Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn bàn thêm về việc ra đề chấm trả bài tập làm văn thcs...

Tài liệu Skkn bàn thêm về việc ra đề chấm trả bài tập làm văn thcs

.DOC
26
118
59

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn MỤC LỤC 1.PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài 1.2 Mục đích nghiên cứu 1.3 Đối tượng nghiên cứu 1.4 Phương pháp nghiên cứu 1.5 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2.NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lí luận của vấn đề 2.2 Thực trạng của vấn đề a.Thuận lợi và khó khăn b.Thành công và hạn chế c. Mặt mạnh,mặt yếu d. Các nguyên nhân và yếu tố tác động e. Phân tích và đánh giá thực trạng mà đề tài đã đặt ra 2.3 Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp,biện pháp c. Điều kiện thực hiện các giải pháp và biện pháp e.Kết quả khảo nghiệm và giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 2.4 Kết quả thu được 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1 Kết luận 3.2 Kiến nghị Trang 2 Trang 2 Trang 3 Trang 3 Trang 3 Trang 4 Trang 4 Trang 4 Trang 5 Trang 5 Trang 6 Trang 6 Trang 7 Trang 8 Trang 9 Trang 9 Trang 10 Trang 22 Trang 22 Trang 22 Trang 23 Trang 23 Trang 24 1.MỞ ĐẦU: 1.1 Lý do chọn đề tài: Bộ GD- ĐT đã từng nhận xét tình hình giảng dạy ở môn Tập làm văn như sau: “Thiếu sót lớn nhất trong việc giảng dạy Tập làm văn hiện nay là việc chấm bài.Bên cạnh một số đông tận tụ, có một số giáo viên vẫn chưa có đầy đủ tinh thần trách nhiệm trong việc chấm bài học sinh. Nhiều giáo viên chỉ chấm bài qua loa, nhận xét chung chung, bỏ mặc nhiều lỗi của học sinh trong bài làm. Trang 1 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Thậm chí một số giáo viên chấm không đủ bài Tập làm văn theo quy định.Hiện nay có quá nhiều học sinh viết văn kém.Tình trạng đó chính là hậu quả của việc chấm bài chưa đầy đủ tinh thần trách nhiệm của giáo viên. Đối với giáo viên chưa lo đến việc chấm bài thì phương pháp chấm cũng ít tác dụng đối với học sinh. Giáo viên chưa yêu cầu học sinh tự chữa lỗi trong bài làm văn của mình, chưa chú ý cân đối đến việc khích lệ những cố gắng và chỉ rõ những sai sót về nội dung và hình thức diễn đạt trong bài làm của học sinh. Giáo viên chưa thực hiện đúng yêu cầu quy định là cho học sinh làm bài vào vở (hoặc làm vào giấy rời thì đính vào từng tập) để giáo viên có thể theo dõi sát sự chuyển biến của học sinh qua từng bài làm”. Theo công văn hướng dẫn dạy- học môn Văn- Tiếng Việt đã nhấn mạnh: “ Đối với phân môn Tập làm văn, giáo viên phải hình thành kĩ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý và kĩ năng hành văn cho học sinh. Việc ra đề Tập làm văn phải có đáp án, sát hợp với chương trình, làm sao đa số học sinh có học lực trung bình đều có thể làm được bài. Việc chấm bài Tập làm văn phải được tiến hành nghiêm túc, chú ý gạn đục, khơi trong, trân trọng những ý tưởng, những phát hiện mới lạ của học sinh. Những bài làm hoàn chỉnh, hành văn lưu loát đáp ứng những yêu cầu của đề bài phải được cho điểm cao( thang điểm 9, 10) đề khuyến khích các em vươn lên trong học tập”. Qua quá trình giảng dạy, đã tiến hành dự giờ và tham khảo giáo án các đồng nghiệp tôi nhận thấy: - Về giáo án, một số giáo viên ra đề Tập làm văn cho học sinh đáp án biểu điểm chấm hết sức tùy tiện, qua loa đại khái(hình thức đối phó gọi là “có”). Từ đó dẫn đến việc chấm bài một cách cảm tính, thiếu chính xác. - Về chấm bài, nhận xét, cho điểm qua loa đại khái thiếu tinh thần trách nhiệm : + Nhận xét chung chung không cụ thể: không sữa lỗi hoặc bỏ qua nhiều lỗi trong bài làm của học sinh, viết tắt, cẩu thả trong phần “lời phê”. + Cho điểm: Chỉ tập trung điểm 4, 5, 6 ngại cho điểm 8 , 9, 10 làm cho một số học sinh có bài làm tốt thiệt thòi trong quá trình làm văn, góp phần làm Trang 2 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn cho tâm lí các em không thích học văn, vì cố gắng cũng chẳng bao giờ đạt điểm cao. - Về trả bài: Tôi thấy một số thầy cô giáo chưa có sự chuẩn bị chu đáo để giờ trả bài thực sự có hiệu quả: Giáo án tiết trả bài sọan quá ngắn gọn với những lời nhận xét chung chung, bài nào cũng như bài nào, không có những nhận xét cho những bài làm cụ thể. Nên khi lên lớp giáo viên chưa có những nhận xét xác đáng, trả bài thiếu tính hệ thống, không có phần sữa lỗi trong bài làm của học sinh. Do đó, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “ Bàn thêm về việc ra đề - chấm - trả bài tập làm văn” để giáo viên Ngữ Văn cùng nhau bàn bạc thấu đáo để công việc này thực sự có hiệu quả hơn. 1.2.Mục đích nghiên cứu: - Mục đích của đề tài này là theo dõi sự tiến bộ của các em qua từng bài làm, khắc phục những hạn chế trong bài làm của các em để điều chỉnh phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh.Giúp học sinh học sinh đúc rút kinh nghiệm, phân tích cái hay cái dở trong bài làm của mình, nêu phương hướng phấn đấu sửa chữa và vươn lên ở những bài sau.Từ đó phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh khối 6 đến khối 9 của Trường THCS Đăk Drô . 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Nghiên cứu các tiết tập làm văn trong SGK, SGV, sách chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn từ khối 6 đến khối 9. Đọc, nghiên cứu tài liệu từ các nguồn: sách, báo, internet - Thu thập dẫn chứng qua tiết dạy của bản thân và đồng nghiệp. - Nghiên cứu và thực nghiệm việc ra đề, chấm , trả bài qua các tiết tập làm văn cụ thể. 1.5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: Trang 3 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn - Về môn Ngữ văn có rất nhiều vấn đề để nghiên cứu song ở đây tôi chỉ chọn nghiên cứu việc ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn mà thôi. 2. NỘI DUNG: 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Làm văn là giờ học mang tính thực hành tổng hợp ở trình độ cao của ba phân môn : Tiếng Việt- Đọc văn và làm văn.Đây là gờ học giờ học thể hiện rõ nhất kết quả dạy và học môn ngữ văn của thầy và trò. Nó góp phần quan trọng trong việc trực tiếp hình thành mục tiêu : Phát triển năng lực tạo lập văn bản với yêu cầu không những đúng mà còn phải hay cho học sinh. Làm văn không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu, thực hành và vận dụng những gì đã học trong giờ Ngữ văn vào tạo lập một văn bản mà còn chứa đựng trong nó cả nhận thức, tình cảm, cá tính, tâm hồn, năng lực tư duy của các em . Mỗi bài Làm văn là một sản phẩm tổng hợp về nhân cách cá tính của mỗi học sinh. Do đó ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn là khâu quan trọng để đánh giá khách quan những sáng tạo nhỏ của các em học sinh, đánh khả năng tiếp thu bài học lý thuyết mà giáo viên truyền đạt cho để áp dụng vào thực hành. Đây cũng là khâu quan trọng giúp cho học sinh nhận ra những ưu khuyết điểm trong bài làm của mình để rút kinh nghiệm cho những bài viết lần sau tốt hơn. Tuy nhiên trên thực tế, một số giáo viên còn coi nhẹ công tác ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn. Giáo viên ra đề chưa sát với đối tượng học sinh ở vùng miền mình giảng dạy, chấm bài qua loa đại khái thiếu tâm huyết, tiết trả bài được thực hiên một cách đơn giản chưa có sự chuẩn bị chu đáo để giờ trả bài thực sự có hiệu quả. Giáo án tiết trả bài sọan quá ngắn gọn với những lời nhận xét chung chung, bài nào cũng như bài nào, không có những nhận xét cho những bài làm cụ thể. Do đó, khi lên lớp, giáo viên chưa có những nhận xét xác đáng, trả bài thiếu tính hệ thống, không có phần sữa lỗi trong bài làm của học sinh. Từ đó, dẫn đến học sinh chưa ý thức đúng vai trò của tiết trả bài. Chỉ mong ngóng mình được bao nhiêu điểm để mà buồn mà vui thôi chứ chưa có ý thức phát huy những mặt tốt và khắc phục những thiếu sót trong bài làm của mình. Trang 4 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Từ những vấn đề trên, để khắc phục những hạn chế của việc ra đề, chấm, trả bài Tập làm văn tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “ Bàn thêm về việc ra đề - chấm trả bài Tập làm văn”. 2.2.Thực trạng của vấn đề: Từ năm học 2008-2009, tôi được phân công về công tác tại trường THCS Đăk Drô – xã Đăk Drô – huyện Krông Nô. Từ đó đến nay, tôi đã được giảng dạy môn Ngữ văn từ khối 6 đến khối 9. Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy thực trạng của việc ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn như sau: a.Thuận lợi khó khăn: a.1.Thuận lợi: Hiện nay, tất cả bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng đang thực hiện đổi mới một cách toàn diện trong đó có đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học mới đòi hỏi: “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” và “phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học”. Để thực hiện tốt công tác đổi mới phương pháp dạy học trong môn Ngữ văn, Phòng Giáo dục huyện Krông Nô, trường THCS Đăk Drô thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho giáo viên. Qua các buổi tập huấn này, tôi đã rút ra được nhiều bài học bổ ích phục vụ cho công tác giảng dạy môn Ngữ văn cũng như thực hiện việc ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn.. - Mặt khác, hiện nay công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, đây chính là mảnh đất màu mỡ để tôi tự học hỏi, nghiên cứu khi thực hiện đề tài này. - Bên cạnh đó,ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp, các em học sinh đã tạo động lực to lớn cho tôi thực hiện đề tài này a.2. Khó khăn: - Học sinh yêu môn văn, học giỏi môn văn ngày ngày càng ít, giáo viên dạy văn không được học sinh hưởng ứng nhiều. Chất lượng của các bài viết của học sinh chưa cao, chưa rèn luyện được kỹ năng hoàn thành một bài viết. Bài viết của học sinh mắc nhiều lỗi chính tả, không xác định được yêu cầu của đề bài, không biết triển khai bài viết theo hướng nào, cách dùng từ, đặt câu, dựng Trang 5 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn đoạn …thiếu trong sáng và không hợp lí . Học sinh chưa thấy được những điểm mạnh, điểm yếu trong bài làm của mình. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện đề tài. b.Thành công, hạn chế. b.1.Thành công: Đề tài này đã gúp tôi theo dõi sát sự tiến bộ, những hạn chế của các em qua từng bài làm, để điều chỉnh phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh. Đề tài đã giúp học sinh học sinh đúc rút kinh nghiệm, phân tích cái hay cái dở trong bài làm của mình, có phương hướng phấn đấu sửa chữa và vươn lên ở những bài sau. Do đó chất lượng bài viết của học sinh được nâng cao rõ rệt, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em trong giờ học ,góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS. b.2. Hạn chế: Một số học sinh chưa ý thức hết tầm quan trọng của tiết trả bài nên chưa có ý thức rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau của mình. Do đó trong các bài làm vẫn còn mắc nhiều lỗi như dùng từ, đặt câu, triển khai các ý lộn xộn , sắp xếp bố cục bài làm chưa khoa học… c. Mặt mạnh, mặt yếu. c.1. Mặt mạnh : Là giáo viên được trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở tất cả các khối lớp của bậc THCS, tôi có điều kiện để nắm rõ những mặt được và chưa được trong bài làm của học sinh. Từ đó tôi luôn luôn có ý thức học tập trau dồi kiến thức, tìm hiểu nắm bắt đối tượng học sinh của mình để thực hiện công tác ra đề chấm - trả bài Tập làm văn một cách tốt nhất. c.2. Mặt yếu: Tài liệu tham khảo bồi dưỡng về công tác ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn còn rất ít. Công tác ra đề, chấm trả bài Tập làm văn hầu như không có một tài liệu nào hướng dẫn cụ thể mà hầu hết giáo viên tự mày mò, tự học hỏi để thực hiện. d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động: Trang 6 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Theo tác giả Lê Ngọc Trà, dạy văn tức là: “ khai trí, khai tâm”.Thật vậy, văn có một tính chất đặc biệt, đó là tính toàn vẹn của nhận thức về thế giới, nó có cả nhận thức về lí trí và tình cảm. Thực tế môn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường. Học văn không chỉ học những tri thức về ngôn ngữ, về lí luận ,về lịch sử văn chương mà cốt lõi của việc học văn là bồi dưỡng và phát huy năng lực của mỗi con người: năng lực tư duy, năng lực cảm xúc và năng lực cảm thụ.Tầm quan trọng đó ai cũng biết. Thế nhưng trên thực tế những năm gần đây, học sinh yêu môn văn ngày càng ít đi. Những giờ dạy văn không còn được học sinh đón nhận một cách hứng thú say mê mà cảm thấy chán nản, gò bó. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do nhiều nguyên nhân nhưng theo tôi chủ yếu là bắt nguồn từ giáo viên.Một số giáo viên chưa biết cách dẫn dắt, hướng dẫn học sinh cảm nhận một vấn đề văn chương hay có chăng cũng thực hiện một cách qua loa không đến nơi đến chốn, không có sự động viên, khích lệ dù đó là sự sáng tạo,cảm thụ rất nhỏ bé của các em. Đặc biệt trong việc ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn , một số giáo viên chưa thực sự đầu tư và quan tâm đúng mức. Hơn nữa, giáo viên không có tài liệu soạn mẫu hay mô hình bài soạn để tham khảo, thậm chí ngay cả các đợt tập huấn việc soạn giáo án tiết trả bài như thế nào cũng không thấy đề cập. Chưa có sự thống nhất về cách soạn giảng và chưa coi trọng đến mục tiêu và nhiệm vụ của công tác ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn. Tiết trả bài ít khi được dự giờ,đánh giá.Tổ chuyên môn chưa thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng của mình. Mặt khác, học sinh có thói quen học vẹt bài văn mẫu mà không có kĩ năng viết văn . Bài viết mắc nhiều lỗi chính tả, không xác định được yêu cầu của đề bài , không biết triển khai bài viết theo hướng nào, cách dùng từ , đặt câu,dựng đoạn …thiếu trong sáng và không hợp lí . Học sinh chưa thấy được những điểm mạnh, điểm yếu trong bài làm của mình. Chính vì vậy công tác ra đề - chấm - trả bài Tập làm văn cần phải được nhìn nhận đúng và thực hiện một cách nghiêm túc để đạt hiệu quả tốt hơn. e. Phân tích, đánh giá thực trạng: Trang 7 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Theo khảo sát Ngữ văn năm 1991-1992 của sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cho thấy trong số 897 bài chỉ có 2% không có lỗi chính tả, 0,6% không có lỗi về câu và chỉ có 4,5% viết sạch sẽ không tẩy xóa. Còn bản thân tôi, khảo sát số học sinh trong hai năm học: 2011-2012, 20142015 thì: năm học 2011-2012: Trong 78 học sinh chỉ có 2,6% không có lỗi chính tả, 0% không mắc lỗi về câu, 3,8% viết sạch đẹp không tẩy xóa. Năm 2014-2015: Trong 64 học sinh tôi khảo sát có 1,6% không có lỗi chính tả,1,6% không mắc lỗi về câu, 3,1% viết sạch đẹp không tẩy xóa. Chất lượng của các bài viết của học sinh chưa cao, chưa rèn luyện được kỹ năng hoàn thành một bài viết. Bài viết mắc nhiều lỗi chính tả, không xác định được yêu cầu của đề bài, không biết triển khai bài viết theo hướng nào, cách dùng từ , đặt câu, dựng đoạn …thiếu trong sáng và không hợp lí . Học sinh chưa thấy được những điểm mạnh, điểm yếu trong bài làm của mình. Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa thật sự đầu tư thời gian và tâm sức vào việc ra đề, chấm và trả bài Tập làm văn . Để đỡ mất thời gian, giáo viên thường lấy những đề có sẵn trong sách giáo khoa, sách những bài văn mẫu và ở các tài liệu khác để ra cho học sinh mà không cần quan tâm đến đối tượng học sinh của mình. Đáp án, biểu điểm lập ra rất sơ sài ,không khoa học mà để đối phó, để gọi là cho có. Bên cạnh đó việc chấm bài, giáo viên cũng thực hiện chấm qua loa và thiếu chuẩn xác: - Chấm bài theo cảm tính, điểm thiếu chính xác, do không có đáp án và biểu điểm chấm bài cụ thể. - Chấm bài thiếu chính xác do không đọc kỹ, thiếu tôn trọng kết quả, công sức làm bài của học sinh . Có khi chỉ đọc mở bài, kết bài, liếc sơ qua phần thân bài rồi cho điểm. - Nhận xét bài làm của học sinh qua loa đại khái, đôi khi không nhận xét chỉ cho điểm. Nhiều giáo viên còn viết tắt, viết láu trong phần lời phê và bỏ qua phần gạch lỗi trong bài làm của học sinh ( Đến lỗi chính tả cũng không gạch chân…) Trang 8 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Giờ trả bài,so với các giờ khác, có lẽ giờ trả bài lại là giờ hiệu quả kém nhất, giáo viên thực hiện tùy tiện nhất, học sinh làm việc uể oải nhất. Hầu như giáo viên trả bài không theo một hệ thống nào cả, trúng bài nào nhận xét bài đó, có giáo viên chỉ tập trung cho học sinh lập dàn ý mà không nhận xét một cách cụ thể, không cho học sinh sửa lỗi, trong khi đó lời phê lại rất chung. Kết quả là học sinh chẳng nắm được ưu, khuyết điểm cụ thể trong bài làm của mình là gì để biết hướng sửa chữa và tiến bộ. Các em chỉ ngồi chờ giáo viên phát bài, xem mình được điểm mấy để mà buồn hoặc vui.Một số giáo viên cho học sinh làm bài trên giấy không chịu đính lại thành tập . Còn có tình trạng học sinh xé bài làm,vứt bài bị điểm xấu một cách vô thức. Phần lớn là do giờ trả bài chưa làm trọn yêu cầu của nó. Xuất phát từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn : Bàn thêm về việc ra đề - chấm trả bài Tập làm văn như sau. 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: - Mục tiêu của đề tài này là theo dõi sự tiến bộ của các em qua từng bài làm, khắc phục những hạn chế trong bài làm của các em để điều chỉnh phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh. Giúp học sinh học sinh đúc rút kinh nghiêm, phân tích cái hay cái dở trong bài làm của mình, nêu phương hướng phấn đấu sửa chữa và vươn lên ở những bài sau.Từ đó phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS. Để đạt được mục tiêu đó tôi đã thực hiện các giải pháp sau: b.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: b.1.Ra đề: Trước đây, tất cả các giáo viên Ngữ văn đều phải ra đề, lập đáp án biểu điểm chấm mới thấy được cái khó của việc ra đề tập làm văn.Ra được một đề văn không có gì sai sót là việc đã khó rồi, tự mình lập một đáp án chính xác và lập biểu điểm chấm cho đúng với trình độ của học sinh mình lại càng khó hơn. Đó Trang 9 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn là cái khó của một thời ít các loại sách dàn bài, sách những bài văn mẫu, các bộ đề. Ngày nay, các nhà sách bán nhan nhản các loại sách ra đề, có đáp án sẵn, giáo viên chỉ cần dựa vào đề và đáp án có sẵn để ra đề và đánh giá học sinh. Làm như vậy rất thuận tiện cho giáo viên và đỡ được bao nhiêu công sức của giáo viên. Nhưng có lẽ chúng ta cần xem xét lại vì tôi thiết nghĩ: Việc giáo viên tự ra đề dựa trên thực tiễn học sinh của mình, dựa vào yêu cầu của chương trình, hoàn cảnh dạy và học theo đúng hoàn cảnh vùng miền, từ tình hình chính trị, văn hóa xã hội… Để ra một đề văn rồi xây dựng đáp án biểu điểm chấm thích hợp sẽ có tác dụng bổ ích về nhiều mặt cho giáo viên học sinh . Ví dụ:Thay vì những có sẵn về văn thuyết minh như: “Cây lúa Việt Nam”, “Chiếc nón lá việt Nam” , “Tà áo dài Việt Nam”… Giáo viên huyện Krông Nô có thể ra đề : “Cây cà phê trên quê hương Đăk Nông” thật gần gũi và bổ ích cho cả giáo viên lẫn học sinh. Tiếc rằng đến nay số giáo viên tự ra đề Tập làm văn không nhiều. Bởi hầu hết chúng ta chỉ chú ý đến sự tiện lợi, đỡ mất thời gian trong khâu ra đề mà quên mất rằng : Ra đề là một thước đo năng lực văn chương, năng lực sư phạm và trình độ nhiều mặt khác của người giáo viên Ngữ văn” (Giáo sư Phan Trọng Luận). Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến trong hội nghị đổi mới phương pháp dạy học văn và những vấn đề bức thiết về dạy Tập làm văn ở bậc Trung học: “Đã đến lúc người giáo viên cần nhận thức rõ : “Ra đề cho học sinh làm bài là một khâu hết sức quan trọng cần được tiến hành một cách nghiêm túc và có tính toán kĩ”. b.2. Yêu cầu của việc ra đề Tập làm văn: “Cần đảm bảo tính tư tưởng, tính khoa học, tính sư phạm và vừa sức , xuất phát từ kiến thức trung bình trong sách giáo khoa và trình độ trung bình của học sinh trong từng lớp.Tránh tình trạng ra đề mà nhiều học sinh bị điểm dưới trung bình.” - Ra đề Ngữ văn phải kiểm tra được học sinh về các kĩ năng sau: Trang 10 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn + Kĩ năng sử dụng ngôn từ: dùng từ, đặt câu, lựa chọn ngữ liệu, sử dụng dấu câu. + KĨ năng văn học: Bài làm của học sinh là kết quả cụ thể của việc học tập văn học ( các tiết văn bản) và ngôn ngữ ( các tiết tiếng Việt) của học sinh cũng chính là kết quả cuối cùng để đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn. Muốn vậy, đề phải đạt những yêu cầu sau: Thứ nhất: Đề Tập làm văn trước hết phải có tính tư tưởng: Đề làm văn trước hết phải giáo dục cho học sinh một điều gì đó trong cuộc sống. Đối với văn miêu tả, kể chuyện vấn đề không chỉ là tả cái gì, kể cái gì? Mà quan trọng hơn là tả nhằm mục đích gì? Kể nhằm mục đích gì? Mục đích phải nằm ngay trong điều mà các em tả, trong câu chuyện mà các em kể. Đối với văn nghị luận cũng vậy: Mục đích về tư tưởng phải nằm ngay trong vấn đề ra cho các em nghị luận. Muốn vậy cần ra những đề gắn liền với những sự việc, hiện tượng mà các em gần gũi, những câu chuyện mà các em thấy và nghe được; những vấn đề văn học, chính trị , xã hội có tính giáo dục các em về lòng yêu tổ quốc, yêu quê hương , yêu đồng bào, yêu bạn bè…. Lưu ý: Tính tư tưởng của bài phải phù hợp với nội dung cần tả, cần kể hoặc cần nghị luận, không có tính chất gò ép. - Tính tư tưởng cũng cần gắn với đời sống của các em trong hoàn cảnh đất nước hiện nay. Ví dụ: Ra đề miêu tả, mục đích miêu tả cần nằm ngay trong đối tượng được lựa chọn miêu tả. Thường là cảnh, vật, con người… tươi vui, đẹp đẽ, đáng yêu, đáng mến: “Tả một người thầy(cô) giáo mà em yêu quý”. “Tả một người thân yêu trong gia đình”. “Tả cảnh ngôi trường em đang học”. “Tả cảnh bình minh trên quê hương em vào một buổi sáng đẹp trời”. Ra đề kể chuyện: “Kể lại một việc làm tốt của em hoặc bạn em.” Trang 11 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn “Kể lại một buổi sinh hoạt lớp đầy ý nghĩa”. “Kể lại niềm vui của em trong ngày khai trường”. Kể cả những chuyện tưởng tượng cũng cần lưu ý dến tính tư tưởng : “Cái bàn tự kể lại cuộc đời phục vụ các bạn học sinh học tập tốt”. “Chiếc khăn quàng tự kể về cuộc đời mình”. Ra đề thuyết minh: “Cây bút nhỏ bé mà thật tiện ích. Hãy thuyết minh về cây bút”. “ Cây cà phê trên quê hương Đắk Nông”. Ra đề nghị luận: “ Hãy phân tích một tác phẩm văn học mà em yêu thích”. “ Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng làm ảnh hưởng tới môi trường. Em hãy đặt một nhan đề cho hiện tượng ấy và viết bài văn nêu suy nghĩ của mình”. Thứ 2: Đề Tập làm văn phải có tính khoa học: * Về nội dung: Vấn đề mà đề bài nêu ra phải cụ thể , phạm vi giới hạn vấn đề phải rõ ràng. Ngoài ra, vấn đề của đề bài còn phải phù hợp với thể loại văn. (Đối với đề miêu tả cần phải nêu rõ tả cái gì? Ở đâu? Lúc nào? Đối với văn kể chuyện phải nêu rõ kể việc gì? Của ai? Lúc nào? Ở đâu?. Đối với văn thuyết minh : thuyết minh đối tượng nào? Yêu cầu thuyết minh là gì? Đối với văn Nghị luận phải nêu rõ: Nghị luận vấn đề gì? Phạm vi nghị luận (Vấn đề đưa ra nghị luận của tác giả nào?Ở sách nào hay ở đâu? Vấn đề nghị luận thuộc lĩnh vực nào trong đời sống?...) *Về hình thức: Từ ngữ trong đề bài phải chọn lọc, trong sáng, dễ hiểu, tránh dùng những từ ngữ chung chung mơ hồ làm học sinh dễ bị hiểu lầm. Kết cấu câu văn phải rõ ràng, đúng ngữ pháp và không được sai chính tả. Nếu có xuất xứ (đối với bài văn nghị luận ) thì phải tra cứu cẩn thận, không được ghi vào đề những điều mà giáo viên chỉ nhớ mang máng, thiếu xác thực. Thứ 3: Đề Tập làm văn phải có tính sư phạm và tính vừa sức: Trang 12 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Đầu tiên, đề Tập làm văn phải gây hứng thú cho học sinh. Điều đó thể hiện trước hết trong nội dung đề bài. Đó là nội dung vừa nâng cao vốn hiểu biết, vốn sống cho học sinh, vừa phát triển tư duy, giáo dục thẩm mĩ, tư tưởng cho các em. Một đề văn có tính sư phạm cao còn thể hiện ở chỗ nó phù hợp với vốn hiểu biết, vốn sống, vốn ngôn ngữ sẵn có của học sinh.Trước đề bài học sinh tự thấy nếu mình cố gắng làm bài thì có thể làm được bài hay. Một đề văn vừa sức cần thể hiện: đúng trọng tâm chương trình, sát đối tượng học sinh, vừa với mức độ trung bình thực học của học sinh trong từng lớp, ở từng thời gian cụ thể: Kết hợp kiểm tra hiểu biết với khả năng vận dụng kiến thức, gắn với đời sống xã hội và tâm lí lứa tuổi…. Một đề văn vừa sức học sinh cũng là đề văn được diễn đạt sáng rõ, ngắn , không thừa ý, thừa lời, không tạo sự hiểu lầm làm học sinh xa đề, lạc đề khi làm bài. Một đề văn có tính sư phạm còn thể hiện ở chỗ nó tạo điều kiện cho học sinh sáng tạo, thể hiện cá tính của mình chứ không phải chép nguyên văn bài văn đã có sẵn. Không ra những đề quá tầm suy nghĩ của các em, khiến các em phải có những suy nghĩ già trước tuổi ( nhất là văn nghị luận). b.3. Hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu đề, tìm ý để định hướng cho học sinh: - Tìm hiểu đề: Trước hết phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu thể, loại văn của đề. Thường thường, người ra đề nêu yêu cầu về loại, thể một cách trực tiếp nhưng đôi khi người ra đề yêu cầu một cách gián tiếp, học sinh sẽ lúng túng nếu không được hướng dẫn. Ví dụ: Với văn miêu tả không nhất thiết phải cứ nêu rõ: “Hãy tả lại..” mà “ Hãy ghi lại những điều quan sát của em về cảnh vật trên”, hoặc “ Cảnh vật trên đã hấp dẫn em như thế nào?” - Xác định nội dung cơ bản của đề: Đây là việc quan trọng nhất trong quá trình tìm hiểu đề. Nội dung cơ bản của đề thường thể hiện trong một số từ ngữ quan trọng, cần được đặc biệt chú ý. Học sinh cần tự hỏi: Đề yêu cầu tả cái gì? Trang 13 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Kể cái gì? Thuyết minh về cái gì? Nghị luận vấn đề gì? Từ ngữ nào yêu cầu kể, tả, thuyết minh, nghị luận đó? Ví dụ: Đề ra: “Hãy tả lại vườn cà phê vào mùa hoa nở rộ” Trong đề văn này có hai ý: Đối tượng miêu tả( vườn cà phê), thời điểm miêu tả (khi mùa hoa nở rộ). - Xác định giới hạn đề: hiện nay, học sinh chưa có thói quen tìm hiểu đề một cách tỉ mỉ.Trước một đề văn, các em thường có thái độ coi thường cho là đề dễ, hoặc hoảng sợ cho là đề khó. Nhất là văn nghị luận, các em có thể tìm được luận điểm chính song khi phân chia luận điểm thành các luận cứ với mối quan hệ giữa các luận cứ, các em lúng túng do không nắm chắc, giới hạn phạm vi vấn đề. Đề miêu tả thường giới hạn về mục đích miêu tả,phạm vi nội dung miêu tả, về không gian và thời gian miêu tả…. Đề kể chuyện thường giới hạn nhân vật, tình tiết, mục đích… Đề thuyết minh thường có giới hạn về vấn đề thuyết minh, đối tượng thuyết minh, mục đích thuyết minh… Đề Nghị luận thường giới hạn vấn đề nghị luận, đối tượng nghị luận, nội dung nghị luận, mục đích nghị luận. Nắm chắc phạm vi giới hạn của đề, học sinh sẽ không bị xa đề một cách đáng tiếc. - Tìm ý: Phương pháp tự đặt câu hỏi và tự trả lời là phương pháp tìm ý tốt nhất. Ví dụ: Đối với văn miêu tả : nên quan sát đối tượng miêu tả theo trật tự nào? ( Trên xuống? Dưới lên? Hay từ xa đến gần?) Theo từng trật tự quan sát ta thấy có những chi tiết nào? Chi tiết nào đáng chú ý nhất? Chi tiết có hình dáng , màu sắc , âm thanh gì? Nó diễn tả điều gì? Dùng từ ngữ, cách so sánh nào để diễn tả chi tiết đó?..... Đối với văn kể chuyện: Câu chuyện cần có sự việc gì? Có nhân vật nào? Sự việc, nhân vật chính nào? Cần sắp xếp theo thứ tự sự việc của các nhân vật như thế nào để câu chuyện hấp dẫn? Cần mở đầu và kết thúc câu chuyện ra sao?... Sau khi tìm ý xong giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý thành dàn ý, để từ đó viết thành bài văn dựa trên dàn ý đã có. Đến đâ, điều chủ yếu là tập cho Trang 14 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn học sinh viết đúng chính tả, dùng từ, đặt câu, dùng dấu câu cho đúng và cho thích hợp với từng thể, loại văn. Trong khâu diễn đạt, cần luyện cho học sinh biết chấm xuống dòng, biết dùng từ ngữ chuyển đoạn , biết sơ kết đoạn, ý. Đặc biệt đối với phần mở bài và kết bài yêu cầu học sinh viết nháp thành văn trước khi viết vào bài) Cuối cùng là hướng dẫn các em đọc, kiểm tra lại bài viết của mình. Yêu cầu học sinh dành khoảng 10 phút để thực hiện khâu này. Đây là khoảng thời gian cần thiết giúp các em xem lại nội dung, chính tả, cách dùng từ, đặt câu để kịp thời chỉnh sửa, bổ khuyết trước khi nộp bài. Rất nhiều học sinh coi thường, bỏ qua khâu này nên sau khi nộp bài, trong bài làm của các em vẫn còn đầy rẫy lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, dấu câu… Lưu ý: Phần hướng dẫn học sinh làm bài giáo viên chỉ nên làm trong khoảng thời gian từ 5 đến 7 phút, còn lại dành thời gian cho học sinh chủ động làm bài. b.4. Chấm bài: Chấm bài là để phát hiện những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời vạch phương hướng phấn đấu cho học sinh trong mỗi bài làm của các em. Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa thật sự đầu tư thời gian và tâm sức vào việc chấm bài, chấm qua loa và thiếu chuẩn xác: - Chấm bài theo cảm tính, điểm thiếu chính xác, do không có đáp án và biểu điểm chấm bài cụ thể. - Chấm bài thiếu chính xác do không đọc kỹ, thiếu tôn trọng kết quả, công sức làm bài của học sinh . Có khi chỉ đọc mở bài, kết bài, liếc sơ qua phần thân bài rồi cho điểm. - Nhận xét bài làm của học sinh qua loa đại khái, đôi khi không nhận xét chỉ cho điểm. Nhiều giáo viên còn viết tắt, viết láu trong phần lời phê và bỏ qua phần gạch lỗi trong bài làm của học sinh( Đến lỗi chính tả cũng không gạch chân…) Trang 15 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của giáo sư Phan Trọng Luận: “ Để khắc phục tình trạng chấm bài chưa tốt phải đi từ những vấn đề có ý nghĩa lí luận. Trước hết phải bàn đến quan điểm, thái độ ứng xử của nhà giáo đối với bài làm của học sinh. Thường thường giáo viên chỉ thấy bài làm như một kết quả học tập của học sinh phải nộp cho giáo viên với nghĩa vụ là học trò . Và giáo viên có nghĩa vụ chấm bài đó. Trong khi đó bài làm của các em là một sản phẩm lao động, một sản phẩm sáng tạo cực nhọc của các em. Tiếp xúc với bài làm của các em là tiếp xúc với một tiếng nói, một con người, đằng sau các dòng chữ các em đang hồi hộp chờ mong từng giâ, từng phút, từng giờ, thầy cô giáo công bố kết quả lao động của mình. Với một cách nghĩ như vậy về học sinh, giáo viên khi chấm bài sẽ có được một thái độ ứng xử đẹp đẽ, đúng đắn trước mọi điều hay dở trong bài làm của học sinh. Nên trân trọng tìm tòi, cảm thông từng sai sót, vừa nghiêm khắc vừa độ lượng trước từng khuyết điểm của học sinh….Thiếu cảm thông trân trọng là điều cần tránh, đồng thời cần tránh thái độ gò ép cách suy nghĩ của giáo viên cho học sinh. Giáo viên phải đọc kỹ, lắng nghe, tìm từng chữ, từng lời, từng ý của học sinh trên bài làm. Không nên lấy cách nghĩ của mình để gạt bỏ phê phán học sinh. Cần trân trọng những ý nghĩ độc đáo của học sinh để biểu dương , khuyến khích… Tình trạng không hiểu học sinh, không thông cảm với học sinh, thiếu trân trọng người làm bài văn nhiều khi đã tạo ra một thói quen quá khắt khe trong đánh giá… Giáo viên thường lấy mình làm chuẩn để phán xét những bài văn của học sinh, lấy tư duy mình để đánh giá cách suy nghĩ của học sinh, lấy ngôn ngữ mình để đòi hỏi học sinh, khiến học sinh xa cách với giáo viên, ngại công việc làm văn trong nhà trường”. Do đó , khi chấm bài, giáo viên cần lưu ý một số việc như sau: Thứ nhất: Phải có thái độ đúng đắn với bài làm học sinh. Phải coi bài làm của học sinh dù là học sinh yếu cũng là kết quả lao động sáng tạo của các em, trong đó thể hiện những nét cá biệt về tâm hồn,hiểu biết của từng em học sinh. Sự đánh giá đúng sẽ làm cho các em phấn khởi tin tưởng ở việc học của mình mà cố gắng vươn lên. Trang 16 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Thứ hai: Phải chuẩn bị tốt đáp án và biểu điểm ( tiêu chuẩn cho điểm). Nếu giáo viên chuẩn bị tốt tiêu chuẩn cho điểm thì việc chấm sẽ nhanh và chính xác . Tiêu chuẩn chấm Tập làm văn là phải căn cứ vào yêu cầu của đề bài vào trình độ của học sinh. Vì vậy trước khi làm biểu điểm chấm, giáo viên cần nghiên cứu kỹ đề bài rồi đặt ra tiêu chí cho hai mặt của bài làm: Nội dung của bài làm ( kiến thức cần đạt) hình thức bài làm của học sinh ( chính tả, dùng từ, đặt câu, bố cục, trình bày..). Từ đó mới vạch ra yêu cầu của từng thang điểm. Nếu giáo viên nào kỹ lưỡng thì nên đọc lướt một số bài làm của học sinh trước khi làm thang điểm chấm bài trong biểu điểm. Vì biểu điểm càng sát với tình hình thực tế bài làm của học sinh bao nhiêu càng dễ chấm bấy nhiêu. * Kỹ thuật chấm bài: Biết chấm chưa đủ, còn phải biết chấm như thế nào? Thứ nhất: Phát hiện ưu điểm và phát hiện lỗi trong bài làm của học sinh. Chấm văn thì không thể đọc lướt qua mà đọc kỹ từ đầu đến cuối bài văn. Có thế, giáo viên mới phát hiện được từng lời hay, ý đẹp, từng cách trình bày diễn đạt tốt cũng như từng lỗi về nội dung kiến thức đến lỗi hình thức như sai chính tả, dùng từ đặt câu… Việc phát hiện để tuyên dương những ưu điểm trong bài làm của học sinh: Các em có ý văn hay, nội dung sáng tạo hay cách dùng từ đặt câu độc đáo, cách lập luận sắc sảo, cách xây dựng hình ảnh sinh động.. . cần được thể hiện rõ trong bài chấm để kịp thời động viên các em trong quá trình làm bài tập làm văn. Bên cạnh đó là việc chữa lỗi cho học sinh gồm các khâu: Phát hiện lỗi, nêu tên lỗi, giúp học sinh chữa lỗi ( Trong tiết trả bài sau). Cần chú ý là không nên sửa lỗi ngay trong bài làm của học sinh ngay cả với lỗi chính tả. Muốn làm tốt phần này, giáo viên cần có một hệ thống ký hiệu chấm bài ( Được quy ước thống nhất giữa giáo viên với học sinh ngay từu đầu năm học). Việc đặt ra kí hiệu chấm văn nhằm tiết kiệm thời gian cho giáo viên . Mặt khác, ký hiệu còn gúp cho giáo viên tổng kết một cách nhanh chóng và khoa học tình Trang 17 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn hình mắc lỗi của học sinh để đưa vào bài soạn của tiết trả bài. Vì vậy kí hiệu cần có tính khoa học: gọn, giá trị biểu thị rõ. Ví dụ: Gạch chân dưới chữ viết: Ký hiệu sai chính tả, gạch hai gạch dưới từ dùng rồi ghi ngoài lề chữ “dt”: Ký hiệu lỗi dùng từ, “dđ”: Ký hiệu lỗi diễn đạt, gạch chéo trên chữ: Ký hiệu lỗi dư từ, khoanh tròn chữ cái : Ký hiệu lỗi viết tắt, viết hoa sai quy định, đánh dấu ngoặc ngoài lề rồi ghi “ý hay” hoặc “đạt”: Ký hiệu nội dung viết tốt hoặc diễn đạt hay đáng khen. * Lưu ý: Giáo viên chỉ được dùng ký hiệu ( viết tắt ) trong quá trình chấm trong bài làm của học sinh còn khi ghi lời phê không được viết tắt, không được dùng kí hiệu. Chấm bài chính là vấn đề chuẩn bị một cách khoa học cho việc soạn tiết trả bài và tiến hành trả bài cho học sinh sau đó. Nếu không kết hợp một cách khoa học cho việc chấm bài và chuẩn bị trả bài cho học sinh thì giáo án trả bài sẽ hết sức sơ sài, bỏ sót nhiều ưu khuyết điểm của học sinh, kém tính khái quát, dẫn đến giờ trả bài trở nên khô khan hình thức thậm chí trở nên vô bổ đối với học sinh. Để lưu lại những ưu khuyết điểm trong bài làm của học sinh đưa vào giáo án tiết trả bài, trong quá trình chấm bài, giáo viên nên có một quyển sổ tổng hợp các ưu khuyết điểm, ghi lại những lỗi chính tả, lỗi dùng từ, diễn đạt… điển hình để tiện cho việc chữa lỗi trong tiết trả bài cho học sinh. Thứ hai: Việc ghi lời phê trong bài làm của học sinh: Chấm bài xong phải ghi nhận xét trong phần “ lời phê” trước khi ghi điểm. Lời phê vừa biểu dương khen ngợi những mặt tốt, vừa chỉ ra những thiếu sót chính trong bài làm của học sinh. Cần tránh những nhận xét quá chung chung, ít bổ ích cho học sinh. Cũng nên tránh những lời phê không khích lệ được học sinh. Do đó, lời phê cần chu đáo thiết thực với học sinh. Lời phê cần đạt một số yêu cầu sau: - Khoa học: Đánh giá đúng,cụ thể những ưu khuyết điểm riêng của bài làm bằng những câu nhận xét ngắn gọn, đủ ý nghĩa… Trang 18 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn Hình thức, câu chữ phải ngay ngắn, rõ, đẹp: Câu văn ngắn gọn nhưng không được sai ngữ pháp ,chính tả, cách dùng từ. -Tư tưởng : Nghiêm khắc, đúng mực nhưng vẫn động viên được các em học sinh * Có thể phê theo trình tự sau: + Nhận xét tổng quát về ưu, khuyết điểm( nội dung, hình thức). + So sánh sự tiến bộ so với bài trước. + Vạch hướng phấn đấu trước mắt để học sinh cố gắng trong bài tiếp theo. Giáo sư Phan Trọng Luận từng nói: “ Xem lời phê có thể đoán được người dạy văn đó như thế nào”. Do đó, giáo viên Ngữ văn chúng ta cần hết sức lưu ý trong việc ghi lời phê cho học sinh. Nên nhớ rằng những lời phê này không chỉ đánh giá sự tiến bộ trong quá trình học Ngữ Văn của các em mà sẽ theo các em, lưu dấu ấn trong cuộc đời học sinh của các em. Và đôi khi những lời phê ấy không phải chỉ có học sinh đọc mà còn cả cha mẹ các em và những người khác nữa cùng đọc, cùng suy ngẫm. Thứ ba: Việc ghi điểm: Lời phê rất quan trọng nhưng “điểm” lại có sức hấp dẫn học sinh ( kể cả học sinh lớn như học sinh lớp 8, 9). Điểm phải tương ứng với lời phê, không thể lời phê tốt mà lại điểm yếu hay ngược lại ngược lại lời phê không tốt mà lại đạt điểm cao. Phải cho điểm dứt khoát không nên kí hiệu (-) hay (+). Không nên chữa đi chữa lại điểm đã cho. Cần bỏ thói quen e ngại việc cho điểm tối đa ( thang điểm 9 hoặc 10) vì đọc kỹ những yêu cầu trong thang điểm tối đa của bài Tập làm văn, không bao giờ yêu cầu bài làm của học sinh phải tuyệt đối hoàn hảo. b.5. Trả bài: Giờ trả bài Tập làm văn có thể nói là một giờ hết sức quan trọng. Đây là giờ giáo viên thấy rõ được kết quả cụ thể giảng dạy của mình về một loại văn, cũng là giờ mà người giáo viên phải có trách nhiệm, phải tập trung uốn nắn những yêu cầu chưa đạt cho học sinh đối với thể văn đó. Đây cũng là giờ mà giáo viên Trang 19 Sáng kiến kinh nghiệm:Bàn thêm về việc ra đề - chấm- trả bài Tập làm văn có thể phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong việc tham gia xây dựng dàn ý và sửa lỗi. Thế nhưng hiện nay giờ trả bài, so với các giờ khác có lẽ giờ trả bài lại là giờ hiệu quả kém nhất, giáo viên thực hiện tùy tiện nhất, học sinh làm việc uể oải nhất. Hầu như giáo viên trả bài không theo một hệ thống nào cả, trúng bài nào nhận xét bài dó, có giáo viên chỉ tập trung cho học sinh lập dàn ý mà không nhận xét một cách cụ thể, không cho học sinh sửa lỗi, trong khi đó lời phê lại rất chung. Kết quả là học sinh chẳng nắm được ưu, khuyết điểm cụ thể trong bài làm của mình là gì để biết hướng sửa chữa và tiến bộ. Các em chỉ ngồi chờ giáo viên phát bài, xem mình được điểm mấy để mà buồn hoặc vui. Một số giáo viên cho học sinh làm bài trên giấy không chịu đính lại thành tập. Còn có tình trạng học sinh xé bài làm, vứt bài bị điểm xấu một cách vô thức. Phần lớn là do giờ trả bài chưa làm trọn yêu cầu của nó. Muốn trả bài tốt cần thực hiện hai khâu: Khâu thứ nhất: Chuẩn bị cho giờ trả bài: Giáo viên chuẩn bị nội dung cho tiết trả bài thật tốt trên giáo án( tiết trả bài) với các mục đích sau: a. Mục tiêu cần đạt b. Xác định lại yêu cầu của đề bài( xây dựng dàn bài) c. Khái quát ưu, nhược điểm của bài làm với những dẫn chứng điển hình. d. Các lỗi điển hình cần sửa chữa ( lưu tên học sinh phạm lỗi cụ thể ở từng phần để nhận xét). e. Bài văn hay ghi rõ bài của em nào, lớp nào. Các ưu và khuyết điểm, các lỗi hình thức về chính tả, dùng từ đặt câu.. trong quá trình chấm, giáo viên chịu khó lưu vào một quyển sổ riêng, giúp giáo viên tổng hợp và hệ thống lại trong bài soạn một cách nhanh chóng, chính xác, không mất thời gian lục lại bài làm của học sinh ( Vừa mất thời gian vừa không hiệu quả). Khâu thứ hai:Trả bài trên lớp: Từ giáo án đã soạn, giáo viên có thể trả bài theo trình tự sau: a. Giáo viên ghi lại đề trên bảng, học sinh ghi lại đề vào vở. Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan