Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn toán ở trường trung học cơ sở...

Tài liệu Skkn biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn toán ở trường trung học cơ sở

.PDF
12
268
58

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số:…………………………………………………………… Tên sáng kiến: Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán ở trường Trung học cơ sở 1. Lĩnh vực áp dụng: Môn Toán 2. Mô tả bản chất của sáng kiến 2.1. Tình trạng giải pháp đã biết Qua vài tiết học đầu năm, tôi nhận thấy học sinh học bộ môn Toán ở mỗi lớp có khoảng 1 số học sinh học yếu môn Toán. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và 3 tìm hiểu thực tiễn tại trường trung học cơ sở, tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản của môn Toán. Qua đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là: học sinh khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn.... Điều đó nảy sinh trong tôi những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học môn Toán? Có biện pháp nào để tạo niềm say mê cho các em?.....Với mong muốn tìm ra những đáp án đó đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán ở trường Trung học cơ sở”. * Ưu điểm - Ban giám hiệu nhà trường quan tâm nhiều đến bộ môn Toán. - Cơ sở vật chất nhà trường đầy đủ, đảm bảo được trong công tác giảng dạy. - Đồng nghiệp nhiệt tình trong công tác, luôn ủng hộ và sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm với nhau trong giảng dạy. - Nâng cao được trình độ của giáo viên. Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham khảo các tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa để dạy phù hợp với trình độ của học sinh. Từ đó giúp các em học sinh hiểu cặn kẽ từng bài, từng nội 1 dung kiến thức, thu hút sự hứng thú học tập của học sinh. Cụ thể là học sinh yếu – kém * Khuyết điểm Một số học sinh chưa xác định động cơ học tập, nên thái độ học tập chưa tốt, chưa tích cực, thiếu sự quan tâm của gia đình dẫn đến học sinh lười học, mê chơi nên học phụ đạo không thường xuyên làm công tác giảng dạy phụ đạo của giáo viên không liên tục và theo kịp chương trình giảng dạy tại lớp 2.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 2.2.1. Mục đích của giải pháp Đề tài này tôi biết là đã có nhiều người nghiên cứu và có nhiều hướng giải quyết, song bám sát thực tế nhà trường và tâm lí, hoàn cảnh đối tượng học sinh của mình, tôi mạnh dạn nghiên cứu theo quan điểm của bản thân tìm ra những giải pháp có hiệu quả phù hợp với thực tế nhà trường và học sinh mình đang trực tiếp giảng dạy, đồng thời tìm ra cách để làm thay đổi theo hướng tích cực hơn nữa ý thức, tư tưởng, cách học của từng dạng học sinh, đặc biệt là dạng học sinh yếu – kém trong năm học 2017 - 2018 Trong năm học 2017 - 2018 đề tài sẽ được áp dụng với đối tượng là học sinh yếu- kém, mục tiêu là hạn chế tối thiểu tỉ lệ học sinh yếu kém, góp phần nâng chất lượng bộ môn toán ở trường trung học cơ sở. 2.2.3. Nội dung của giải pháp Công tác tư tưởng, tổ chức quản lý lớp và cách thức giảng dạy của giáo viên, cả ba mặt này không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được phối hợp hài hòa một cách có chủ định vì công tác tư tưởng là biện pháp hàng đầu, còn biện pháp tổ chức quản lý và cách thức giảng dạy là nhân tố quyết định. 1. Công tác tư tưởng: Đây là biện pháp hàng đầu để hổ trợ cho việc tổ chức và quản lý học sinh. Theo tôi cần thực hiện các bước như sau: 1.1. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình: 2 Giáo viên bộ môn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm nắm rõ hoàn cảnh gia đình các em để có cách giáo dục hợp lí 1.2. Giáo dục tính chuyên cần, tính kỷ luật và tính tự giác cho học sinh: Đi học đầy đủ là điều kiện tất yếu để học sinh học tốt. Cần quan tâm đến việc vắng mặt của học sinh trong lớp, vì phần lớn những học sinh cúp tiết là những em học yếu, chán học, sẽ có nguy cơ bỏ học. Những trường này, giáo viên bộ môn cần thông báo kịp thời cho giáo viên chủ nhiệm để báo cho phụ huynh học sinh ngay nhằm giúp các em chấn chỉnh lại, đưa các em trở lại lớp học. Thế thì vai trò của giáo viên chủ nhiệm là rất quan trọng. Phải làm tốt công tác tư tưởng cho các em. Công tác này được hiểu là nằm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Giáo dục đạo đức cho học sinh là công tác song hành với công tác giáo dục trí dục cho các em. Theo tôi đây là hai nội dung quan trọng trong giáo dục toàn diện học sinh gồm: Trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục để cuối cùng hướng các em tới “Chân, thiện, mỹ”. Thực ra khi lên lớp giáo viên bộ môn bao giờ cũng tích hợp giáo dục tư tưởng cho học sinh vào từng bài dạy. Tuy nhiên công tác này được làm thường xuyên nhưng không sâu sát bằng giáo viên chủ nhiệm bởi vì mỗi tiết dạy chỉ có 45 phút, nếu phát hiện một vài học sinh chưa ngoan mà cứ ôn tồn giáo dục thì làm sao kịp thời gian thực hiện tiết dạy? Công tác giáo dục tư tưởng còn được lồng ghép trong tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp, tiết sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt đội, sinh hoạt lớp Như chúng ta đã biết có 3 môi trường giáo dục học sinh: Gia đình, nhà trường và xã hội. Cho nên ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cần kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục trên thì công tác giáo dục đạo đức học sinh mới đạt hiệu quả Thực tế có những trường hợp phụ huynh không quan tâm, phán trắng trách nhiệm cho nhà trường thì tôi nghĩ rằng trong phương pháp phối hợp chúng ta cần nhờ sự hỗ trợ của địa phương. Phát hiện học sinh có nguy cơ bỏ học để kịp thời 3 động viên giúp đỡ các em. Trường hợp vận động được học sinh bỏ học trở lại lớp thì giáo viên phải có biện pháp phân công các bạn giúp đỡ để các em thấy được sự cần thiết và yêu thích học tập. 1.3. Xây dựng tốt mối quan hệ Thầy - Trò: Học sinh yếu kém thường mang nhiều mặt cảm. Các em có hai mặt tâm lý đối nghịch nhau: Một số em quậy phá, nghịch ngợm, trốn học, bỏ tiết và một số rút vào cái vỏ của mình qua những biểu hiện như: Nhút nhát, không phát biểu, xa lánh bạn bè, thầy cô Biện pháp cần đặt ra ở đây là giáo viên phải thường xuyên quan tâm, gần gũi, trò chuyện với các em. Học sinh yếu thường phạm nhiều khuyết điểm kéo dài cả về học tập lẫn đạo đức, chúng ta không thành kiến với các em, không vội vàng cho điểm xấu mà phải tạo cơ hội cho các em gở điểm, tìm cách giúp đỡ để các em vượt qua khó khăn, ham thích học tập hơn. Không cáo gắt, không chê bai các em mà trái lại có phê bình nhưng phải cố gắng tìm cho được những ưu điểm, những cơ hội để khen ngợi nhằm động viên khích lệ giúp các em thấy rằng mình vẫn còn có những ưu điểm chứ không đến nỗi tệ. Tuyệt đối không được cho học sinh ra khỏi lớp khi các em có biểu hiện không tốt hoặc không thuộc bài. Bởi vì làm như vậy là sai phương pháp giáo dục, mất hình tượng người thầy, người cô, làm cho học sinh thiếu tôn trọng và khi đó người thầy, người cô đã thất bại trong phương pháp giáo dục của mình vì đã hết cách mới cho trò ra khỏi lớp. Thật vậy, xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy với trò, giữa trò với trò là một việc làm rất cần thiết 1.4. Nêu tấm gương sáng: Nêu những tấm gương sáng trong lớp, đồng thời khen thưởng những em yếu kém có tiến bộ nhằm khích lệ, động viên tinh thần của các em. 1.5. Nêu cao tinh thần trách nhiệm của người thầy, cô: 4 Thầy cô giáo là người cha, người mẹ thứ hai của học sinh cho nên phải gương mẫu, là tấm gương cho học sinh noi theo. Phải có tác phong chững chạc, nói năng mực thướt, giải quyết vấn đề phải thật khách quan công tâm. Người thầy phải có tinh thần trách nhiệm cao, không thành kiến bỏ rơi một học sinh nào dù rằng em ấy nghèo khó hay học kém. Luôn tìm tòi học hỏi không ngừng để cải tiến phương pháp, dùng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt lời giảng của thầy trên lớp, kiến thức của thầy truyền đạt cho học sinh không thể nào nhầm lẫn mà phải tuyệt đối chính xác. Muốn được như vậy thì người thầy phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn của mình, phải phấn đấu dạy giỏi. 2. Công tác tổ chức và theo dõi học sinh yếu kém: Đây là biện pháp hàng đầu để hổ trợ cho việc tổ chức và quản lý học sinh. Theo tôi cần thực hiện các bước như sau: 2.1. Đánh giá chất lượng học tập của học sinh: Nhằm đánh giá đúng mức độ học tập của học sinh, vào đầu năm học nhà trường thường tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm. Từ đó giáo viên bộ môn phân định từng đối tượng học sinh ở mỗi lớp: Giỏi – Khá – Trung bình – Yếu kém Giáo viên bộ môn lập danh sách theo dõi học sinh yếu kém, quan sát ở từng tiết học, ghi nhận kết quả qua từng kỳ kiểm tra để nắm được các mặt hạn chế của học sinh nhằm kịp thời phụ đạo 2.2. Phụ đạo học sinh yếu kém: Đây là một công tác cần phải có đối với những học sinh yếu kém. Ngay từ bài khảo sát chất lượng đầu năm và căn cứ vào tình hình học tập ở lớp, giáo viên bộ môn lập danh sách những em học yếu để dạy phụ đạo. Dựa vào danh sách học sinh yếu kém của từng lớp. Giáo viên bộ môn lập danh sách đưa cho giáo viên chủ nhiệm để giáo viên chủ nhiệm kịp thời thông báo cho những phụ huynh của những học sinh yếu kém đó để nắm bắt kịp thời việc học 5 tập của con em mình. Từ sự phối hợp trên, việc dạy phụ đạo cho học sinh cũng góp phần hạn chế được hạn học sinh yếu Để công tác dạy phụ đạo có hiệu quả thì đòi hỏi các em phải dự đầy đủ. Giáo viên dạy phải lập sổ theo dõi học sinh và kịp thời báo với giáo viên chủ nhiệm những học sinh vắng học để giáo viên chủ nhiệm kịp thời phối hợp với gia đình Cần lưu ý rằng số tiết phụ đạo không nên quá nhiều vì rằng các em vốn dĩ đã học yếu, tham gia quá nhiều loại hình học tập ở lớp mà còn đi học phụ đạo nhiều buổi thì các em không đáp ứng nổi đành phải trốn học. Theo tôi thời lượng phụ đạo 2 tiết trong tuần là cân đối. Có thể xen vào những tiết trống để hạn chế đến mức tối đa việc học trái buổi của học sinh. 3. Phương pháp dạy học Toán cho học sinh trung bình- yếu – kém: Một trong những hoạt động cơ bản của học sinh trong học tập môn Toán ở trường phổ thông là hoạt động giải toán. Để thích ứng với quá trình học tập đó của đa số học sinh, phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng là một điều rất quan trọng. Đối với những HS có học lực trung bình , yếu kém cần được tiến hành theo 4 giai đoạn như sau: 3.1 Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu Giáo viên cần kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học sinh hiểu khái niệm. Đồng thời với cung cấp kiến thức mới là củng cố khắc sâu thông qua ví dụ . Chú ý phân tích các sai lầm thường gặp. Tổng kết tri thức và các tri thức phương pháp có trong bài. Đây là giai đoạn khó khăn nhất, giai đoạn làm quen tiến tới hiểu kiến thức mới, đồng thời là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn cung cấp kiến thức chuẩn cho học sinh. Khi hoàn thành tốt giai đoạn này học sinh sẽ tiếp thu tốt hơn ở các giai đoạn sau. 3.2 Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn 6 Giáo viên cho ví dụ tương tự, sau đó gọi những học sinh khá - giỏi nêu trình tự các bước giải một bài toán, từ đó các em trung bình - yếu bước đầu làm theo hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên. Học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán. Giai đoạn này thường vẫn còn lúng túng và sai lầm, do học sinh chưa thuộc, chưa hiểu sâu sắc. Tuy nhiên giai đoạn 2 vẫn có tác dụng tạo động cơ cho giai đoạn 3. 3.3 Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu Giáo viên ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo mẫu mà giáo viên đã đưa ra ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Giáo viên tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này học sinh độc lập thao tác. Học sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. Giáo viên có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của cả lớp và từng cá nhân thông qua giai đoạn này, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. 3.4 Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập Giáo viên nên ra cho học sinh: Hoặc là một bài tập tương tự khác để học sinh làm ngay tại lớp. Hoặc là bài tập ra về nhà tương tự với bài được học, nhằm rèn luyện kĩ năng. Hoặc là bài kiểm tra thử. 3.5 Giai đoạn 5: Hứng thú học môn toán với trò chơi sáng tạo Mỗi người giáo viên đều có phương pháp riêng phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất và đối tượng học sinh mà mỗi giáo viên sẽ có những trò chơi khơi dậy hừng thú học tập khác nhau. Riêng tôi khi dạy thường chọn cho mình phương pháp khơi dậy hứng thú học môn toán với trò chơi sáng tạo như sau: Để lựa chọn trò chơi phù hợp giáo viên cần xác định được mục tiêu của trò chơi đưa ra là gì, hình thành, luyện tập, củng cố kiến thức nào, giáo dục kĩ năng gì, phẩm chất gì?... Điều này được xác định dựa trên mục tiêu bài học. 7 Trò chơi đưa ra phải đa dạng, phong phú, hấp dẫn; luật chơi đơn giản dễ hiểu, dễ chơi, phải phù hợp với chủ đề bài học với đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, có tác dụng khích lệ tinh thần học tập cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, tránh bỏ rơi học sinh yếu kém ngoài cuộc. Đặc biệt, trò chơi phải không gây nguy hiểm cho học sinh và môi trường xung quanh. Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác dụng giáo dục về kiến thức, phẩm chất cũng như kĩ năng học tập. Trò chơi phải được luân phiên thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh. Để phương pháp trò chơi phát huy hiệu quả trong dạy học Toán đặc biệt môn Hình học, người giáo viên cần lưu ý những nguyên tắc sau: Có sự chuẩn bị tốt, mọi học sinh đều hiểu trò chơi và tham gia dễ dàng, học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng, tuân thủ luật chơi. Giáo viên cần quy định rõ thời gian chơi, không lạm dụng quá nhiều kiến thức và thời lượng bài học. Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu, từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Tác phong giáo viên chững chạc, nghiêm túc nhưng lại vui vẻ, gần gũi, hòa đồng với học sinh; lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn tạo sự hấp dẫn và pha trộn ít hài hước trong mỗi trò chơi. Sau mỗi trò chơi phải có thưởng phạt phân minh. Tuy nhiên, nên tránh xử phạt đối với đội thua, người thua, mà tập trung tuyên dương, khen thưởng (nếu có) đối với người thắng, đội thắng. Sau khi chơi, giáo viên cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi. Về cách chơi, trước hết, giáo viên phải chia được các đội chơi phù hợp, cân đối lực lượng, hợp với yêu cầu trò chơi. 8 Sau đó, giới thiệu trò chơi, luật chơi, quán triệt ý thức kỷ luật khi chơi. Đây là khâu rất quan trọng, giáo viên nên giới thiệu trò chơi một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, thu hút và hấp dẫn người chơi (nếu luật chơi khó thì giáo viên có thể chơi mẫu trước). Động viên học sinh chơi nhiệt tình, hết mình, chơi đẹp, đảm bảo nề nếp, nội quy nhà trường. Sau đây là một số trò chơi mà bản thân tôi đã áp dụng rất hiệu quả: Trò chơi “Chạy tiếp sức”: Giáo viên chuẩn bị sẵn một số bài Toán hoặc câu hỏi có nội dung liên quan đến tiết dạy. Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, phấn, bút dạ. Cách chơi: Giáo viên đưa đề bài lên bảng phụ (hoặc màn hình chiếu); cho các đội thảo luận làm bài theo dãy hoặc khu vực (tương đương với số nhóm đề bài giáo viên đưa ra); học sinh trao đổi một số phút (tùy mức độ yêu cầu). Giáo viên bốc thăm chọn ra 2 (hoặc 3) đội chơi. Khi có hiệu lệnh của giáo viên, lần lượt từng thành viên của 2 (hoặc 3) đội dùng phấn (bút) lên viết đáp án tương ứng vào phần bảng của đội mình. Mỗi lần lên bảng chỉ được ghi một câu trả lời (hoặc một bước trong toàn bộ công việc của đội). Học sinh này ghi xong, chạy về trao phấn cho bạn để bạn đó được lên bảng. Người lên sau có thể sửa kết quả của người lên trước, nhưng khi sửa thì không được làm thêm việc khác, hết lượt có thể vòng lại lượt 2, 3...). Thời gian chơi được quy định trước (nên từ khoảng 1 - 3 phút), đội nào xong trước là đội giành chiến thắng về mặt thời gian. Khi hết giờ chơi, giáo viên ra hiệu lệnh dừng cuộc chơi. Giáo viên và cả lớp cùng đánh giá, cho điểm, đội chiến thắng là đội hết ít thời gian mà có kết quả tốt nhất. Trò chơi “Ai nhanh mắt hơn”: Giáo viên chuẩn bị sẵn một số nội dung kiến thức cần kiểm tra (bằng chữ hoặc hình vẽ) để đưa lên màn hình máy chiếu (hoặc bảng phụ). Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút dạ. Cách chơi: Giáo viên chiếu nội dung kiến thức cần kiểm tra lên màn hình; yêu cầu học sinh tìm và liệt kê những hình, những số, những vấn đề liên quan đến 9 bài học vào bảng nhóm. Trong vài phút, đội nào tìm được nhiều hình, hoặc nhiều số… (ghi lên bảng nhóm) chính xác hơn thì đội đó sẽ thắng cuộc. Trò chơi “Thử tài ghi nhớ”: Giáo viên chuẩn bị một số nội dung kiến thức cần thiết liên quan đến bài học (đưa vào máy tính hoặc ghi sẵn lên bảng phụ). Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút dạ. Cách chơi: Giáo viên đưa nội dung cần thử trí nhớ lên màn hình (hoặc treo bảng phụ) cho các nhóm quan sát trong vòng vài giây đến vài chục giây, sau đó, cất bảng phụ (chuyển slide). Giáo viên yêu cầu học sinh ghi lại những nội dung mà mình đã nhìn thấy. Học sinh các nhóm thi nhau ghi lên bảng nhóm của nhóm mình. Nhóm có nội dung ghi lại đúng và được nhiều hơn là nhóm giành chiến thắng. Trò chơi “Nhà sáng tạo trẻ”: Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, bút dạ. Cách chơi: Để củng cố kiến thức bài dạy, giáo viên cho học sinh giải một số bài tập đơn giản liên quan. Sau đó yêu cầu các đội đặt một bài toán có nội dung tương tự bài tập đã giải, trong đó đã có sáng tạo cho khác đi. Giáo viên cùng nhóm học sinh khác xem xét, kiểm định, đánh giá đề Toán của các đội, rồi đưa ra kết luận đội nào đạt danh hiệu “Nhà sáng tạo trẻ” Ngoài ra còn có rất nhiều trò chơi khác như: Hái hoa dâng chủ, ngôi sao mai mắn (bông hoa mai mắn), đoán hình nền, …….. 2.3. Khả năng áp dụng của giải pháp Sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp nâng cao chất lượng bộ môn Toán ở trường Trung học cơ sở” đang trình bày nói chung không nặng tính lí luận mà chủ yếu đi vào thực tế giảng dạy. Do đó mọi giáo viên làm công tác giảng dạy hầu như đều có thể áp dụng ngay trong công tác giảng dạy của bản thân tại bất kì đơn vị nào. Cách dạy học Toán theo bốn giai đoạn như trên, tuy chưa thoát ly nhiều so với cách dạy học truyền thống, nhưng đã phần nào tỏ ra có hiệu quả thiết thực đối với sách giáo khoa đã được biên soạn lâu nay, phù hợp với hình thức dạy học theo 10 tiết (45 phút), phù hợp với trình độ nhận thức của đối tượng học sinh diện đại trà trong học tập môn toán. Với mục đích giảm tỉ lệ học sinh yếu kém, ngoài việc theo dõi thường xuyên giáo viên cần tạo cho các em sự hứng thú trong học tập thông qua các bài tập ở mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng thấp. Để có thể dạy học theo bốn giai đoạn như trên đòi hỏi giáo viên phải: Hiểu sâu sắc kiến thức và vận dụng phương pháp. Trong soạn bài, giáo viên cần chuẩn bị cả bốn loại bài tập cho 4 giai đoạn, bên cạnh đó còn phải biết phân loại bài tập phù hợp cho từng đối tượng học sinh trong lớp. Và phải biết điều hành các đối tượng học sinh trong một lớp cùng hoạt động bằng cách giao cho mỗi loại đối tượng một dạng bài tập phù hợp với nhận thức của họ, có như thế giờ học mới sinh động và lôi cuốn. Trong mỗi tiết dạy, bên cạnh những bài tập nâng cao dành cho những học sinh khá - giỏi, giáo viên còn sử dụng những học sinh này làm nguồn định ra hướng giải cho các em học sinh yếu để các em vận dụng tính tương tự khi làm bài tập. 2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp Sau khi thực hiện các biện pháp trên, bản thân nhận thấy bộ môn mình giảng dạy có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, chất lượng học tập của học sinh được nâng cao. Đồng thời, người giáo viên cũng cần đầu tư thật nhiều vào công tác giảng dạy, phải thâm nhập vào tư tưởng ở mỗi học sinh, nắm bắt kịp thời ở từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu, kém để tìm ra cách dạy phù hợp, hiệu quả, nhằm giảm tối đa tỉ lệ học sinh yếu kém trong từng năm học. Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ bản sau mỗi bài học. 11 Tóm lại, bản thân vận dụng các biện pháp trên khi dạy học sinh thì rõ ràng các bài kiểm tra đã được nâng lên. 2.5. Tài liệu kèm theo: Không 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan