích hợp của 4 kỹ năng:
- Kỹ năng khoa học: Học sinh được trang bị những kiến thức về các khái niệm, các
nguyên lý, các định luật và các cơ sở lý thuyết của giáo dục khoa học. Mục tiêu quan
trọng nhất là thông qua giáo dục khoa học, học sinh có khả năng liên kết các kiến thức
này để thực hành và có tư duy để sử dụng kiến thức vào thực tiễn để giải quyết các vấn
đề trong thực tế.
- Kỹ năng công nghệ : Học sinh có khả năng sử dụng, quản lý, hiểu biết, và truy
cập được công nghệ, từ những vật dụng đơn giản như cái bút, chiếc quạt đến những hệ
thống phức tạp như các loại máy móc.
- Kỹ năng kỹ thuật : Học sinh được trang bị kỹ năng và hiểu được quy trình để làm
ra nó. Vấn đề này đòi hỏi học sinh phải có khả năng phân tích, tổng hợp và kết hợp để
biết cách làm thế nào để cân bằng các yếu tố liên quan (như khoa học, nghệ thuật, công
nghệ, kỹ thuật) để có được một giải pháp tốt nhất trong thiết kế và xây dựng quy trình.
Ngoài ra HS còn có khả năng nhìn nhận ra nhu cầu và phản ứng của xã hội trong những
vấn đề liên quan đến kỹ thuật.
- Kỹ năng toán học: Là khả năng nhìn nhận và nắm bắt được vai trò của toán học
trong mọi khía cạnh tồn tại trên thế giới. HS có kỹ năng toán học sẽ có khả năng thể hiện
các ý tưởng một cách chính xác, có khả năng áp dụng các khái niệm và kĩ năng toán học
vào cuộc sống hằng ngày.
Ngoài ra mô hình giáo dục STEM cũng trang bị cho học sinh những kỹ năng phù
hợp để phát triển gồm những kỹ năng chính:
- Tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề
- Kỹ năng trao đổi và cộng tác
- Tính sáng tạo và kỹ năng phát kiến
- Văn hóa công nghệ và thông tin truyền thông
- Kỹ năng làm việc theo dự án
- Kỹ năng thuyết trình
Khi học sinh học theo cách tiếp cận giáo dục STEM đều có những ưu thế nổi bật
như: kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học chắc chắn, khả năng sáng tạo,
tư duy logic, hiệu suất học tập và làm việc vượt trội và có cơ hội phát triển các kỹ năng
mềm toàn diện hơn trong khi không hề gây cảm giác nặng nề, quá tải đối với học sinh.
Với học sinh (HS) việc theo học các môn học STEM còn có ảnh hưởng tích cực tới khả
năng lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Khi được học nhiều dạng kiến thức trong một thể
tích hợp, HS sẽ chủ động thích thú với việc học tập thay vì thái độ e ngại hoặc tránh né
một lĩnh vực nào đó, từ đó sẽ khuyến khích các em có định hướng tốt hơn khi chọn
chuyên ngành cho các bậc học cao hơn và sự chắc chắn cho cả sự nghiệp về sau.
20
- Xem thêm -