SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
VÀ HỌC TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC”
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lý luận
Nhân loại đang đi vào thế kỷ mới với những điều lo âu và những điều hy vọng. Ở
mọi quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển giáo dục luôn luôn ở vị trí tiêu
điểm của sự phát triển. Chính sách giáo dục được coi là chính sách ưu tiên Quốc gia
nhằm tạo gia tốc cho sự phát triển. Nó là chìa khoá để đất nước phát triển kinh tế, xã hội,
văn hoá, khoa học, chính trị hài hoà đồng bộ cân đối với nhau. Bài học thành công của
các cuộc cải cách giáo dục ở nhiều quốc gia là ở chỗ quốc gia có được một quan điểm
đúng đắn và hiện thực hoá thành các chính sách năng động khi xác định được là sức
mạnh của quá trình phát triển.
Giáo dục ngày nay được coi là nền móng của sự phát triển khoa học kỹ thuật và
đem lại thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân, vì lẽ đó có thể giáo dục đồng nghĩa với sự
phát triển và có thể khẳng định rằng không có giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển
nào đối với con người, đối với kinh tế, văn hoá. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam tại
điều 35 quy định: "Giáo dục Đào tạo là quốc sách hàng đầu" để tạo nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu kinh tế - xã hội. Do vậy, chất lượng giáo dục phải được nâng cao đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những giải pháp để nâng cao
chất lượng giáo dục là phải nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục. Chiến lược
giáo dục Việt Nam đến 2020 đã coi giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo
dục là một giải pháp đột phá.
Giáo dục nước ta qua 20 năm đổi mới đã thu được những thành tựu quan trọng. Hệ
thống giáo dục bước đầu đã đa dạng hoá về loại hình, phương thức đào tạo, từng bước
hoà nhập vào xu thế chung của giáo dục thế giới. Chất lượng giáo dục có chuyển biến
một số mặt, song nhìn chung còn nhiều yếu kém bất cập. Sự bất cập lớn nhất của nó là
động thái giáo dục không theo kịp với đời sống của nhân dân. Hiệu quả giáo dục còn thấp
chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh
tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương
pháp tư duy khoa học của đa số học sinh còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải
tăng nhanh quy mô, vừa phải đảm bảo về nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Chính
vì thế, cần phải đổi mới quản lý giáo dục, quản lý nhà trường để nâng cao chất lượng dạy
học.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong hệ thống các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng thì dạy học là
hoạt động trung tâm. Việc quản lý dạy học là 1 nhiệm vụ cơ bản hàng đầu, mặt khác là
thước đo đánh giá năng lực của người cán bộ quản lý .
Trường tiểu học Dị Chế nơi tôi đang công tác là một trong những trường có
phong trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt” khá sôi nổi. Song bên cạnh đó vẫn còn có những
mặt hạn chế về chất lượng đội ngũ giáo viên. Do đó, Ban giám hiệu nhà trường rất băn
khoăn và đã xác định được vai trò quan trọng trong việc phát huy sức mạnh của đội ngũ
giáo viên với việc nâng cao chất lượng dạy học mà công tác quản lý chuyên môn là một
trong những giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy sức mạnh của đội ngũ hiện có.
Với cương vị là Hiệu trưởng nhà trường phụ trách chung moi hoạt động của nhà
trường, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ở trường tiểu học" với hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc xây
dựng các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường, phù hợp
với yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của các biện pháp quản lí dạy học.
- Áp dụng các biện pháp quản lí vào việc dạy học.
- Đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả quản lí việc dạy học.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Giáo viên và học sinh Trường Tiểu học Dị Chế.
- Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường Tiểu học Dị
Chế.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý của người quản lý nhằm nâng cao
chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Dị Chế.
V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
Bắt đầu nghiên cứu từ tháng 10/ 2013 cho đến tháng 2/ 2014
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết các nhiệm vụ vừa nêu ở trên, tôi đã sử dụng đồng bộ các phương pháp:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới việc quản lý dạy và học.
2. Phương pháp điều tra:
+ Điều tra về giáo viên.
+ Điều tra về học sinh.
3. Phương pháp thực nghiệm:
Áp dụng những lý luận về quản lý dạy và học vào việc quản lý dạy học của giáo
viên trường tiểu học Dị Chế .
4. Phương pháp quan sát
Dự giờ dạy của giáo viên
5. Phương pháp thống kê toán học:
Sử lý các số liệu và kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu.
VII. Thời gian hoàn thành: 1/ 3/ 2014
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI THẦY TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Khái niệm về quản lý:
Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng
các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để
đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
2. Bản chất quản lý:
Đó chính là các hoạt động của chủ thể quản lý tác động lên các đối tượng quản lý
để đạt mục tiêu đã xác định.
3. Chức năng quản lý:
Gồm 4 chức năng cơ bản: Dự báo và lập kế hoạch; tổ chức thực hiện kế hoạch; lãnh
đạo/chỉ đạo thực hiện kế hoạch; kiểm tra, đánh giá.
4. Khái niệm về quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý,
nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt hiệu quả nhất.
5. Khái niệm về quản lý nhà trường phổ thông:
Quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong phạm vi xác định của
một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ theo yêu
cầu của xã hội.
6. Biện pháp: Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể.
7. Biện pháp quản lý: Biện pháp quản lý là cách thức chủ thể quản lý sử dụng các công
cụ quản lýtác động vào việc thực hiện từng khâu của chức năng quản lý trong mỗi quá
trình quản lý nhằm tạo nên sức mạnh, tạo ra năng lực thực hiện mục tiêu quản lý.
II.VAI TRÒ CỦA NGƯỜI THẦY TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công cuộc đổi
mới của nước ta đang trải qua nhiều chặng đường, với từng bước đi thích hợp. Đảng ta
chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong quá trình
đó, việc xây dựng một con người Việt Nam vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên
đáp ứng yêu cầu xã hội là một việc làm cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Để làm
được điều đó, không thể không nhắc đến vai trò của người thầy trong sự nghiệp này.
Ở xã hội nào cũng vậy, vai trò của người thầy luôn được đánh giá cao. Người thầy
giúp định hướng hình thành nhân cách ở mỗi con người, góp phần xây dựng những nhân
tài của thế hệ tương lai. Trong sự nghiệp giáo dục, hơn ai hết vai trò của người thầy được
xem là tâm điểm ,bởi vậy ở nước ta không phải ngẫu nhiên mà có một ngày để tôn vinh
Nhà giáo - Ngày 20.11, bởi lẽ những gì mà người thầy đã đóng góp và cống hiến cho xã
hội là không thể tính đếm được.
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH NHÀ TRƯỜNG
1. Vài nét về Trường Tiểu học Dị Chế
Trường Tiểu học Dị chế đóng trên địa bàn thôn Dị Chế - xã Dị Chế - huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên.
Năm học 2013- 2014 trường có 476 học sinh, được chia làm 18 lớp từ khối 1 đến khối
5.
KHỐI
SỐ LỚP
SỐ HỌC SINH
1
5
122
2
4
91
3
3
100
4
3
82
5
3
81
Tổng số
18
476
Nhìn chung học sinh ngoan, chăm học, có ý thức kỉ luật tốt “ Kính thầy, yêu bạn”.
Nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
Tổng số cán bộ giáo viên và công nhân viên của trường: 36 đ/c, trong đó:
Ban Giám hiệu:3 đ/c
Văn thư Kế toán:01 đ/c
Đồ dùng thư viện: 01 đ/c
Giaó viên: 33 đ/c( GV Văn hoá:28, Âm nhac: 01, Mĩ thuật: 01, Tiếng Anh:02)
Bảng thống kê về số lượng, chất lượng học sinh đầu năm học 2013 -2014 như
sau:
T/Số Giới tính
Na
Hạnh kiểm
Học lực
Nữ
Đ
CĐ
Giỏi Khá T/B Yếu
187
472
4
132
m
476
289
179
98
76
Bảng thống kê về số lượng, trình độ chuyên môn của giáo viên
T/s
Nữ Độ tuổi
ố
30
29
20- 30-
40-
59-
29
39
49
60
06
19
04
0
Trình độ đào tạo
Chuyên môn
TC
Tốt Kh
CĐ ĐH
TB
á
7
17
07
10
14
6
Hầu hết các đồng chí giáo viên nhận thức rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình
đối với nghề nghiệp và các công việc được giao, có lòng yêu nghề mến trẻ, có nhiều giáo
viên viết chữ đẹp va say mê luyện chữ nét thanh, nét đậm.
Ngoài công tác chủ nhiệm
một lớp, một số các đồng chí giáo viên sẵn sàng nhận thêm các công tác như ban chi ủy,
thanh tra, khối trưởng chuyên môn… Khi được ban giám hiệu phân công.
Trường luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao của Phòng GD-ĐT huyện Tiên lữ . Là
trường nhiều năm đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến và có phong trào Giữ vở
sạch- Viết chữ đẹp rất sôi nổi.
Bên cạnh đó, trường còn nhận được sự động viên và hỗ trợ kịp thời của Đảng uỷ
và UBND xã Dị Chế và Ban chấp hành Hội cha mẹ HS .
2. Một số hạn chế về công tác chuyên môn của nhà trường
Bên cạnh những mặt mạnh, Trường Tiểu học Dị Chế còn có một số hạn chế về chuyên
môn. Cụ thể:
- Một số giáo viên soạn giáo án chưa khoa học, nội dung dàn trải và chưa tự tin khi
đứng trên bục giảng.
- Hoạt động dự giờ của giáo viên chưa thực sự đạt được những hiệu quả như mong
muốn. Thực tế hầu như các giáo viên còn chưa tự giác, tích cực dự giờ của đồng nghiệp,
bởi tâm lí e ngại cho rằng đi dự giờ tức là kiểm tra tiết dạy của đồng nghiệp, do đó nói
đến dự giờ tức là nói đến hoạt động của Hiệu trưởng, Hiệu phó, Tổ trưởng, Tổ phó
chuyên môn trong khi lẽ ra việc làm này phải là việc làm thường xuyên đối với mỗi giáo
viên. Giáo viên hầu như mới chỉ tham gia dự giờ trong các hoạt động mang tính chất
“thao giảng” chào mừng các ngày kỉ niệm trong năm học như 20-10, 20-11, 8-3, 26-3,...
- Một số đồng chí còn lúng túng trong việc sử dụng đồ dùng dạy học, trình độ tin
học và sử dụng máy tính còn hạn chế do vậy gặp khó khăn khi ứng dụng công nghệ thông
tin vào giảng dạy.
- Nhà trường chưa có biện pháp quản lý tốt nhằm đẩy mạnh chất lượng buổi sinh
hoạt chuyên môn, nội dung sinh hoạt tổ phần lớn chỉ dừng lại ở mức thông báo các chủ
trương, kế hoạch của nhà trường cũng như của Phòng GD_ ĐT.
Để khắc phục những mặt còn hạn chế đó tôi đã nghiên cứu và tìm ra những biện
pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Trường Tiểu học Dị Chế.
CHƯƠNG III
NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
1) Quản lý thực hiện nội dung chương trình
Chương trình dạy học là pháp lệnh của nhà nước do Bộ giáo dục ban hành. Người
quản lý phải nắm vững và làm cho toàn thể giáo viên cùng nắm vững. Với tư cách là
người lãnh đạo và chịu trách nhiệm cao nhất về chuyên môn trong nhà trường, người
quản lý phải điều khiển hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò theo những yêu
cầu, nội dung, hướng dẫn của chương trình dạy học. Sự nắm vững chương trình dạy học
của người quản lý là một đảm bảo đầu tiên để quản lý giáo viên thực hiện tốt chương
trình dạy học.
Muốn đựơc như vậy, ngay từ đầu năm học, cần phổ biến những thay đổi (nếu có)
về nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn, những sửa đổi trong chương trình và sách
giáo khoa theo cách chỉ thị hướng dẫn giảng dạy bộ môn của bộ giáo dục.
Chỉ đạo các tổ chuyên môn thực hiện chương trình các môn học một cách linh
hoạt, đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với thực tế địa phương theo đúng tinh thần công
văn: Hướng dẫn dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng.
Đối với môn Mĩ thuật, Âm nhạc, Thủ công( Kĩ thuật), Thể dục và hoạt động ngoài
giờ lên lớp, tổ chức dạy học phù hợp với điều kiện về giáo viên, cơ sở vật chất của nhà
trường,coi trọng thực hành vận dụng, giảm các yêu cầu mang tính chuyên nghiệp, kĩ
thuật.
Chỉ có thực hiện đúng đủ chương trình dạy học thì những cơ sở khoa học, tính chất
giáo dục toàn diện, mục đích đào tạo của chương trình dạy học mới trở thành hiện thực
như ý kiến đồng chí Lê Duẩn:
“Yêu cầu cơ bản nhất, quan trọng bao chùm toàn bộ chương trình giảng dạy là
đào luyện con người toàn diện về đức, trí, thể, mĩ, là xây dựng cho học sinh thành
những con người mới, có tình cảm tốt đẹp, có tri thức đầy đủ để đáp ứng được những
đòi hỏi của việc xây dựng chế độ mới của chúng ta”
Muốn làm tốt việc này hiệu phó, các tổ trưởng chuyên môn phải theo dõi, nắm tình
hình thực hiện chương trình dạy học hàng tuần, hàng tháng. Sử dụng lịch kiểm tra học
tập, sổ thăm lớp dự giờ vv… để nắm tình hình có liên quan đến việc thực hiện chương
trình dạy học. Ban giám hiệu phải biết dùng thời khoá biểu để điều khiển và kiểm soát
tiến độ thực hiện chương trình dạy học của tất cả các môn, các lớp sao cho đồng đều, cân
đối. Nếu chương trình dạy học là “bản thiết kế ” của một công trình thì hoạt động dạy
của thầy là sự “thi công” mà nhà quản lý là “tổng công trình sư” phải điều khiển “thi
công” đúng “thiết kế ”. Với những biện pháp đó, việc thực hiện chương trình của trường
tôi đã được thực hiện đúng và nghiêm túc.
2) Chỉ đạo công tác soạn, giảng của giáo viên
a. Việc soạn giáo án là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của giờ dạy và có
tính chất bắt buộc đối với mọi giáo viên trước lúc thực hiện giờ lên lớp. Hiện nay trên
trang giáo án điện tử của mạng Internet của tất cả các môn học đều có các giáo án sẵn và
thế là một bộ phận giáo viên đã tải về sử dụng, không dành nhiều thời gian nghiên cứu,
không trăn trở nhiều cho việc chuẩn bị phương án giảng dạy vì thế hiệu quả của giờ dạy
còn nhiều hạn chế.
Mặc dù chúng ta có trình độ Đại học nhưng điều đó không có nghĩa là việc hiểu và giảng
dạy chương trình phổ thông là một việc quá dễ dàng. việc mỗi người tự mình trăn trở xây
dựng phương án giảng dạy cho riêng mình là điều cực kì quan trọng không ai thay thế
được. Tuy nhiên để có một giáo án có chất lượng cũng không phải là điều dễ dàng. Xuất
phát từ thực tế tôi đã trao đổi và chỉ đạo tới giáo viên thực hiện tiến trình soạn giáo án
theo các bước sau:
- Bước 1: Đọc kĩ sách giáo khoa, tóm tắt cuối bài, câu hỏi và bài tập mà sách giáo
khoa đưa ra:
Tóm tắt chính là những kiến thức cốt lõi, câu hỏi và bài tập là những yêu cầu về kiến thức
và kỹ năng của bài cần đạt được
- Bước 2: Xác định mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi của bài:
Có người cho rằng, các kiến thức có trong bài cứ khai thác cho hết, thế là đạt mục tiêu bài
học. Đó chỉ là quan niệm có tính chất đơn giản. Thực tế đây là điều rất quan trọng quyết
định hướng đi của tiết dạy. Nếu xác định đúng bài giảng sẽ trở nên ngắn gọn, tinh giản,
vững chắc, đạt được mục tiêu, nếu xác định không đúng bài giảng sẽ trở nên ôm đồm,
dàn trải, các kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi khắc hoạ không rõ nét, phân bố thời
gian không hợp lý, mất nhiều thời gian vào các kiến thức không trọng tâm, không hoàn
thành được khối lượng kiến thức và kỹ năng, không đạt được mục tiêu bài học.
Vậy làm thế nào để xác định đúng mục tiêu, kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi
của bài? Điều này đòi hỏi phải đọc kĩ nội dung sách giáo khoa và xác định vị trí của bài
trong hệ thống kiến thức của chương. Trong đó tóm tắt sách giáo khoa, câu hỏi và bài tập
cuối bài là gợi ý tốt về kiến thức trọng tâm, kiến thức cốt lõi mà học sinh phải nắm được
sau khi học.
- Bước 3: Đọc tài liệu tham khảo về các nội dung liên quan đến bài giảng:
Sách giáo khoa viết rất cô đọng và súc tích. Nếu không dành thời gian thích đáng cho
việc đọc tài liệu tham khảo thì những điều chúng ta trình bày sẽ rất đơn sơ, ít có sức
thuyết phục, điều này thể hiện rõ trong các trường hợp thầy giáo giảng giải các kiến thức,
vận dụng kiến thức vào thực tế. Việc đọc các tài liệu tham khảo về nội dung liên quan
đến bài giảng giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo các kiến thức, điều đó làm cho việc
trình bày bài giảng được thực hiện một cách tự tin, chính xác, sâu sắc. Tuy nhiên, trong
giờ giảng chỉ trình bày ở một mức độ nhất định phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của bài.
Có giáo viên để thể hiện bài giảng sâu bằng cách đưa vào bài giảng quá nhiều ví dụ,
nhiều kiến thức phức tạp. Điều đó chỉ làm cho bài giảng trở nên ôm đồm gây rối trí mất
thời gian vô ích của học sinh và đương nhiên không đạt được mục tiêu của bài học. Bài
giảng sâu được thể hiện ở chỗ là người thầy làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu đúng, nắm
được bản chất của kiến thức và vận dụng được các kiến thức của bài học để trả lời các
tình huống lý thuyết, bài tập và thực tiễn đặt ra.
Khi soạn bài phải lưu ý đến tính thực tiễn, xác định xem những kiến thức nào của bài cần
có những ví dụ minh hoạ hoặc vận dụng để giải quyết các tình huống lý thuyết, tình
huống thực tiễn và bài tập đặt ra. Điều này vừa là yêu cầu của bài giảng vừa làm tăng tính
sinh động của giờ dạy. Tuy nhiên các dẫn chứng đưa ra chỉ cần vừa đủ, thật sự điển hình,
tránh đưa quá nhiều làm cho bài giảng ôm đồm, mất thời gian không cần thiết
- Bước 4: Lựa chọn phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy cần được vận dụng linh hoạt tuỳ từng nội dung cụ thể của
bài. Dù dùng phương pháp nào đều phải thể hiện được phương châm: lấy học sinh làm
trung tâm.
Trong quá trình soạn giáo án nên cố gắng tìm cách chuyển đổi nội dung bài dạy
thành các tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh khám phá kiến thức. Điều này vừa là
yêu cầu của phương pháp dạy học vừa làm tăng tính sinh động của giờ dạy. Các câu hỏi
đặt ra phải hợp lý, có tính định hướng, có tác dụng phát huy trí lực học sinh, tránh sử
dụng các câu hỏi vụn vặt, quá đơn giản .
Nói chung các bài giảng được trình bày theo cấu trúc của sách giáo khoa, tuy nhiên
ở một số bài có thể được trình bày theo cấu trúc khác tuỳ vào phương án giảng dạy của
giáo viên, ví dụ như: sắp xếp lại trình tự các phần,…
Đối với những giáo viên soạn giáo án bổ sung thì cần nghiên cứu kĩ sách thiết
kế và căn cứ vào thực tế để có những bổ sung hợp lý .
Để có những trang giáo án có chất lượng về nội dung và đẹp về hình thức tôi đã
thống nhất với giáo viên về cách trình bày sao cho khoa học. Ví dụ: Quy định về kẻ hết
buổi, hết tuần, chọn Font chữ( đối với giáo án soạn trên máy tính), gạch chân các đề mục,
…
Để kiểm tra và đánh giá việc soạn giáo án của giáo viên, hàng tuần BGH duyệt giáo
án theo lịch, đánh giá cho điểm công khai và rút kinh nghiệm trực tiếp với giáo viên.
Để tạo phong trào thi đua, trường đẫ tổ chức thi Giáo án và trưng bày vào đợt
20/11, sau đợt thi có đánh giá nhận xét, xếp loại cụ thể, chính xác, công bằng. Bộ giáo án
của các đ/c: Lương Thị Hường, Vũ Thị Khải (Khối1), Nguyễn Thị Lan Anh , (Khối 2),
Nguyễn Thị lựu ( Khối 3), Nguyễn Thị Nhuận ( Khối 4), Trần Thị Minh Tâm, ( Khối 5),
….đã được triển lãm trong toàn trường.
Qua các việc làm trên, tôi thấy ở trường tôi các đồng chí giáo viên đã thực hiện rất
nghiêm túc việc soạn bài, chất lượng bài soạn được nâng cao. Qua các đợt kiểm tra của
Phòng Giáo dục trường được đánh giá là có nhiều hồ sơ tốt, bài soạn đã đi sâu vào đổi
mới phương pháp và nêu được trọng tâm chính của bài, nâng cao chất lượng giảng dạy
các môn học. Kết quả cụ thể: Hồ sơ sổ sách có: 17 bộ xếp loại tốt, Khá :8 bộ, Trung
bình: 5 bộ .
b.Để tiết dạy thành công đòi hỏi:
- Giờ giảng phải thể hiện được các yêu cầu đã nêu trong giáo án, sinh động, phân bố
thời gian hợp lý, phát huy được tính tích cực của học sinh.
- Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: việc tạo cho giờ dạy có tính sinh
động có ý nghĩa cực kì quan trọng giup học sinh tiếp thu hào hứng, đưa lại hiệu quả cao,
người ta thường gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo,
buồn tẻ, nặng nề, mặc dù hoàn thành nhưng hiệu quả rất thấp, những dấu ấn của bài giảng
để lại trong trí não học sinh rất mờ nhạt, đó là những bài giảng không có hồn.
Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm
chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình bày, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm đối
với học sinh và xử lý các tình huống sư phạm linh hoạt. Sự hào hứng trong lời giảng của
thầy sẽ khơi dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh.
- Phân bố thời gian hợp lý với yêu cầu từng phần, từng đơn vị kiến thức làm cho bài
giảng hài hòa cân đối.
- Tinh giản bài giảng: thể hiện ở chỗ các nội dung kiến thức được trình bày ngắn
gọn, vừa đủ, không đưa vào các vấn đề phức tạp không cần thiết, không phù hợp với yêu
cầu bài dạy và trình độ học sinh. Các ví dụ và hình ảnh minh họa cho bài giảng phải thật
điển hình số lượng vừa đủ, nếu đưa vào quá nhiều giờ giảng sẽ trở nên ôm đồm nặng nề,
tốn phí thời gian không cần thiết, đồng thời hạn chế thời gian diễn giải kiến thức. Có giáo
viên tưởng rằng đưa được nhiều tranh ảnh, ví dụ sẽ làm cho sự thành công của bài giảng
tăng lên, thật là nhầm lẫn.
Giờ dạy tinh giản còn thể hiện ở chỗ là dành nhiều thời gian cho kiến thức trọng
tâm, kiến thức cốt lõi, còn kiến thức không phải trọng tâm không cần dành nhiều thời
gian để giảng giải, khai thác.
Kết thúc giờ dạy thầy giáo và học sinh phải có cảm giác thoải mái, nhẹ nhõm mới
thực sự thành công. Nếu thầy giáo và học sinh phải làm việc cật lực, vội vã thì dù những
điều thầy trình bày được chuẩn bị rất công phu thì hiệu quả giờ dạy vẫn thấp.
- Vững chắc thể hiện: dạy đủ, đúng, sâu các kiến thức trọng tâm, học sinh hiểu và
vận dụng được các kiến thức giải quyết được các tình huống lý thuyết, bài tập và thực
tiễn đặt ra.
- Trình bày bảng hợp lý: đảm bảo hài hoà giữa trả lời của học sinh với lời giảng và
việc ghi bảng của thầy.
Lưu ý:
Sau khi tiến hành giờ dạy cần rút kinh nghiệm bổ sung để lần sau dạy sẽ tốt hơn.
Khi rút kinh nghiệm cần lưu ý các điểm sau:
- Phân bố thời gian ở các phần
- Tính hợp lý của hệ thống câu hỏi dẫn dắt
- Tính rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác trong những lời diễn giảng của thầy
- Sự tinh giản và vững chắc của giờ dạy
- Sự hợp lý, hài hòa giữa câu hỏi của thầy, trả lời của học sinh, lời giảng và ghi
bảng của thầy
- Khả năng hiểu bài của học sinh và tính sinh động của giờ dạy
Từng nội dung đó phải chỉ ra được ưu, nhược điểm. Đặc biệt là nhược điểm phải đưa
ra phương án khắc phục.
Chúng ta đều biết rằng để có một giờ dạy tốt quả không dễ chút nào. Dù là người có
năng lực giỏi, tận tụy và tâm huyết với nghề nghiệp vẫn không dám nói rằng tất cả các
giờ dạy đều thành công.Tuy nhiên với lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm, làm việc có
phương pháp, luôn có chí tiến thủ chúng ta sẽ ngày càng có nhiều giờ dạy có hiệu quả cao
và tự tin khi đứng trên bục giảng.
3) Tăng cường công tác dự giờ thăm lớp
Dự giờ thăm lớp là một việc làm hết sức quan trọng đối với nhà quản lý chuyên môn
và giáo viên nói chung .Bởi vậy kế hoạch dự giờ cần được xây dựng dưới nhiều hình
thức: Báo trước, không báo trước, dự giờ song song, dự giờ có mời đồng nghiệp cùng dự,
…
Để xây dựng kế hoạch dự giờ hiệu quả thiết thực người CBQL cần bám sát phân
phối chương trình, chẳng hạn dự khối 1 vào thời gian nào? nhằm tháo gỡ vấn đề gì? VD:
dự vào tiết nào? Hay khối 2 dự môn Toán bài nào? ,…
Để xây dựng kế hoạch dự giờ cần dựa trên việc phân loại tay nghề nghiệp vụ sư
phạm GV.Đối với GV đầu đàn của trường thì dự tiết nào mà CBQL cho là khó dạy để
xem GV tháo gỡ chỗ vướng đó như thế nào? Đối với GV mới ra trường hay chuyển khối
thì cần dự những tiết chuyển từ dạng bài này sang dạng bài khác xem GV đó có nắm chắc
tiến trình lên lớp hay không? Hay dự tiết dạy lí thuyết, tiết dạy thực hành xem GV đó
truyền tải nội dung bài ra sao? Đối với GV tay nghề chưa vững cần thường xuyên dự giờ
để GV luôn luôn chuẩn bị tâm thế cũng như ý thức đối với nghề nghiệp hơn.
Căn cứ vào thời khoá biểu trên lớp của mỗi giáo viên, phó hiệu trưởng cùng với các
tổ trưởng chuyên môn lên lịch dự giờ cụ thể cho mỗi giáo viên. Trước đây các giờ trống,
mọi người thường không biết làm gì thì nay đã có lịch cụ thể để giáo viên đến dự giờ các
đồng nghiệp. Việc làm này đã giúp giáo viên tự giác, tích cực hơn rất nhiều trong hoạt
động dự giờ. Nếu như trước đây giáo viên e ngại không đến dự giờ đồng nghiệp vì làm
họ mất tự nhiên và nhiều người không thông cảm cho rằng người đi dự là tinh vi này
nọ,... thì nay giáo viên đã chủ động hơn vì có lịch cụ thể. Đây là một hoạt động theo
chúng tôi là rất có hiệu quả, người dạy thì chủ động về bài dạy do đó chất lượng bài dạy
sẽ cao hơn rất nhiều.
Một điểm cũng rất quan trọng là chúng tôi đã chủ động đưa các giáo viên đến dự
cùng một bài dạy nhưng của các giáo viên khác nhau, trên cơ sở đó giáo viên dự giờ sẽ
rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy và sẽ học được ở mỗi người dạy cách chủ động sáng tạo
khi xử lí tình huống, lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức lớp học.
Sau khi dự giờ, Ban giám hiệu phải có đánh giá nhận xét chính xác, chân tình có tính
xây dựng, khuyến khích giáo viên phát triển được những mặt mạnh, những điển hình tốt,
điều chỉnh những mặt còn hạn chế của giaó viên.
Chính vì việc dự giờ được tiến hành có kế hoạch, thường xuyên nên Ban giám hiệu
đã đánh giá được năng lực của giáo viên, phát hiện những giáo viên có tài năng, cử đi dự
thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh đạt giải cao.( năm học 2011- 2012 và 20122013 trường có 3 đ/c tham dự thi Gv giỏi cấp huyện thì cả 3 đ/c đều đạt, có 2 đ/c được
công nhận là GV giỏi cấp Tỉnh, có 1 đ/c được đi giao lưu giáo viên giỏi cấp quốc gia và
được công nhận giáo viên giỏi cấp quốc gia.), Qua công tác dự giờ BGH cũng đồng thời
kịp thời nhắc nhở, giúp đỡ các đồng chí giáo viên còn non yếu về tay nghề vươn lên trong
chuyên môn. Nhờ thực hiện các biện pháp trên mà trong 2 năm vừa qua, đội ngũ giáo
viên của trường tôi về năng lực đã được nâng lên rõ rệt, chủ động hơn trong tâm thế lên
lớp. Giáo viên tự tin, vững vàng về kiến thức, nhuần nhuyễn về phương pháp.Hạn chế
được tâm lý ngại đón BGH dự giờ mà thay vào đó là sự sẵn sàng trao đổi chuyên môn
cùng BGH và đồng nghiệp.
4) Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn
Thực tế cho thấy trong nhà trường phổ thông hoạt động của các tổ chuyên môn
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó là cầu nối quan trọng giữa Ban giám hiệu và các
giáo viên nhằm triển khai tất cả các nhiệm vụ chuyên môn của nhà trường. Vì vậy nếu tổ
chuyên môn hoạt động có hiệu quả thì chắc chắn chất lượng giảng dạy của nhà trường sẽ
được cải thiện đáng kể.
Để việc sinh hoạt tổ chuyên môn trong nhà trường đi đúng hướng, đạt được mục tiêu
và thực sự có chất lượng thì cần thiết phải quản lí, chỉ đạo nội dung này một cách khoa
học, chặt chẽ và có những biện pháp quản lí khả thi nhất phù hợp điều kiện thực tế về đội
ngũ giáo viên.
Bồi dưỡng năng lực tổ chức, điều hành cho đội ngũ tổ khối trưởng, những người
chủ trì các buổi SHCM vì thực tế cho thấy 1 buổi SHCM thành công phụ thuộc rất nhiều
vào khả năng và chuyên môn của người điều hành.
Tổ trưởng chủ động thiết kế nội dung, duyệt với phó Hiệu trưởng trước 3 ngày.
Khi đó, tôi mới tư vấn cho tổ trưởng về nội dung để đảm bảo tính kế hoạch của nhà
trường. Coi trọng sự chủ động, sáng tạo của tổ trưởng và giáo viên trong tổ chứ không áp
đặt.
- Xem thêm -