Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn biện pháp giúp hs lớp 3 học toán có lời văn hiệu quả...

Tài liệu Skkn biện pháp giúp hs lớp 3 học toán có lời văn hiệu quả

.DOC
11
101
116

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "GIÚP HS LỚP 3 HỌC TOÁN CÓ LỜI VĂN HIỆU QUẢ" I./ Lý do hình thành sáng kiến: Bước vào năm học, sau khi nhận học sinh một vài tuần, các nề nếp đang được ổn định dần, song song tiến hành ôn tập Toán, ôn luyện lại các kiến thức đã học, nhanh chóng giúp các em củng cố sau ba tháng hè. - Qua kiểm tra ôn tập hằng học, lớp tôi có một số học sinh chưa thực sự ham học môn toán giải có lời văn, vào tiết học thụ động, lười , ít chú ý môn học. Vì vậy, tôi đã áp dụng một số biện pháp mà những năm qua tôi thực hiện có kết qua.û Trăn trở trước đối tượng học sinh chưa ham học toán có lời văn. Vì các em không những thụ động trong học tập mà còn ham chơi làm ảnh hưởng lớn đến chỉ tiêu lớp. Trong khi phương pháp học mới của chương trình tiểu học hiện nay lại coi trọng việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, cần tổ chức nhiều hình thức học tập thu hút học sinh. Cũng như những năm trước, năm nay lớp tôi cũng tiếp nhận một số học sinh chưa thực sự ham học toán có lời văn, khiến tôi ưu tư lo lắng làm thế nào giúp các em thấy việc học toán là nhu cầu cần thiết, giúp các em ham học và chịu khó học bài, làm bài. II/. Nội dung và biện pháp giúp đỡ học sinh yếu khi giải toán có lời văn: 1/. Quá trình phát triển kiểm nghiệm: - Dạy toán nhằm giúp học sinh: - Việc dạy học giải toán nhằm giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức về toán, được rèn luyện thực hành với những yêu cầu thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyên phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. - Giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác : Xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu , giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán: chọn được phép tính thích hợp trả lời đúng câu hỏi của bài toán. - Các bài toán số học được phân chia thành các bài toán đơn và khối các bài toán hợp. Bài toán được giải bằng một bước tính gọi là bài toán đơn; bài toán được giải bằng một số bước được gọi là bài toán hợp. - Hình thành và rèn luyện kỹ năng: thực hành, đọc, viết, đếm, so sánh các số, giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ, bước đầu diễn đạt bằng lời… Những nội dung có quan hệ đến đời sống thực tế của học sinh. - Giáo dục học sinh: chăm chỉ, tự tin, cẩn thận, ham hiểu biết và hứng thú trong học tập toán - Thông qua các hoạt động dạy học giải toán có lời văn , giáo viên tiếp tục giúp học sinh : Phát triển các năng lực tư duy ( so sánh, lựa chọn, phân tích , tổng hợp, trừ tượng hoá, khái quát hoá); Pháp triển trí tưởng tượng không gian, tập nhận xét các số liệu thu thập được, diễn đạt gọn, rõ, đúng các thông tin , cẩn thận, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành toán . 2/. Thực trạng ban đầu: Thực tế qua giảng dạy, tôi thấy các em còn chưa ham học trong việc giải toán có lời văn. Trong các lý do dẫn đến học sinh khi giải toán có nhiều nguyên nhân:  Giáo viên: - Kế hoạch bài soạn của giáo viên còn sơ sài hoặc bỏ qua khâu hướng dẫn. Giáo viên chỉ soạn qua loa. Hay chỉ truyền thụ những kiến thức sẵn có để cung cấp cho học sinh. - Giáo viên còn lúng túng khi đặt câu hỏi để hướng dẫn học sinh giải. - Truyền đạt của giáo viên khi hướng dẫn giải không rõ ràng, khó hiểu. - Chưa đúc kết được kinh nghiệm hướng dẫn giải. Mà cứ hướng dẫn theo bài bản sư phạm của môn toán ở Tiểu học. Làm học sinh trung bình, yếu, kém, không thể tiếp thu được để giải bài toán.  Học sinh: - Học sinh đọc cho qua loa, không cần suy nghĩ giải như thế nào? - Đưa ra đề toán cho học sinh rất lười, không đọc đề để hiểu yêu cầu bài tập làm gì? - Giải toán có lời văn học sinh chưa biết cách để thể hiện bài giải, khó nhận ra đâu là đơn vị , lời giải của bài toán - Học sinh không cảm thụ được đề toán yêu cầu làm gì ? và phải làm như thế nào?  Tóm lại học sinh không nhận ra được yêu cầu cốt lỏi ở bài toán có lời văn và nếu thể hiện thì còn nhiều yếu tố như : trình bày bài giải, cách thể hiện bài giải, cách nhận ra phép tính cần làm để đáp ứng câu hỏi của bài, cách tìm ra đơn vị, đáp số của bài… Từ đó học sinh không giải được hoặc giải không hoàn chỉnh được bài toán có lời văn . - Từ những vấn đề trên tôi thiết nghĩ cần phải có hướng dạy học sau cho phù hợp đối với từng học sinh, từng có biện pháp giúp học simh, giải toán có lời văn nói riêng và chất lượng cả môn Toán nói chung. Để thực hiện điều này tôi đúc kết thành kinh nghiệm của bản thân để giúp đỡ học sinh giải toán có lời văn tốt hơn . 3/. Phương pháp dạy học - Các biện pháp để nâng cao chất lượng: 3 .1 Định hướng chung về phương pháp dạy học: - Quá trình dạy học toán lớp 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ , phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. -Để làm được như vậy , sách giáo khoa và các tài liệu hướng dẫn giảng dạy cần giúp Gv tổ chức các hoạt động học tập, thường xuyên tạo ra tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ vấn đề đó, huy động các kiến thức và công cụ đã có để tìm con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong quá trình giải quyết vấn đề, diễn đạt và các bước đi trong cách giải, tự kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải. Đó là những cơ hội để rèn luyện ngôn ngữ toán học và tập dượt cho học sinh suy luận, hình thành phương pháp học tập và làm việc khoa học, giúp học sinh tự pháp hiện và chiếm lĩnh tri thức mới, tự kiểm tra và tự khẳng định những tiến bộ của mình. 3 .2 Phương pháp cách tổ chức dạy học về nội dung giải bài toán có lời văn: - Dạy học toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy ở học sinh ( phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra qui tắc ở dạng khái quát nhất định,,,) Tuy nhiên để đạt hiệu cao, người giáo viên phải biết tổ chức, hướng dẫn cho học sinh (cá nhân , nhóm , cả lớp ..) hoạt động theo chủ đích với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và của đồ dùng dạy học, đe åmỗi cá nhân học sinh “ khám phá” tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến thức có liên quan đã học, với kinh nghiệm bản thân ( đã học được ở trường , trong đời sống …) - Với đặc trưng của mạch kiến thức này, cần lưu ý một số điểm mang tính phương pháp, cách tổ chức dạy học. Cụ thể là : + Điều chủ yếu khi giải toán có lời văn là dạy học sinh biết cách giải bài toán ( phương pháp giải toán ) Giáo viên không làm thay , không được áp đặt cách giải. Cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán ( tập trung vào ba bước : Tóm tắt bài toán để biết bài toán cho gì ? , hỏi gì ? , yều cầu gì ?). + Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ liệu của đề bài ( giả thiết ) với yêu cầu của bài ( kết luận ) để tìm phép tính tương ứng . + Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số . + Trong giải toán, giáo viên cần khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải và biết so sánh, lựa chọn cách giải tốt. Dần dần, hình thành cho học sinh thói quen không bằng lòng với kết quả đạt được và có lòng mong muốn tìm giải pháp tốt cho bài làm của mình. Vì vậy , điều đáng quan tâm không phải là học sinh làm được nhiều bài và giáo viên cung cấp thêm nhiều bài tập cho học sinh mà chính là giáo viên cùng học sinh khai thác được các tiềm năng trong các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi ý kiến về các cách giải , qua củng cố , khắc sâu kiến thức bài học. 3.3 BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH - Để đạt mục đích trên, giáo viên phải thực hiện các yêu cầu sau: + Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ,.. (chuẩn bị cho học giải toán ) + Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải . + Rèn luyện kĩ năng giải toán . - Hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ: + Bài toán có lời văn nêu các vấn đề thường gặp trong đời sống các vấn đề đó gắn liền với nội dung ( khái niệm, cấu trúc , thuật ngữ) toán học, do vậy giáo viên cần cho học sinh nắm vững khái niệm , thuật ngữ - Việc giải toán có lời văn, giáo viên giúp học sinh hình thành bước đầu về cách trình bày dạng bài toán có lời văn, biết giải các bài toán đơn về thêm bớt (giải bằng một phép cộng hoặc phép trừ , nhân chia ) trình bày bài giải gồm : câu văn thể hiện lời giải, phép tính, đáp số. - Ở lớp 3 , học sinh cần nắm rõ thế nào là bài toán hợp, giải bằng hai phép tính , giải bài hợp khác với bài toán đơn ( giải bằng một phép tính ở lớp 1 , lớp 2 nhứ thế nào ? Trên cơ sở cách giải bài toán đơn mà chuyển sang hình thành các bước giải của bài hợp ( Bài toán đơn có một bước giải, bài toán hợp có hai bước giải mà trong đó mỗi bước giải có câu lời giải và phép tính tương ứng ) Giải bài toán hợp cần chú ý : + Khi tóm tắt bài toán, giáo viên cho học sinh đọc kĩ bài toán . Điều này hết sức cần thiết nhằm làm rõ giả thiết ( bài toán cho gì ?) và kết luận ( bài toán hỏi gì ? yều cầu gì ?) Có thể tóm tắt bằng lời văn hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng. Từ đó học sinh có thể tìm mối quan hệ giữa “ cái đã biết và cái chưa biết “ đó là cầu nối để tìm cách giải quyết một cách hợp lí. Tuy nhiên không nhất thiết phải viết phần tóm tắt vào phần trình bày lời giải. + Khi trình bày lời giải, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ quy trình phải làm : Viết được câu lời giải và phép tính tương ứng. Cần kiên trì để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời trước khi viết câu lời giải. Có thể chấp nhận cách diễn đạt tuy “ vụng về” nhưng đúng, rồi giáo viên uốn nắn sửa dần. Cái”khó “ của việc giải toán có lời văn trong toán lớp 3 đối với học sinh chính là trinh bày (viết ) bài giải . Điều này đòi hỏi giáo viên không sốt ruột, vội vàng làm thay học sinh mà phải cho học sinh tự luyện viết câu lời giải nhiều. 3.4/ Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải: - Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nôi dung bài toán bằng các thao tác : + Đọc bài toán ( đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm- đọc bằng mắt). + Tìm hiểu một số từ , thuật ngữ quan trọng để tìm hiểu nội dung, nắm bắt bài toán cho biết cái gì, bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? - Tìm cách giải bài toán bằng các thao tác : + Tóm tắt bài toán (tóm Hoạt động này thường được tiến hành theo các bước sau: tắt bằng lời, tóm tắt bằng hình vẽ, tóm tắt bằng sơ đồ ). + Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt. + Lập kế hoạch giải bài toán : Xác định trình tự giải bài toán, thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho . Xác lập mối qua hệ giữa các điều kiện đã cho với yêu cầu bài toán phải tìm và tìm được đúng phép tính số học thích hợp. - Thực hiện cách giải và trình bày lời giải bằng các thao tác : + Thực hiện các phép tính đã xác định ( có thể viết phép tính sau khi viết câu lời giải và thực hiện phép tính ). + Viết câu lời giải. + Viết phép tính tương ứng . + Viết đáp số. - Kiểm tra bài giải: Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải, kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu bài toán. . Ví dụ : * Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải bài toán sau: Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127 kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch hai thửa ruộng được bao nhiêu ki- lô- gam cà chua? * Cho học sinh tìm hiểu thuật ngữ “ thu hoạch” nghĩa là gì ?( đồng nghĩa với việc hái cà chua để sử dụng). ; Thuật ngữ “ ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất”. * Nắm bắt nội dung bài toán : + Biết số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất 127 kg và số cà chua ở thửa ruộng thứ hai nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. * Tìm cách giải bài toán :  Tóm tắt bài toán : Bước đầu học sinh mới giải toán , giáo viên làm mẩu và hướng dẫn học sinh tóm tắt , các bài tập kế tiếp giáo viên chỉ định, hướng dẫn kiểm tra học sinh tự tóm tắt ( tóm tắt bằng lời, hoặc tóm tắt bằng hình vẽ).  Tóm tắt gắn gọn làm nổi bật yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm . Cách 1 : Thửa 1 : 127 kg cà chua. Thửa 2 : Gấp 3 lần thửa 1 ? kg cà chua Cách 2 : Thửa 1 : Thửa 2 : ? Kg cà chua  Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt ( không nhìn đề toán mà nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và ngôn ngữ của từng em).  Lập kế hoạch giải toán * Xác định bài toán theo cách thông thường:  Tìm số cà chua ở hai thửa ruộng , cần biết những yếu gì ?( Biết số cà chua ở từng thửa ruộng là bao nhiêu kilôgam? ).  Số ki- lô –gam cà chua ở từng thửa ruộng đã biết chưa ? (Biết số kilô gam cà chua ở thửa thứ 1 là 127 kg, còn số kilôgam cà chua ở thửa ruộng thứ 2 chưa biết) .  Vậy phải tìm số kilô gam cà chua ở thửa thứ 2. * Tình tự giải:  Trước hết tìm số kilôgam cà chua ở thửa ruộng thứ hai.  Sau đó tìm tìm số cà chua ở hai thửa ruộng.  Xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp : - Tìm số cà chua ở thửa ruộng thứ 2 ? + Biết số cà chua ở thửa thứ 1 là 127 kg . + Biết số cà chua ở thửa thứ 2 nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa thứ 1 . + Vậy số kilôgam cà chua ở thửa thứ 2 bằng số kilôgam cà chua ở thửa thứ 1 nhân với 3 . - Tìm số cà chua ở hai thửa ruộng ?  Biết số cà chua ở thửa 1 : 127kg  Biết số cà chua ở thửa thứ 2 : ( 127x 3) kg  Vậy số cà chua ở hai thửa ruộng bằng tổng số kilôgam cà chua ở hai thửa ruộng. - Thực hiện cách giải và trình bày :  Giáo viên cho học sinh thực hiện các phép tính trước ở ngoài nháp sau đó trình bày bài giải hoặc viết câu lời giải và phép tính tương ứng , thực hiện phép tính ,viết kết quả. Số kilôgam cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai là : 127 x 3 = 381 ( Kg ) Số kilôgam cà chua thu hoạch ở hai thửa ruộng là : 127 + 381 = 508 (Kg ) Đáp số : 508 Kg .  Kiểm tra bài giải : Kiểm tra tóm tắt , câu lời giải , phép tính , bằng cách đọc lại , làm lại phép tính … * Tổ chức rèn kĩ năng giải toán + Sau khi học sinh đã biết cách giải toán ( có kĩ năng giải toán ), để định hình kĩ năng ấy, giáo viên rèn kĩ năng giải toán cho học sinh. Rèn kĩ năng giải toán, nghĩa là cho học sinh vận dụng kĩ năng vào giải các bài toán khác nhau về hình thức . Giáo viên có thể rèn kĩ năng từng bước hoặc tất cả các bước giải toán. Ví dụ : Rèn kĩ năng tìm hiểu nội dung bài toán bằng các thao tác: + Đọc bài toán ( đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt ). + Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để tìm hiểu nội dung của các bài toán cụ thể ở sách giáo khoa.  Tóm lại để giải bài toán có lời văn học sinh cần nắm các yếu tố sau.  Giải toán có lời văn:  . Tìm hiểu bài toán: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? (Tức là bài toán đòi hỏi phải tìm gì?)  Giải bài toán: + Thực hiện phép tính để tìm điều chưa biết nêu trong câu hỏi + Trình bày bài giải: • Nêu câu lời giải • Phép tính để giải bài toán • Đáp số 4/. Kiểm nghiệm lại kết quả thực hiện:  Sau thời gian thử áp dụng các biện pháp , cách tổ chức, vãn dụng các phương pháp trên, nhận thấy chất lượng của các em chuyển biến rõ rệt, chất lượng của học sinh yếu kém nói riêng và cho cả lớp nói chung có giảm dần.  Khi học sinh gặp dạng toán có lời văn có đến 70% học sinh không hoàn chỉnh bài giải. Khi thì cách đặt lời giải, khi thì phép tính sai, thiếu đơn vị hay sai đơn vị… Từ những thực tiễn năm qua tôi đúc kết được kinh nghiệm cho bản thân và áp dụng cho học sinh có sự thay đổi, thêm vài học sinh làm được, tiếp theo cho đến cuối năm chỉ còn khoảng 10-15% học sinh còn chưa hoàn chỉnh bài giải.  Bản thân không ngừng học tập bồi dưỡng nghiệp vụ, tay nghề trau đổi chuyên môn qua những lần sinh hoạt tổ. Thao giảng chuyên đề toán trong tổ, từ đó bản thân đúc kết những kinh nghiệm thực tế để áp dụng vào đề tài đang áp dụng dạy thử cho đồng nghiệp trong tổ nhận xét đánh giá, bàn bạc tìm ra phương pháp tốt nhất trong giảng dạy.  Người giáo viên cần quan tâm nhiều hơn nữa đến học sinh. Không chỉ riêng giải toán có lời văn mà cho cả môn Toán.  Mục đích của đề tài này nhằm đưa ra những hướng khắc phục trong giảng dạy toán có lời văn làm nền tảng cho các lớp trên.  Việc đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy học sinh làm trung tâm cần thiết, theo hướng đổi mới hiện đại hoá hiện . Học sinh chủ động trong các hoạt động, giáo viên chỉ hướng dẫn giúp đỡ các em . Đối với học sinh yếu giáo viên cần ân cần giúp đỡ, nhắc nhỡ, khen ngợi kịp thời. 5 NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG Qua nhiều năm giảng dạy đối với học sinh chưa ham học toán, muốn giúp các em ham học và lấy lại căn bản, người giáo viên phải có cái tâm, phải thật sự yêu thương học sinh như thế mới tận tuỵ trong nghề nghiệp, mới chịu khó, kiên trì dạy dỗ các em . Do vậy ta phải tạo cho các em một niềm tin vào bản thân cũng như quyết tâm trong học tập. Cụ thể: - Tổ chức họp nhóm để các em cùng bạn trao đổi bàn bạc, thống nhất, khi được nhận xét, đóng góp ý kiến cá nhân, các em sẽ thích học và mau tiến bộ hơn. - Truyền thụ kiến thức mới: Không nói nhiều, không vội làm thay cho học sinh mà phải để cho các em tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề. - Biết dựa vào học sinh khá giỏi để giúp bạn cùng tiến bộ. 6 / Bài học kinh nghiệm: Từ những nguyên nhân trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Cả Thầy trò phải rèn tính kiên trì, bình tĩnh, cẩn thận, chịu khó trong giảng dạy cũng như trong học tập. - Biết phát huy năng lực tiếp thu của học sinh và động viên tinh thần học tập của các em kịp thời đúng lúc. - Chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp nội dung bài học. - Tránh tạo mặc cảm yếu kém ở các em mà bằng mọi cách phải tạo được niềm tin ở khả năng mình. Ngoài ra người giáo viên phải thật sự thương yêu và gần gũi các em, luôn tìm phương pháp giảng dạy hết sức cụ thể, ngắn gọn để các em dễ nắm, dễ nhớ, dễ làm. Chú trọng rèn kỹ năng đọc viết và kỹ thuật tính cho các em càng nhiều càng tốt. Những kinh nghiệm trên chẳng những tôi áp dụng ở lớp, mà còn giới thiệu ra tổ chuyên môn để các đồng nghiệp cùng thực hiện và đạt kết quả khá tốt. Muốn đạt được chất lượng trong giảng dạy, người giáo viên phải được nâng cao tay nghề, phải tìm tòi nghiên cứu tìm ra những cách tốt nhất cho học sinh. Trước tiên người giáo viên phải chuẩn bị tốt kế hoạch bài học khi lên lớp. Thường xuyên sửa đổi bổ sung những rút mắc trong quá trình giảng dạy. Người giáo viên phải kịp thời phát huy những mặt tốt, còn những thiếu sót, chưa tốt có thể trao đổi cùng đồng nghiệp trong các lần sinh hoạt tổ để cùng tìm ra cách giải quyết. Trong quá trình giảng dạy trên lớp giáo viên phải vận dụng lời nói rõ ràng cụ thể bám sát từng học sinh. Giáo viên phải tận dụng tất cả những đồ dùng hiện có, sử dụng trực quan, tranh ảnh, mô hình… Người giáo viên phải kiên trì vượt qua những khó khăn “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Luôn tham gia học hỏi trau dồi kinh nghiệm. “Thầy dạy tốt trò học tốt”. Do đó người giáo viên cần nắm vững phương pháp giảng dạy. Chuẩn bị tốt cho tiết dạy và áp dụng một cách nhuần nhuyễn linh hoạt. Giáo viên phải luôn quan tâm giúp đỡ học sinh yếu, uốn nắn sửa sai kịp thời động viên khích lệ học sinh “Vừa học vừa chơi, vừa chơi vừa học”. Bên cạnh cần có sự thống nhất trong tổ chuyên môn, tích cực tham gia chuyên đề do tổ, trường tổ chức nhằm góp phần nâng cao chất lượng. III/. Kết luận: Người giáo viên phải luôn nắm vững các kiến thức, kĩ năng và giáo dục học sinh. Khi giảng dạy luôn theo hướng đổi mới lấy học sinh làm trung tâm, học sinh học theo hướng tích cực. Giáo viên luôn quan tâm giúp đỡ các em. Giáo viên quan sát theo dõi để có biện pháp giúp đỡ phù hợp. Người giáo viên phải nắm rõ nguyên nhân tại sau các em học yếu ? Yếu ở phần nào ? Từ đó để có biện pháp giúp đỡ thích hợp với từng học sinh. Với khả năng có hạn và thời gian thực hiện đề tài còn ít, chắc chắn những vấn đề được đưa ra còn những khuyết điểm, mong được các đồng nghiệp trao đổi thêm để người viết có điều kiện điều chỉnh cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn . Tôi chân thành cám ơn các tập thể, cá nhân đã giúp tôi hoàn thành đề tài này kinh nghiệm của bản thân, rất mong quý thầy cô nhiệt tình đóng góp. Từ đó để có biện pháp giúp đỡ học sinh ham học, khi giải toán có lới văn tốt hơn. Tôi xin chân thành cám ơn!
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất