I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm
một vị trí vô cùng quan trọng góp phần hình thành cho học sinh
những cơ sở ban đầu cần thiết đối với sự phát triển đúng đ ắn lâu
dài về nhiều mặt: tình cảm, trí tuệ, thể chất và nhân cách. Môn
Toán góp phần rèn luyện phương pháp tư duy, suy luận, sáng tạo
của học sinh, không những thế môn Toán lại rất gắn bó và gần gũi
với cuộc sống con người. Môn toán góp phần kích thích học sinh suy
nghĩ độc lập, linh hoạt và biết sáng tạo tính toán những bài toán
thực tế. Học toán ở Tiểu học không những trang bị những kiến
thức cơ bản giúp các em học tiếp ở THCS mà còn cung cấp những
kiến thức giúp học sinh sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy
giúp học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản ban đầu
về Toán học không phải đơn giản bởi: Toán học rất đa dạng, phong
phú, có nhiều loại bài toán ở nhiều dạng khác nhau với những mạch
kiến thức khác nhau.
Trong chương trình môn Toán lớp 5, một trong những nội
dung khá mới và quan trọng đối với học sinh đó là bài toán v ề “ Tỉ
số phần trăm”. Mảng kiến thức về “Tỉ số phần trăm” là một dạng
toán khó, trừu tượng. Thế nhưng thời lượng dành cho phần này l ại
quá ít, chỉ với 8 tiết vừa hình thành kiến thức mới, vừa luyện tập.
Qua xem xét chương trình và từ thực tế chúng ta càng thấy rõ hơn
tầm quan trọng và những ứng dụng của việc tính giá trị phần trăm
trong công việc và đời sống hàng ngày.
Thực tế việc dạy học giải toán về tỉ số phần trăm gặp không
ít khó khăn, bởi đây là loại toán khó, xuất hiện những khái ni ện mới
lạ và trừu tượng như tỉ số phần trăm, giá trị tỉ số phần trăm, thực
hiện một số phần trăm kế hoạch, vượt mức một số phần trăm kế
hoạch, tiền vốn, tiền lãi, tiền bán, số phần trăm lãi…Mặt khác các
em đã được làm quen với các dạng toán cơ bản như: dạng toán tìm
hai số khi biết tổng và hiệu, tổng và tỉ, hiệu và tỉ với các dạng toán
này học sinh chỉ cần vẽ sơ đồ là các em có thể dễ dàng tìm ra lời
giải. Tuy nhiên với dạng toán tìm tỉ số phần trăm thì không dễ dàng
như vậy, mặc dù đã biết cách tìm tỉ số phần trăm nhưng những bài
toán áp dụng trong đời sống hàng ngày về tỉ số phần trăm vẫn là
điều khó với một số học sinh.
Chúng ta biết rằng đa số các dạng toán mới đều có nhi ều
cách dắt dẫn, khai thác bài học khác nhau. Người giáo viên cần ph ải
biết lựa chọn phương án nào hay nhất, phù hợp với trình độ học
sinh của lớp phụ trách để tổ chức cho học sinh tích cực học tập
chủ động nắm bắt kiến thức bài học một cách say mê, có sáng tạo,
để tiết học diễn ra không đơn điệu, học sinh không nhàm chán và
hứng thú với giờ học, đồng thời phát huy triệt để tính tích cực sáng
tạo của học sinh dẫn đến chất lượng dạy và học đạt kết quả tốt.
Với thực tế nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 5; bản thân
tôi đã nghiên cứu chương trình, tham khảo thêm một số tài li ệu, tạp
chí giáo dục kết hợp dự giờ các giáo viên dạy lớp 5, từ đó tôi đã
mạnh dạn nêu ra, đóng góp ý kiến cho đội ngũ giáo viên gi ảng d ạy
khối 5 của trường tôi trong năm học vừa qua; và tôi đã rút ra đ ược
một số kinh nghiệm để đưa ra phương án: Dạy “Giải toán về tỉ số
phần trăm” theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh lớp 5.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN .
Việc dạy - học bài toán Tỉ số phần trăm không chỉ củng cố kiến
thức toán học có liên quan mà còn giúp học sinh gắn học với hành,
gắn nhà trường với thực tế cuộc sống lao động và sản xuất của xã
hội. Qua việc học các bài toán về Tỉ số phần trăm, học sinh có hi ểu
biết thêm về thực tế, vận dụng được vào việc tính toán trong thực
tế như: Tính tỉ số phần trăm học sinh theo giới hoặc theo xếp loại
học lực của lớp, của trường, Tính tỉ số phần trăm tiền vốn hoặc
tiền lãi khi mua bán, khi gửi tiết kiệm, tính sản phẩm làm được theo
kế hoạch dự định...Nhưng Việc dạy học bài toán Tỉ số phần trăm
không dễ đối với cả giáo viên và học sinh Tiểu học. Để tìm ra
phương pháp dạy học - bài toán Tỉ số phần trăm sao cho phù hợp,
không lúng túng, không đơn điệu, nhàm chán, hiểu ki ến thức cơ
bản và biết vận dụng để giải toán về tỉ số phần trăm là một vấn đề
đặt ra cho người giáo viên. Yêu cầu người giáo viên phải xác đ ịnh
rõ yêu cầu về nội dung, mức độ cũng như phương pháp dạy học
nội dung này. Từ đó nhằm tạo ra phương pháp dạy học phù hợp,
đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
2.2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC GIẢI TOÁN VỀ TỈ SỐ PHẦN
TRĂM.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 5 ở trường Tiểu học, tôi
thấy việc dạy - học “Giải toán về tỉ số phần trăm” còn hạn chế hơn
so với các dạng toán khác như: Không phân loại được dạng toán,
chưa hiểu đề còn nhầm lẫn giữa cách giải các dạng toán … Nguyên
nhân của hạn chế trên là vì dạng toán “Giải toán về tỉ số phần
trăm” là dạng toán mới, khó và trừu tượng. Học sinh thường lúng
túng trong việc phân tích mối quan hệ của các dữ kiện để tìm ra
cách giải, chưa nắm được phương pháp giải. Chính vì thế kết quả
học tập của học sinh còn chưa cao, số lượng học sinh khá, giỏi còn
thấp, số lượng học sinh trung bình và yếu còn nhiều.
Năm học 2013 - 2014 sau khi học xong phần “Giải toán về tỉ số phần trăm” tôi
đã cho học sinh lớp 5B trường Tiểu học Luận Thành 1 làm bài kiểm tra và đạt kết quả
như sau:
Lớp Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5B
22
2
9
4
18
14
64
2
9
Qua bảng số liệu ta thấy kết quả “Giải toán về tỉ số phần
trăm” của học sinh chưa cao học sinh trung bình còn nhi ều và có cả
học sinh yếu. Từ kết quả trên tôi tìm hiểu nguyên nhân của thực
trạng trên như sau:
1.Về phía giáo viên:
Với những bài toán giải nói chung, giáo viên đã cố gắng khai
thác bài dạy để học sinh hiểu bài. Thường xuyên chú trọng khai
thác triệt để việc tìm hiểu đề, đặc biệt là các bài toán khó, sau đó
học sinh tự tóm tắt tự giải.
Trên thực tế khi dạy “Giải toán về tỉ số phần trăm” giáo viên
đã giúp học sinh nhận dạng toán, biết vận dụng để gi ải các bài toán
đơn giản dạng này. Đó là ba dạng cụ thể:
Dạng tìm tỉ số phần trăm của hai số.
Dạng tìm một số phần trăm của một số.
Dạng tìm một số khi biết một số phần trăm của số đó.
2. Về phía học sinh
Trong giờ học các em sôi nổi phát biểu ý kiến, tiếp thu bài
nhanh, làm được các bài toán ở dạng cơ bản nhưng chưa hiểu
được bản chất của dạng toán dẫn đến chóng quên.
Các em chưa nắm kĩ phương pháp giải từng loại toán, chưa
xác lập phép tính và câu lời giải phù hợp.Việc “Giải toán về tỉ số
phần trăm” đối với các em còn gặp rất nhiều khó khăn, các em
chưa tìm tòi các phương pháp giải và cách giải khác nhau.
Qua nhiều năm là giáo viên trực tiếp dạy lớp 5. với nỗi trăn
trở về những vướng mắc chưa tìm ra cách gỡ, tôi mạnh dạn áp
dụng một số biện pháp sau:
2.3.
BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Năm học 2014 – 2015 tôi được chuyển công tác về trường
Tiểu học Thị Trấn đây là một trường trung tâm của huyện nên đi ều
kiện kinh tế, xã hội, trình độ dân trí, sự quan tâm c ủa các ban
ngành, của phụ huynh đối với giáo dục hơn hẳn so với các trường
khác trên địa bàn huyện. Trình độ học sinh, chất lượng học sinh và
phong cách học tập của học sinh của trường cũng có phần khác
biệt. Trường là một trong ba trường đang áp dụng Mô hình Trường
học mới tại Việt Nam. Phương pháp dạy lấy học sinh làm trung tâm
giáo viên là người tổ chức cho học sinh hoạt động để khám phá
chiếm lĩnh các kiến thức và kỹ năng mới để từ đó năng lực học tập
của học sinh được hình thành và phát triển. Tuy nhiên với kinh
nghiệm và kiến thức phong phú giáo viên trở thành ng ười g ợi mở,
nêu vấn đề để học sinh tự tìm ra tri thức. Chính vì v ậy tôi đã đ ề
xuất và được sự đồng ý của Ban giám hiệu và tổ chuyên môn tôi đã
mạnh dạn đưa raphương án: Dạy “Giải toán về tỉ số phần trăm”
theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh l ớp 5 nh ư
sau:
1. Trước hết giáo viên hiểu rằng “Giải toán về tỉ số phần
trăm” có cấu trúc riêng và phương pháp giải riêng. Các bài toán
dạng “Giải toán về tỉ số phần trăm” đều khó và phức tạp. Để giải
tốt được dạng toán này, trước tiên giáo viên cần phải có phương
pháp dẫn dắt giúp học sinh xác định đúng và nắm chắc các d ạng
toán cơ bản về “Tỉ số phần trăm”.
Dạng 1: Tìm tỉ số phần trăm của hai số.
Dạng 2: Tìm một số phần trăm của một số.
Dạng 3: Tìm một số khi biết một số phần trăm của số đó.
Các em cần đọc kĩ đề bài, xác định rõ yêu cầu của đ ề bài đ ể
tránh lẫn lộn giữa các dạng toán trên. “Giải toán về tỉ số phần
trăm” cách giải đơn giản, phần lí thuyết để ghi nhớ cách gi ải ng ắn
gọn. Song các ngôn ngữ trong bài toán thường trừu tượng gây tâm
lí ngại suy nghĩ, thậm chí sợ khi nhắc đến “Giải toán về tỉ số phần
trăm” chính vì vậy giáo viên cần cho học sinh làm quen với các ngôn
ngữ trong bài toán.
2. Giúp học sinh có kĩ năng vận dụng các phương pháp, thủ
thuật thích hợp với từng loại toán.
Để giải quyết được vấn đề nêu trên, trong quá trình dạy học
“Giải toán về tỉ số phần trăm”giáo viên cần giúp học sinh phân bi ệt
rõ được từng loại toán. Thực chất việc “Giải toán về tỉ số phần
trăm” là thiết lập mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa bi ết. Nói
tóm lại học sinh phải thiết lập được phép tính – đây là mục đích
quan trọng nhất rồi mới mới đến thực hành tính toán.
Trong dạy học “ Giải toán về tỉ số phần trăm” là thi ết lập mối
quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết. Nói tóm l ại học sinh ph ải
thiết lập được phép tính- đây là mục đích quan trọng nhất rồi mới
đến thực hành tính toán.
Bước 1: Tìm hiểu bài:
- Học sinh cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của bài
toán, nắm được ý nghĩa và nội dung của đề bài.
- Cho học sinh nhắc lại nội dung của đề bài theo cách diễn đạt
của mình.
Giúp học sinh hiểu rõ đề bài là tìm và phân tích rõ ràng 3 yếu
tố cơ bản: cái đã cho, cái phải tìm, quan hệ với cái đã cho với cái
phải tìm.
-Giúp học sinh tóm tắt bài toán bằng cách đàm thoại “Bài toán
cho biết gì ? Bài toán hỏi gì ?” và dựa vào câu trả l ời đ ể tóm t ắt bài
toán rồi dựa vào tóm tắt để nêu đề toán …
Bước 2: Lập kế hoạch bài giải:
Khi giải toán về tỉ số phần trăm, học sinh rất khó xác đ ịnh
cách giải, để học sinh nắm được cách giải, giáo viên phải giúp học
sinh nhận dạng được từng loại toán. Phải xác định đó là loại toán gì
để khi giải không bị lẫn lộn. Cụ thể, phải biết được đó là:
+ Dạng tìm tỉ số phần trăm của hai số;
+ Dạng tìm một số phần trăm của một số.
+ Dạng tìm một số khi biết một số phần trăm của số đó.
Để giải được các bài toán dạng nói trên, học sinh phải tìm
được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Giáo viên phải
hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải bài toán thông qua các bước như:
+ Bài toán cho biết gì ?
+ Bài toán hỏi gì ?
+ Làm thế nào em tìm được đáp số của bài toán đó.
Như vậy, giáo viên phải giúp học sinh dựa trên cái đã biết và
yêu cầu của bài toán để tìm cách giải theo từng loại toán như sau:
* Trường hợp 1: Dạng toán “ Tìm tỉ số phần trăm của hai số”
Tôi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu và giải theo các bước
sau:
- Tìm thương của hai số đó.
- Nhân thương đó với 100 và viết thêm kí hiệu % vào bên phải của
tích tìm được.
* Trường hợp 2 : Dạng toán “ Tìm số phần trăm của một số”
Tôi hướng dẫn học sinh làm theo các trình tự sau:
- Tìm 1 % của số đó.
- Lấy giá trị của một phần trăm nhân với số phần trăm.
* Trường hợp 3: Dạng toán “ Tìm một số khi biết số phần trăm của
số đó”
Tôi đã hướng dẫn cho học sinh giải theo các bước:
- Tìm % của số đó.
- Lấy giá trị của % nhân với 100.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc trình bày bài giải phù hợp là
bước quan trọng và khó khăn vì đây là dạng toán mới. Khi dạy “
Giải toán về tỉ số phần trăm” tôi hướng dẫn trình bày bài giải theo
từng đối tượng học sinh trong lớp.
Bước 4: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
Thông thường học sinh Tiểu học khi giải ra đáp số thì cho
rằng đã xong. Vì vậy giáo viên phải giúp các em có lòng tự tin vào
kết quả bài làm của mình bằng cách nêu ra phương pháp tự kiểm
tra lại kết quả của bài toán. Giúp học sinh soát lại cách thực hiện
phép tính khi trình bầy bài giải, ngoài ra kiểm tra và đánh giá còn là
động lực giúp các em tìm ra cách giải khác.
CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài.
Muốn học sinh giải toán có lời văn nói chung và Giải toán v ề tỉ
số phần trăm nói riêng được tốt thì giáo viên phải chú trọng đ ến tìm
hiểu đề bài để học sinh nhận ra dạng toán. Phải tạo cho học sinh
thói quen khi gặp bài toán giải phải đọc đề bài nhi ều l ần để hi ểu
được các mối liên hệ trong bài toán đó. Do đó muốn gi ải được “Bài
toán về tỉ số phần trăm” thì trước tiên phải giúp học sinh hi ểu rõ về
các đại lượng và về các phép tính, các mối quan hệ giữa các y ếu tố
nằm ngay trong bài toán đó.
Học sinh sau khi đọc đề, thay vì dùng ngay phương pháp đàm
thoại: “Bài toán cho biết gì ?” “Bài toán yêu cầu gì ?”, tôi đã tổ chức
cho học sinh làm việc bằng nhiều cách. Chẳng hạn: Em hãy g ạch
một gạch dưới những điều đã cho biết gạch hai gạch dưới những
điều cần tìm. Trong khi thực hiện, tôi có thể bao quát lớp để nhắc
nhở, giúp đỡ học sinh. Nhờ có lệnh hoạt động nên học sinh tập
trung làm việc.
Ví dụ 1: Bài toán - Trang 77 - Sách hướng dẫn học Toán 5.
Một người bỏ ra 800 000 đồng tiền vốn mua rau. Sau khi bán
hết số rau, người đó lãi được 30%. Hỏi số tiến lãi là bao nhiêu?
Đối với bài toán này, trước tiên, học sinh đọc đề bài toán
trong nhóm. Rồi tôi giúp học sinh tìm hiểu, khai thác đ ề bài như
sau:
Em hãy gạch một gạch dưới những điều đã cho biết và gạch
một gạch dưới những điều cần tìm. Như vậy nhanh chóng cho học
sinh thực hiện như sau:
+ 800 000 đồng tiền vốn, lãi 30%
+ Tính số tiền lãi.
Khi học sinh trả lời câu hỏi tìm hiểu đề bài và ghi tóm tắt lên
bảng nhóm như sau:
Tóm tắt:
Tiền vốn: 800 000 đồng
Tiền lãi chiếm : 30%
Tiền lãi:…. Đồng ?
Và yêu cầu học sinh dựa vào tóm tắt nêu lại đ ề bài, đ ể xác
định được bài toán này thuộc dạng toán “Tìm một số phần trăm
của một số”. Nếu một bài toán được tóm tắt chính xác, rõ ràng tức
là việc tìm hiểu đề sẽ kĩ hơn, từ đó dễ tìm ra cách giải hơn.
Đối với dạng toán “Tìm một số khi biết một số phần trăm của
số đó” và “Tìm một số phần trăm của một số” học sinh rất d ễ l ẫn
lộn cách giải. Do đó giáo viên phải giúp học sinh tìm hi ểu kĩ đ ề đ ể
các em phân biệt từng dạng toán. Giáo viên phải chỉ cho học sinh
thấy được điểm giống nhau và khác nhau của từng dạng toán.
Ví dụ 2: Bài 6 (trang 85) – Sách hướng dẫn học toán 5.
2.
3.
Bác Lan bán hoa quả bị lỗ 65 000 đồng. Bác nói tính ra bị lỗ
mất 5% tiền vốn. Hỏi số vốn ban đầu Bác Lan bỏ ra để mua hoa
quả là bao nhiêu tiền?
Học sinh phảidựa vào các yếu tố ngay trong bài để phân biệt
được dạng toán: Tiền lỗ 65 000 đồng chiếm 5%.
Tiền vốn của người đó phải là 100%.
( Đây chính là đi tìm một số khi biết một số phần trăm của số
đó )
Như vậy trong ví dụ trên, giáo viên phải giúp học sinh so sánh
được sự khác nhau, phân biệt được dạng toán dựa vào các yếu tố
ngay trong bài đó.
Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải.
Dựa trên tóm tắt bài toán, học sinh nhận dạng toán, giáo viên
hướng dẫn học sinh nhớ bước giải của dạng toán và ghi tóm tắt
các bước thực hiện theo gợi ý. Chẳng hạn: Ví dụ 1: Bài toán trang
77 - Sách hướng dẫn học Toán 5.
Coi số tiền vốn là 100% có nghĩa là:
100% số tiền vốn là: 800 000 đồng
1% số tiền vốn là… đồng ?
30% số tiền vốn là … đồng.
Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán dựa trên xác
định cái đã cho và cái cần tìm thì giáo viên giúp học sinh l ựa ch ọn
phép tính thích hợp.
Để giải đươc bài toán trên, học sinh phải tìm được mối liên hệ
giữa cái đã cho và cái phải tìm. Cần giúp học sinh suy nghĩ gi ải bài
toán thông qua các bước sau:
Tìm 1 % của 800 000 đồng.
Tìm số tiền lãi ( tìm xem 1 % được bao nhiêu tiền, sau đó lấy
số tiền đó nhân với số phần trăm ( tức là nhân với 30).
Hướng dẫn học sinh thực hiện kế hoạch giải:
Thực tế giảng dạy cho thấy việc trình bày bài giải phù hợp là
quan trọng và khó khăn vì đây là dạng toán mới. V ới d ạng toán này
tôi chú ý khắc sâu cho học sinh 3 cách trình bày bài gi ải đối với 3
loại toán như sau:
3.1. Dạng toán “ Tìm tỉ số phần trăm của hai số”
Ví dụ: Bài 4 - Trang 75- Sách hướng dẫn học Toán 5.
Đội văn nghệ Trường Tiểu học Thành Công có 50 học sinh,
trong đó có 17 bạn tham gia nhóm múa . Hỏi số bạn ở nhóm múa
chiếm bao nhiêu phần trăm số bạn trong đội văn nghệ?
Tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện kế hoạch giải dựa vào
gợi ý:
+ Bài toán cho biết gì ? (Đội văn nghệ Trường Tiểu học Thành
Công có 50 học sinh, trong đó có 17 bạn tham gia nhóm múa )
+ Bài toán yêu cầu gì ? (Tỉ số phần trăm của số bạn ở nhóm
múa so với số bạn trong đội văn nghệ)
+ Muốn biết số bạn ở nhóm múa chiếm bao nhiêu phần trăm
số bạn trong đội văn nghệ ta phải làm như thế nào? (Đi tìm tỉ số
phần trăm của hai số 17 và 50)
Bài giải
Tỉ số phần trăm của số bạn ở nhóm múa so với số bạn trong đ ội
văn nghệ là :
17 : 50 = 0,34
0,34 = 34%
Đáp số: 34%
Thông qua việc thực hiện giải tôi đã củng cố cho học sinh
cách tìm tỉ số phần trăm của hai số.
3. 2. Dạng tìm số phần trăm của một số.
Ví dụ: Bài 3 - Trang 78 - Sách hướng dẫn học Toán 5.
Bác Vân gửi tiết kiệm 5 000 000 đồng với lãi xuất 0,6% một
tháng. Hỏi sau một tháng bác Vân được bao nhiêu tiền lãi?
Tóm tắt
Tiền vốn: 5 000 000 đồng
Lãi xuất một tháng: 0,6%
Tiền lãi một tháng: … đồng
Tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện kế hoạch giải dựa vào
gợi ý:
+ Bài toán cho biết gì ? (Bác Vân gửi tiết kiệm 5 000 000 đ ồng
với lãi xuất 0,6% một tháng)
+ Bài toán yêu cầu gì ? (Tính số tiền lãi bác Vân có sau một
tháng)
+ Muốn biết số tiền lãi bác Vân có sau một tháng ta phải làm
như thế nào? (Đi tìm giá trị 1% của số đó, sau đó nhân v ới s ố ph ần
trăm lãi xuất.)
Bài giải
Cách 1:
1% số tiền bác Vân gửi tiết kiệm là
5 000 000 : 100 = 50 000(đồng)
Số tiền lãi của của bác Vân sau một tháng là:
50 000 x 0,6= 30 000(đồng )
Đáp số: 30 000 đồng
Bài giải
Cách 2:
Số tiền lãi của của bác Vân sau một tháng là:
5 000 000: 100 x 0,6 = 30 000(đồng)
Hoặc 5 000 000 x 0,6 : 100 = 30 000(đồng )
Đáp số: 30 000 đồng
3.3. Dạng tìm một số khi biết một số phần trăm của s ố đó.
Ví dụ: Bài toán
Bác Vân gửi tiết kiệm một tháng bác thu được 30 000 đồng
tiền lãi chiếm 0,6% số tiền vốn. Hỏi số tiền bác Vân đã gửi tiết
kiệm là bao nhiêu.
Tóm tắt
Tiền lãi một tháng: 30 000 đồng
Lãi xuất một tháng: 0,6%
Tiền vốn: … đồng
Đối với bài toán này, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề,
lập kế hoạch giải và thực hiện kế hoạch giải bằng hệ thống câu
hỏi:
- Số tiền vốn bác Vân đã gửi tiết kiệm được coi là bao nhiêu
phần trăm? (100%).
- 30 000 đồng tiền lãi tương ứng với bao nhiêu phần trăm ?
(0,6%).
Từ đó, tôi đã giúp học sinh nhận ra số tiền vốn bác Vân đã
gửi tiết kiệm được coi là 100% và 30 000 đồng tiền lãi tương ứng
với 0,6% số tiền bác Vân đã gửi tiết kiệm.
Để tính được số tiền bác Vân đã gửi tiết kiệm ta làm thế
nào ? ( Tính xem 1% số tiền bác Vân đã gửi tiết kiệm là bao nhiêu,
sau đó nhân 100). Học sinh trình bày bài giải.
Bài giải
1% số tiền bác Vân đã gửi tiết kiệm là:
30 000 : 0,6 = 50 000 (đồng)
Số tiền bác Vân đã gửi tiết kiệm là:
50 000 x 100 = 5 000 000 (đồng)
Đáp số: 5 000 000 (đồng)
Song đến loại toán này học sinh đã có kĩ năng gi ải toán tỉ số
phần trăm do đó giáo viên nên hướng dẫn để các em hi ểu làm thế
nào để khi thực hiện kế hoạch giải nhanh hơn, gọn hơn, khoa học
hơn. Tức là nên đưa gộp lại như sau:
Bài giải
Số tiền bác Vân đã gửi tiết kiệm là:
30 000 : 0,6 x 100 = 5 000 000 (đồng)
Đáp số: 5 000 000 (đồng)
Hai cách trình bày trên bản chất chỉ là một. Song đối với học
sinh các thuật ngữ phần trăm đối với các em còn mới và trừu
tượng. Do đó bằng mẹo chia nhỏ lời giải để học sinh hiểu và tìm
được 1%, từ đó các em xác định được loại toán, phép tính cho lời
giải, tránh dược sự nhầm lẫn giữa hai dạng toán. Rồi dần dần các
em sẽ hình thành được bước giải và sẽ thành thục “ Giải toán về tỉ
số phần trăm” hơn khi phát hiện được từng loại toán cụ thể trong
khi làm bài.
4. Hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải:
Trong “ Giải toán về tỉ số phần trăm” xác định câu lời giải cho
phép tính cũng là một điều đáng chú ý bởi lẽ học sinh có thể nêu
được phép tính nhưng câu lời giải chưa chính xác, dài dòng. Một s ố
học sinh có thể giải được bài toán nhưng trình bày câu lời gi ải chưa
chính xác. Vì vậy, để giúp học sinh lựa chọn câu lời gi ải đúng, giáo
viên nên yêu cầu học sinh dựa vào câu hỏi của bài toán
( tức là cái cần tìm của bài toán ). Trên cơ sở đó tìm câu lời gi ải phù
hợp. Sự kết hợp nhịp nhàng giữa câu lời giải và phép tính sẽ làm
cho việc giải toán được lô gic hơn. Có như vậy việc giải toán mới
hoàn thiện hơn.
Ví dụ: Bài 4- Trang 78 - Sách hướng dẫn học Toán 5.
Số dân của một xã cuối năm 2013 là 7000 người, tỉ lệ tăng
dân số hàng năm của xã là 1,5%. Hỏi đến cuối năm 2014 s ố dân
của xã đó là bao nhiêu người?
Đối với bài toán này, giáo viên cho học sinh tìm hi ểu đề bài,
học sinh nêu yêu cầu của bài toán là:
+ Hỏi đến cuối năm 2014 số dân của xã đó là bao nhiêu
người?
Giáo viên dẫn dắt học sinh bằng các câu hỏi gợi ý:
Muốn biết đến cuối năm 2014 số dân của xã đó là bao nhiêu
người ta phải làm như thế nào? (Tính số dân tăng thêm từ cuối
năm 2013 đến cuối năm 2014. Lấy số dân tăng thêm cộng với số
dân cuối năm 2013)
Học sinh dựa vào gợi ý để đặt câu lời giải cho từng phép tính
và trình bày bài giải.
Bài giải
Từ cuối năm 2013 đến cuối năm 2014 số dân tăng thêm là:
7000 : 100 x 1,5 = 105 ( người )
Đến cuối năm 2014 số dân của xã đó là:
7000 + 105 = 7105 ( người )
Đáp số: 7105 người
5. Khích lệ học sinh học tạo hứng thú học tập.
Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn quan tâm
chú ý đến việc khuyến khích học sinh tạo hứng thú học tập.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong dạy học mà
tôi đã thu được kết quả caco trong việc dạy học “Giải toán về phần
trăm” rút kinh nghiệm từ những năm học trước, năm học 2014 2015 với sự chỉ đạo hướng dẫn của nhà trường của tổ chuyên môn
tôi đã dạy theo phương án nêu trên, kết quả đạt được như sau:
* Đối với giáo viên:
Sau tiết học tôi cảm thấy phấn khởi, tự tin và mạnh dạn hơn
trong việc thiết kế tiết dạy và thực hiện đổi mới thành công một
phương án dạy học mới mà vẫn đạt hiệu quả cao.
* Đối với học sinh:
Các em có hứng thú học tập cao dưới sự dẫn dắt gợi mở
của giáo viên, học sinh tích cực, chủ động sáng tạo tự phát hi ện
vấn đề của bài học, tự huy động những kiến thức và kinh nghiệm
để tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm tìm cách giải quyết vấn
đề và tự chiếm lĩnh kiến thức mới.
Kết thúc học kì I năm học 2014- 2015 sau khi học sinh đ ược
học“Giải toán về phần trăm” kếtquả khảo sát của lớp tôi phụ trách
như sau:
Lớp Sĩ số
Giỏi
SL
5D 17
6
TL
35,3
Khá
SL
7
TL
41,2
Trung bình
SL
4
TL
23,5
Yếu
SL
0
TL
0
Rõ ràng từ kết quả trên so sánh với kết quả của những năm
học trước chúng ta thấy chất lượng học sinh tăng lên đáng kể và
điều đặc biệt giờ học của học sinh diễn ra rất hào hứng say mê.
Các em được tìm tòi, sáng tạo và chiếm lĩnh kiến thức. Nhờ vậy
không khí học tập của học sinh rất sôi nổi mang lại hiệu qu ả cao.
3. KẾT LUẬN
Với phương án giảng dạy trên của cá nhân đưa ra khi dạy
“giải toán tỉ số phần trăm”, tôi không chỉ được các giáo viên trực
tiếp dạy lớp 5 ủng hộ mà ngay cả các đồng chí trong Ban giám hi ệu
nhà trường, giáo viên dự giờ tiết đó đánh giá cao. Tôi cùng với
chuyên môn nhà trường đưa ra sáng kiến kinh nghiệm này phổ
biến trong sinh hoạt chuyên môn của trường. Chính hiệu quả của
giờ dạy là niềm tin khích lệ cho tôi cũng như các giáo viên trong
trường, tìm tòi, nghiên cứu, mạnh dạn đưa ra những phương án
dạy học tích cực để nâng cao chất lượng cho học sinh.
Giải bài toán “Tỉ số phần trăm” chiếm tỉ lệ không lớn trong
chương trình toán lớp 5, nhưng những dạng toán khác có liên quan
đến tính “Tỉ số phần trăm” khá nhiều trong chương trình toán lớp 5
nói riêng và môn toán của THCS, THPT nói chung. Đặc biệt “giải
toán tỉ số phần trăm”có vai trò quan trọng trong vi ệc rèn các k ỹ
năng tính toán liên quan mật thiết tới công vi ệc và đời sống hàng
ngày của mỗi người .
Vì thế, chuyên môn nhà trường cần có chỉ đạo về phương
pháp dạy học bài toán này trong chương trình toán lớp 5. Bên cạnh
đó cần có sự động viên khuyến khích kịp thời cho những giáo viên
hoặc tổ chuyên môn có sáng tạo trong thiết kế các phương án dạy
học, tuy nhiên phương án dạy học đó phải mang lại hiệu quả cao
hơn.
Đối với giáo viên giảng dạy cần chú ý đổi mới phương pháp
tích cực tự học, tự bồi dưỡng tìm tòi, nghiên cứu ra cách dẫn dắt,
khai thác bài học mang lại hiệu quả phù hợp với trình độ học sinh
lớp mình giảng dạy, cần phát huy tính sáng tạo của bản thân mình
và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Trên đây là một phương án của cá nhân tôi đưa ra để giúp
giáo viên lớp 5 khi dạy “giải toán tỉ số phần trăm” theo hướng tích
cực hoá hoạt động học tập của học sinh rất mong Hội đồng khoa
học của ngành xem xét và bổ sung ý kiến để kinh nghi ệm của tôi
mang lại hiệu quả cao hơn.
- Xem thêm -