Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng tác cho thiếu nhi của nguyễn ngọc thuần dưới góc nhìn văn hóa...

Tài liệu Sáng tác cho thiếu nhi của nguyễn ngọc thuần dưới góc nhìn văn hóa

.PDF
119
368
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ============== LÊ THỊ DIỆP SÁNG TÁC CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NGỌC THUẦN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ============== LÊ THỊ DIỆP SÁNG TÁC CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NGỌC THUẦN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21. LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Dục Tú Hà Nội - 2014 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................5 1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................................5 2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................................6 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................10 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................10 5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................10 6 Cấu trúc luận văn. ......................................................................................................11 Chương 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC THUẦN .........................................12 1.1. Khái niệm văn hóa. .............................................................................................12 1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học................................................................. 15 1.2.1. Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa. ...........................................16 1.2.2. Văn học kết tinh các giá trị văn hóa. ............................................................18 1.2.3. Văn học như một ứng xử văn hóa................................................................. 22 1.3. Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học............................24 1.3.1. Sự đa dạng của các phương pháp trong nghiên cứu văn học. ......................24 1.3.2. Ưu thế của phương pháp tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa..............26 1.4. Hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần. ......................................28 1.4.1. Vài nét về tiểu sử. .........................................................................................28 1.4.2. Sự chuẩn bị vốn sống, vốn văn hóa. .............................................................30 1.4.3. Quan niệm của Nguyễn Ngọc Thuần về văn chương. ..................................32 Tiểu kết ..........................................................................................................................35 Chương 2 : CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG SÁNG TÁC CHO ............................36 THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NGỌC THUẦN ............................................................36 2.1. Con người – đối tượng thẩm mỹ mang dấu ấn văn hóa. .....................................36 2.1.1. Ứng xử tình nghĩa như một phương thức sống của con người. ...................36 2.1.1.1. Ứng xử với thiên nhiên...........................................................................37 2.1.1.2. Ứng xử trong các mối quan hệ xã hội. ...................................................43 2.1.2. Văn hóa gia đình - nền tảng nuôi dưỡng nhân cách con người. ...................50 3 2.1.2.1. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái. ............................................................51 2.1.2.2. Quan hệ giữa anh (chị ) và em. ..............................................................59 2.1.2.3. Quan hệ giữa vợ và chồng. .....................................................................62 2.1.3. Thế giới tâm linh – cội nguồn những ý niệm văn hóa của con người. ........65 2.1.3.1. Ý niệm về “hồn” và “ma”. ....................................................................67 2.1.3.2. Ý niệm về niềm tin cổ tích. ...................................................................71 2.2. Không gian văn hóa – nơi lưu giữ những bản sắc văn hóa dân tộc. ...................76 2.2.1. Không gian làng quê. ....................................................................................77 2.2.2. Không gian miền biển. ..................................................................................83 Tiểu kết. .........................................................................................................................87 Chương 3 : NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG SÁNG TÁC CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN NGỌC THUẦN. .............................88 3.1. Ngôn ngữ. ............................................................................................................88 3.1.1. Ngôn ngữ Nam Trung Bộ. ............................................................................89 3.1.2. Ngôn ngữ dân gian........................................................................................92 3.2. Giọng điệu. ..........................................................................................................95 3.2.1. Giọng điệu trữ tình, trong trẻo. .....................................................................95 3.2.2. Giọng điệu suy tư, triết lý. ............................................................................99 3.3. Biểu tượng .........................................................................................................103 3.3.1. Biểu tượng khu vườn. .................................................................................104 3.3.2. Biểu tượng đôi mắt. ....................................................................................109 Tiểu kết ........................................................................................................................112 KẾT LUẬN .................................................................................................................113 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................116 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1 Văn học là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc. Nó tiêu biểu cho diện mạo và các giá trị văn hóa của một cộng đồng người trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Hơn nữa, văn học còn có khả năng nhận thức, phản ánh, truyền tải và lưu trữ các giá trị văn hóa riêng biệt. Hòa chung vào dòng chảy văn học dân tộc, văn học thiếu nhi cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc gìn giữ những giá trị văn hóa trong thế hệ trẻ thơ. Nhất là trong thời đại ngày nay, xu thế hội nhập kéo theo sự va đập của những mỹ tục truyền thống với xã hội đồng tiền tầm thường, dẫn đến sự băng hoại những giá trị đạo đức nguồn cội. Hơn lúc nào hết, trong mối quan hệ với văn hóa, văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi Việt Nam nói riêng cần được nhìn nhận sâu sắc và đa diện hơn. Nó cần lên tiếng để bảo vệ gìn giữ những giá trị truyền thống trong “thế hệ vàng” của đất nước. 1.2 Văn học viết cho thiếu nhi ở nước ta ra đời tương đối muộn nhưng đã đạt được những thành tựu nổi bật gắn liền với những tên tuổi như Tô Hoài, Phạm Hổ, Võ Quảng, Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Khánh Chi... Tiếp bước những thế hệ đàn anh là sự nở rộ của thế hệ nhà văn trẻ đầy nhiệt huyết như Nguyễn Nhật Ánh, Trần Thiên Hương, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Ngọc Thuần,… Trong đó, Nguyễn Ngọc Thuần là cây bút gây ấn tượng mạnh với khả năng xây dựng một thế giới trẻ thơ tuyệt diệu. Xuất hiện trên văn đàn với “bộ mặt” của một họa sĩ làm văn chương, bằng lao động chăm chỉ, vốn sống dồi dào và đặc biệt là tình yêu trẻ thơ sâu đậm, Nguyễn Ngọc Thuần đã cho ra đời nhiều tác phẩm hay, để lại ấn tượng đẹp không chỉ trong lòng trẻ thơ mà còn cả thế hệ “dạy trẻ thơ”. Dễ dàng nhận thấy, trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Thuần là hệ thống những mạch ngầm giá trị văn hóa tinh thần độc đáo. Nhà văn đã phục nguyên lại không gian văn hóa của những tập tục truyền thống, những lối ứng xử đậm đà hương vị Việt. Tuy nhiên, những vấn đề này chưa được tập trung nghiên cứu một cách nghiêm túc và hệ thống với một góc nhìn riêng, một phương pháp riêng. Nghiên cứu văn học bằng góc nhìn văn hóa có khả năng mở ra nhiều triển 5 vọng mới cho việc cắt nghĩa, lý giải những hệ tư tưởng trong sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần. 1.3 Trong hệ mạch những hướng nghiên cứu và tiếp cận văn học thì góc nhìn văn hóa đang cho thấy là một hướng tiếp cận đem lại hiệu quả cao. Nó có khả năng khai thác sâu giá trị nội tại của tác phẩm giúp chúng ta có thể thâu tóm một cách toàn diện đời sống văn hóa con người của cả cộng đồng dân tộc. Với đề tài Sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi hi vọng sẽ giải mã được các “mã văn hóa” mà nhà văn đã xác lập, để từ đó, tìm ra căn nguyên những yếu tố đã chi phối, tác động đến tâm thức sáng tạo của nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần. Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn góp một phần công sức trong việc gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa trong thế giới tâm hồn trẻ thơ. Với thời đại mở cửa hiện nay, khi mà có nhiều nền văn hóa ngoai lai du nhập, thì vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa con người Việt là vô cùng quan trọng. Thiết nghĩ, các nhà nghiên cứu, phê bình có sự quan tâm hơn nữa đến mảng sáng tác dành cho thiếu nhi và hy vọng các nhà biên soạn sách giáo khoa có thêm dữ liệu cho việc lựa chọn một số tác phẩm hay và có ý nghĩa để đưa vào chương trình Ngữ văn các bậc THCS và THPT để có thể giáo dục và bồi đắp vốn văn hóa cho thế hệ tương lai của đất nước. 2. Lịch sử vấn đề. Ở nước ta, vào những năm đầu thế kỷ XX, giới nghiên cứu đã rất chú ý đến cách tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa. Các tác giả như: Trần Đình Hượu, Phan Ngọc, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đình Sử, Phạm Vĩnh Cư, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Dân, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thúy, Trần Nho Thìn, … đã từng bước xác lập hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa khi xem tác phẩm văn học như một cấu trúc văn hóa, kí hiệu văn hóa, văn bản của văn hóa và đặt văn học trong tương quan so sánh văn hóa. Đặc biệt sự thành công của các luận án tiến sĩ như: Hoàng Thị Huế với “Thơ Mới từ góc độ văn hóa – văn học” (2006), Ngô Minh Hiền với “Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa” (2008), Lương Minh Chung với “Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa” (2012), Đỗ Thị Ngọc Chi 6 với “Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa” (2013), Nguyễn Văn Đông với “Truyện ngắn Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn văn hóa học” (2013), …đang cho thấy nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là một hướng tiếp cận hiện đại, phù hợp với xu thế tiến bộ chung của khoa học văn học. Về mảng văn học thiếu nhi Việt Nam, từ khi manh nha hình thành cũng luôn nhận được sự quan tâm của các nhà phê bình nghiên cứu. Một số sách và giáo trình tiêu biểu như: Bách khoa thư Văn học thiếu nhi Việt Nam của Vân Thanh và Nguyên An; Giáo trình văn học thiếu nhi (Tủ sách Đại học Vinh) do Chu Thị Hà Thanh, Lê Thị Thanh Bình biên soạn; Giáo trình Văn học trẻ em (NXB Đại học Sư phạm, 2010) của Lã Thị Bắc Lý; … Ngoài một số giáo trình và sách kể trên còn có rất nhiều bài báo, bài viết, các cuộc phỏng vấn,...bàn về văn học thiếu nhi trên tạp chí nghiên cứu, hoặc các trang web văn học như: Cảm nhận về văn học thiếu nhi thế kỉ XXI của Lã Thị Bắc Lý trên Vannghequandoi.com.vn ; Văn học thiếu nhi Việt Nam – Những chặng đường phát triển và những thành tựu của Thu Hương trên tạp chí NCVH (số 1-2005) ; Mấy suy nghĩ về văn học thiếu nhi thời kì đổi mới của Lê Phương Liên ( TC Phê bình VHNT, số 2- 2012),… Những sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần xuất hiện và ngay lập tức nó đã thu hút mạnh mẽ sự chú ý từ giới phê bình và nghiên cứu văn học. Hàng loạt các bài viết xuất hiện trên các tạp chí như minh chứng cho vị trí của tác giả trên địa đàng văn học thiếu nhi Việt Nam. Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu sau: Trước tiên, phải kể đến bài viết Nguyễn Ngọc Thuần – Người kể chuyện cổ tích hiện đại của Nguyễn Thị Minh Thái trên báo điện tử Nxbtre.vn (ngày 11/04/2004). Trong bài viết, người nghiên cứu đã có cái nhìn khái quát về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần: “Mỗi truyện ngắn nho nhỏ trong đó đã là một truyện tặng cho bạn đọc trẻ thơ, lại vừa là một truyện dành cho người lớn. Bởi chúng nhiều tầng nghĩa, giàu chất thơ, và có lẽ, bởi cả tác phẩm chính là kết quả cái nhìn độc đáo của một chủ thể thi sĩ viết văn xuôi, với động thái đắm đuối nhị nguyên rất mới lạ” [46, tr.2]. Sau đó, tác giả bài viết đã giải thích căn nguyên của những mảng hồn trong trẻo, tinh khôi đó chính là từ “nguồn cội”, là tuổi thơ bên những gì thân thương nhất của gia đình, làng xóm, bè bạn, thầy 7 cô. Bằng những đoạn hội thoại nhân vật, Nguyễn Thị Minh Thái đã gián tiếp lý giải cội nguồn văn hóa ứng xử của con người “Một đứa bé ra đời sẽ được học yêu thương, học ăn, nói, gói, mở, bằng tình yêu của những người xung quanh, được hiểu thế nào là người láng giềng, người nhà, thầy cô…” [46, tr.2]. Cùng đề cập đến vấn đề văn hóa ứng xử, trên trang Vanhoahoc.vn (ngày 16/4/2004), nhà văn Hồ Anh Thái trong bài viết Nguyễn Ngọc Thuần - nhà văn của trẻ em cũng đã có những nhận xét rất tinh tế. Tác giả khẳng định nhân vật trong truyện Nguyễn Ngọc Thuần có một lối ứng xử văn hóa mang đậm hơi thở Việt. Văn hóa ứng xử ấy được thể hiện qua lời nói và hành động của nhận vật. Đó chính là khởi nguyên cho cái đẹp và hướng đến giá trị nhân văn của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Trần Viết Nhi trong bài viết Triết lý về giá trị con người trong truyện thiếu thi của Nguyễn Ngọc Thuần cũng đã có những lời bình phẩm sắc sảo về văn hóa truyền thống, về cái đẹp của miền quê nghèo Bình Thuận ẩn chứa trong từng tác phẩm của Nguyễn Ngọc Thuần. Người nghiên cứu phát hiện điểm nhìn nghệ thuật của nhà văn được khúc xạ bằng điểm nhìn trẻ thơ, để từ đó khơi gợi những mỹ tục thuở xưa trong tâm thức trẻ. Đặc biệt, ở bài viết này, Trần Viết Nhi quan tâm đến giọng điệu trữ tình, triết lý mang hồn cốt dân tộc Việt trong mỗi ngôn từ tác phẩm “nhẹ nhàng, thấm thía nhưng cũng không kém phần sâu sắc!”[34, tr.3]. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn, trong bài viết Nhìn lại 5 năm văn học nước nhà đăng trên báo điện tử Tienphong.vn (số ra ngày 18/1/2005) đã dành những dòng thật ưu ái cho Nguyễn Ngọc Thuần, coi nhà văn như một hiện tượng nổi bật nhất trên văn đàn văn học thiếu nhi Việt Nam thời hiện đại: “Riêng Nguyễn Ngọc Thuần thực sự là một hiện tượng! Chỉ trong vài năm, Nguyễn Ngọc Thuần cho ra mắt 4 cuốn sách, đoạt 4 giải thưởng văn học danh giá, được báo chí đồng thanh biểu dương, được in đi in lại, điều này không phải cây bút nào cũng làm được. Nguyễn Ngọc Thuần đã vinh danh cho văn học thiếu nhi, lĩnh vực thường bị bỏ sót trong các công trình văn học sử ” [40, tr.2]. Cùng nói về vị trí và vai trò của Nguyễn Ngọc Thuần trên văn đàn, nhà văn Phan Thị Vàng Anh đã có những lời ngợi ca nghệ thuật viết truyện của anh: “Cái kĩ thuật tung xa để bắt gọn lại như thế này có lẽ là cái rất thiếu trong các sáng 8 tác của nước mình. Cái lấn cấn của tôi, có lẽ một phần ganh tị, là vì sao lại có người Việt Nam viết được theo lối này, viết được như thế này?” [1, tr.5]. Ngoài những bài viết tiêu biểu trên, còn rất nhiều những lời nhận xét, lời bình về văn chương Nguyễn Ngọc Thuần, đặc biệt là sự ngợi khen về tác phẩm Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của anh. Nhà văn Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét về truyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ: “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ đã thật sự là một cú đúp ngoạn mục về văn chương” [46, tr.5]. Nhà văn Hồ Anh Thái với những cảm xúc chủ quan: “Nghĩ ngợi loay hoay, nhân đọc cuốn Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ. Ðọc xong ngẩn ngơ lâu lâu. Văn phong đẹp, trong vắt. Người đọc soi vào đấy, thấy cả những ao ước tuổi thơ mình” và đặt tên cho cuốn sách là “Hoàng tử Bé của văn học thiếu nhi Việt Nam”[dẫn theo 56, tr.5]. Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình văn học trẻ em cũng có những nhận xét về nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần như sau: “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần có lối viết không mới mà vẫn lạ. Anh thu hút người đọc ở giọng văn trong trẻo, với cái nhìn hồn nhiên, đầy sự ngạc nhiên thơ trẻ” [26, tr.60]. Ngoài ra, còn một số công trình luận văn nghiên cứu về sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần trên các phương diện khác nhau như : Đặc điểm truyện thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần (2013) của Tạ Thị Liên (chuyên ngành LLVH - ĐH KHXH&NV); Đặc sắc nghệ thuật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần (2012) của Lê Thị Hằng (chuyên ngành VHVN – ĐH Vinh),… Nhìn một cách tổng quan, gần như chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về văn học thiếu nhi từ góc nhìn văn hóa. Riêng về hiện tượng Nguyễn Ngọc Thuần những nhận xét của các nhà nghiên cứu về yếu tố văn hóa trong các tác phẩm thiếu nhi của anh còn mang tính sơ khai, khái quát, chung chung. Hiểu được tầm quan trọng của thực tiễn trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa trong thế hệ tương lai của đất nước, chúng tôi mong muốn nghiên cứu sâu về sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần để góp phần làm sáng tỏ những tư tưởng, triết lý về giá trị văn hóa truyền thống mà tác giả thể hiện trong tác phẩm của mình. 9 3. Mục đích nghiên cứu 3.1 Luận văn dựa vào các phạm trù văn hóa, soi tỏ mối quan hệ giữa văn hóa – văn học ở tầm khái quát và đi sâu vào sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần như một hiện tượng văn hóa cụ thể. 3.2 Luận văn chỉ ra những tầng giá trị ẩn sâu trong những sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần, từ đó, làm rõ căn nguyên tồn tại chất văn hóa trong sáng tác của nhà văn. Qua đó cũng là cách khẳng định nét độc đáo và đóng góp của anh trong nền văn học thiếu nhi Việt Nam hiện đại. 3.3 Từ những hệ giá trị văn hóa nổi bật ấy, luận văn mong muốn đáp ứng một phần nhu cầu thực tại là: lưu giữ và phát triển những nét đẹp văn hóa truyền thống trong thế hệ thiếu nhi ngày nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Ở đề tài này, chúng tôi “khoanh vùng” phạm vi nghiên cứu ở địa hạt sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần. Bởi ngoài những sáng tác cho thiếu nhi, anh còn có rất nhiều tác phẩm văn chương không dành riêng cho thiếu nhi như: Sinh ra là thế, Kẻ quấy rối chồng và cô ta, Đời cơ bản là buồn… Nếu nghiên cứu toàn bộ những sáng tác đó sẽ rất dễ gây sự “ôm đồm”, “loãng mạch” đối tượng. Ngoài ra, chúng tôi còn so sánh tác phẩm thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần với Nguyễn Nhật Ánh, Đoàn Giỏi… Các so sánh đó không được tách ra thành các chuyên mục độc lập, riêng biệt mà đặt chúng trong sự soi chiếu với các tác phẩm thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần. Thêm nữa, dưới quy phạm của những đặc điểm sáng tác cho thiếu nhi, chúng tôi nghiên cứu những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Thuần từ góc nhìn văn hóa ở điểm nhìn của tác giả và điểm nhìn trẻ thơ. 5. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài “Sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần dưới góc nhìn văn hóa”, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: 5.1. Phương pháp liên ngành Chúng tôi xác định đây là phương pháp trọng yếu của luận văn này. Thực chất, phương pháp liên ngành giúp chúng tôi vận dụng, phối hợp một số tri thức liên 10 ngành văn hóa, lịch sử, triết học, tôn giáo, nhân học, ngôn ngữ học, tâm lý học, liên văn bản nhằm cắt nghĩa văn học bằng truyền thống văn hóa, hoạt động văn hóa, góc nhìn văn hóa. 5.2 . Phương pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa, phát hiện các giá trị văn hóa kết tinh trong sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần. 5.3 . Phương pháp hệ thống. Phương pháp này giúp chúng tôi xác lập, móc xích các biểu tượng trên nền tảng triết học – mỹ học nhằm làm nổi bật dấu ấn văn hóa dân tộc Việt in đậm trong những sáng tác thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần 5.4 . Phương pháp so sánh Đây cũng là một phương pháp quan trọng giúp chúng tôi đối sánh văn nghiệp của Nguyễn Ngọc Thuần với văn nghiệp các tác giả khác để tìm ra cá tính độc đáo và sáng tạo của nhà văn trong mỗi tác phẩm thiếu nhi mà anh viết. 5.5 . Phương pháp tiếp cận văn hóa học Phương pháp này thực chất đi giải mã các biểu tượng nghệ thuật, tìm ra dấu ấn thời đại của tác phẩm, trên cơ sở tìm hiểu sự chi phối các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, quan niệm về con người… từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, mô típ, hình tượng, ngôn ngữ… 6 . Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc với 3 chương như sau: Chương 1: Mối quan hệ giữa văn học – văn hóa và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần Chương 2: Các giá trị văn hóa trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần. Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện những giá trị văn hóa trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần. 11 Chương 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC THUẦN 1.1. Khái niệm văn hóa. Theo khảo sát và thống kê sơ bộ của hai nhà văn hóa người Mỹ là A.L Krober và Kluchon, tính đến năm 1972, đã có gần 170 định nghĩa về văn hóa trên các sách và tạp chí phương Tây. Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì cho đến năm 1994, những định nghĩa về văn hóa trên thế giới đã chạm ngưỡng con số kỷ lục là 420 định nghĩa. Đó là một con số khổng lồ cho những cách hiểu về văn hóa hay cũng chính là minh chứng cho tính nguyên hợp đa nguyên của văn hóa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành cũng đã nhận định rằng: “Khoảng hơn chục năm nay, đúng ra là từ đầu năm 1990 lại nay, Văn hóa bỗng trở thành một khái niệm có tính thời sự, thậm chí là tính thời đại, tính thời thượng một cách đặc biệt… Chưa bao giờ như bây giờ, người ta lại phong tặng cho văn hóa nhiều những danh hiệu tốt đẹp và quang vinh như thế” [45, tr.7]. Trước hết, khái niệm văn hóa đã trải qua một hành trình hình thành và phát triển về những ý niệm văn hóa. Nó được manh nha từ thời La Mã cổ đại khi nhà hùng biện Cicero Marcus Tullius đã đem những hiểu biết bản thân vào cuộc nhiếp chính với khái niệm triết học là sự gieo trồng tinh thần (bắt nguồn từ chữ latinh “colere”). Từ đây, người châu Âu dùng thuật ngữ culture với hai nghĩa cơ bản nhất là trồng trọt canh tác và văn hóa. Sau đó, Francis Bacon (1561-1626), Thomas Hobbes (1586-1679), Pufedorf đều nhìn nhận văn hóa là cái đối lập với trạng thái tự nhiên vốn có. Đến thế kỉ khai sáng, Voltaire (1694-1772) và J.G.Herder (17741883) đã xác lập nguyên lý cơ bản cho văn hóa và tổng quát tất cả tri thức nhân loại, họ mô tả văn hóa là kết tinh của sự tiến hóa cao cấp của con người, văn hóa không chỉ gắn liền với con người mà còn là kết quả của sự phát triển. Một trường phái triết học và mỹ học cổ điển Đức dành được nhiều thành tựu lớn khi E.Kant (17241804), F. Schiller đã cho rằng văn hóa là nơi thể hiện sức mạnh cá nhân con người, nơi mà con người bộc lộ cá tính riêng và sức mạnh riêng. Xét về mặt lý luận của văn hóa phải nói đến F.Hegel (1770-1831) khi ông xác định rằng “mạch vị thế của văn hóa trong sáng tạo vật chất và tinh thần, mối quan hệ văn hóa và xã hội…”[18, 12 tr.35]. Các nhà văn hóa phương Tây đã có một bước tiến lớn trong nghiên cứu lịch sử nhân văn khi KLem sử dụng tiến trình phát triển văn hóa, xã hội làm cơ sở để khảo sát về lịch sử con người. Nhà nhân chủng học người Anh E.B.Tylor xứng đáng được giới khoa học Anh Mỹ suy tôn là người sáng lập ra môn Nhân học văn hóa khi đã cho xuất bản ở Luân Đôn cuốn Văn hóa nguyên thủy (1871), một cuốn sách đầu tiên nhìn văn hóa như một tổng thể thành tựu cơ bản của con người. Có rất nhiều những định nghĩa về văn hóa, chúng tôi xin trích một vài định nghĩa được coi là tiêu biểu nhất: Tại hội nghị Quổc tế UNESCO (1992) diễn ra ở Mexico, các nhà văn hóa đại diện cho hơn 100 quốc gia đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hóa, sau đó họ cùng nhau trao đổi và thống nhất một khái niệm là: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng soi xét về bản thân…”[64, tr.5]. Cuốn Từ điển triết học do Staeman chủ biên đã thiết lập một hệ thống các nhóm định nghĩa về văn hóa: 1. Định nghĩa mang tính chất miêu tả 2. Định nghĩa mang tính chất lịch sử 3. Định nghĩa nhấn mạnh vào nếp sống xã hội 4. Định nghĩa nhấn mạnh vào phương thức ứng xử 5. Định nghĩa nhấn mạnh vào khía cạnh học tập, giáo dục 6. Định nghĩa nhấn mạnh vào khả năng thích ứng của con người với thiên nhiên 7. Định nghĩa mang tính chất di truyền xã hội 8. Định nghĩa nhấn mạnh vào khía cạnh tư tưởng 9. Định nghĩa nhấn mạnh giá trị 10.Định nghĩa nhẩn mạnh vào cấu trúc văn hóa 11. Định nghĩa mang tính chất điều khiển học, nhấn mạnh khía cạnh thông tin của văn hóa” [dẫn theo 44, tr.21]. 13 Ở trong nước, khái niệm văn hóa được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu của các nhà văn hóa hàng đầu như: Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm, Từ Chi, Phạm Đức Dương, Đào Duy Anh, Phan Kế Bính, Nguyễn Vãn Huyên, Đoàn Văn Chúc, Phan Ngọc, ... Theo Từ điển tiếng Việt (1992) văn hóa có 5 ý nghĩa: 1/Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (ví dụ: kho tàng văn hóa Việt Nam). 2/ Những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần - nói một cách tổng quát (ví dụ: Phát triển văn hóa). 3/ Tri thức kiến thức khoa học (ví dụ: Trình độ văn hóa). 4/ Trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (ví dụ: sống có văn hóa). 5/ Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau (ví dụ: văn hóa Đông Sơn) [35, tr.345]. Học giả Đào Duy Anh cũng đã nhắc đến khái niệm văn hóa trong công trình nghiên cứu Việt Nam văn hóa sử cương. Ông chỉ ra một hướng tiếp cận đối tượng văn hóa trên hai phương diện "tĩnh" (đồng đại) và “động” (lịch đại). Từ đó, cũng mở đường cho một nền khoa học thiên về nghiên cứu thực nghiệm "muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc, trước hết phải xem xét dân tộc ấy sinh trưởng ở trong những điều kiện địa lý như thế nào" [2, tr.12]. Dưới góc nhìn dân tộc học, Phùng Quý Nhâm đã nhấn mạnh đến tính dân tộc của văn hóa rằng: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc”[32, tr.249]. Dưới góc nhìn dân gian, phải kể đến những nghiên cứu độc đáo của tác giả Chu Xuân Diên khi đã kết luận nội hàm của văn hóa gồm: “Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có. Hoạt động bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động đời sống của con người: đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.” [11, tr.252]. Từ góc nhìn địa lý, Trần Quốc Vượng cho rằng: “Văn hóa theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật kinh tế... để từ đó hình thành một đời sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống các chuẩn mực, những giá trị, những quan niệm, tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [64, tr.27]. Tuy văn hóa 14 có nội hàm rộng và nhiều cách hiểu khác nhau nhưng nó là một thể thống nhất nên dễ dàng nhận thấy sự tương đồng trong các định nghĩa của những người nghiên cứu. Như vậy, văn hóa là tổng hòa của tất cả các khía cạnh đời sống, tồn tại hữu thức và vô thức, mang dấu ấn của con người. Ngay cả những hiện tượng vụn vặt của cuộc sống cũng mang những tín hiệu về văn hóa. Có thể thấy, khái niệm văn hóa đã được giới nghiên cứu tiếp nhận theo nhiều góc nhìn, nhiều cách hiểu khác nhau. Trong mỗi một thời điểm lịch sử, khái niệm văn hóa lại có những nét khác biệt, bản thân chúng không thể bao quát đầy đủ nội hàm rộng lớn của văn hóa mà chỉ có thể tóm lược khía cạnh nào đó của văn hóa. Đồng thời, sự đa dạng và phong phú của các khái niệm và quan điểm văn hóa cũng phản ánh những hướng tiếp cận khác nhau. Nghiên cứu một tác phẩm văn học dưới hệ soi chiếu của văn hóa cũng vậy, mỗi một nhà nghiên cứu sẽ lựa chọn cho mình một góc tiếp cận riêng biệt. Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ đi sâu khai thác những giá trị văn hóa tinh thần của con người và đặc biệt, nhấn mạnh văn hóa ứng xử, văn hóa gia đình và văn hóa tâm linh như một khuôn thước dạy dỗ thế hệ mầm non của đất nước. 1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Giữa cơ cấu đa dạng của văn hóa luôn có những sợi dây liên kết bất di bất dịch để hòa trộn những ảnh hưởng của thiên nhiên, khí hậu, dân cư, thần linh trong tâm thức con người thành một khối thống nhất cố định mà trí tính có thể nhận diện nó một cách hoàn hảo nhất. Đồng thời, văn học có thể xem như một bức tranh “dân sinh chí” mang trong mình sứ mệnh biểu đạt tinh tế nhất mọi khía cạnh nảy sinh trong đời sống con người. Như vậy, mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là mối quan hệ gắn bó khăng khít, biện chứng, tương trợ lẫn nhau và mang tính đa chiều kích. Tuy nhiên, để có thể hiểu thấu đáo về điều đó cần xác định rõ ràng vai trò và vị trí của văn học trong văn hóa cũng như chức năng chứa đựng và bao bọc văn học của văn hóa. Vì thế, chúng tôi tập trung làm rõ ba vấn đề cốt yếu nhất là : 1/ Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa; 2/ Văn học kết tinh các giá trị văn hóa; 3/ Văn học như một ứng xử văn hóa. 15 1.2.1. Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa. Những thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn hóa giống như một tổng thể, một hệ thống bao gồm vô vàn những yếu tố như ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật…, trong đó, bộ phận quan trọng nhất là văn học. Hay nói cách khác, văn học chính là một bộ phận trong tổng thể hệ hình văn hóa, một yếu tố không thể tách rời của hệ thống văn hóa. Nó không thể nằm ngoài “mạch nguyên vẹn” của toàn bộ văn hóa một thời đại trong khi nó phải tồn tại như một nhân tố chủ yếu. Không thể tách nó khỏi các bộ phận khác của văn hóa hoặc trực tiếp gắn nó với các nhân tố xã hội, kinh tế mà bỏ qua văn hóa. Cần phải nghiên cứu văn học và tác phẩm văn học như những hệ thống chỉnh thể ở hai cấp độ tăng tiến. Hệ thống chỉnh thể của tác phẩm ra nhập hệ thống chỉnh thể của văn học; hệ thống chỉnh thể của văn học, đến lượt nó, lại ra nhập hệ thống chỉnh thể của văn hóa; và chỉ có hệ thống văn hóa mới ảnh hưởng trực tiếp tới những lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Văn học của bất cứ quốc gia nào cũng luôn phản ánh hiện thực thông qua lăng kính văn hóa và trở thành hiện thân của văn hóa. Văn học là thành tố của văn hóa bởi nó không đơn thuần là mối quan hệ tác động chi phối giữa hệ thống với thành tố, giữa toàn thể với bộ phận trong cơ tầng văn hóa mà nó còn là sự “tác động ngược” trở lại giữa cái riêng với cái chung, nhỏ bé với vĩ đại, và mục đích cuối cùng của mối quan hệ đó là lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Văn hóa Việt Nam trải qua thăng trầm của thời gian và ghi dấu vào tâm thức mỗi con người tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam, và tất cả những điều ấy đều được hiện hình rõ nét thông qua văn học. Những nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam thường tìm đến văn học Việt Nam như một “điều kiện cần và đủ” để giải mã văn hóa. Nói cách khác, văn học là hiện thân, là tấm gương phản chiếu văn hóa. Với vai trò đắc địa của ngôn từ, văn chương hoàn toàn có thể mô tả lí trí cũng như khơi gợi cảm xúc con người. Nó chiếm giữ vai trò trọng yếu trong hệ hình giá trị tinh thần và bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Nhà nghiên cứu Đỗ Thị Ngọc Chi đã có những nhận xét cụ thể về vấn đề bản sắc dân tộc “Việt Nam không có nền văn hóa lộ thiên đồ sộ như thánh địa, đền đài, chùa Vàng, chùa Bạc, những Ăng kor,..., 16 không có triết thuyết nhập thế, vô vi, âm dương ngũ hành, cũng không có triết lý âm dương huyền bí... như nhiều quốc gia trong khu vực nhưng chúng ta lại có bề dày văn hóa của người Việt Nam với những đức tính cao đẹp như yêu nước, cần cù, tinh thần đoàn kết, giàu lòng yêu thương” [5, tr.47]. Văn học góp phần làm lộ diện bản sắc văn hóa. Vì vậy, bản sắc văn hóa của một dân tộc phải mang những nét rất riêng biệt độc đáo. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành trong cuốn Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học cũng nói rất rõ về điều này “Nhiều dân tộc có văn hóa nhưng không phải nền văn hóa nào cũng có bản sắc. Những nền văn hóa có bản sắc là những nền văn hóa tiêu biểu”[45, tr.40]. Có thể thấy, văn học Việt Nam là một hiện tượng văn hóa xã hội có giá trị cao. Nếu gạt bỏ nhân tố văn học ra khỏi di sản văn hóa dân tộc thì nền văn hóa Việt chỉ là sự trống rỗng vô giá trị. Trong lịch sử văn học dân tộc, việc trân trọng Truyện Kiều như “quốc hồn, quốc túy” của dân tộc, ngợi ca tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và chủ nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh đã góp tiếng nói khẳng định nhân cách văn hóa con người Việt. Khi danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới được trao tặng cho ba nhân vật kiệt xuất Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, tức là thế giới đã công nhận nét độc đáo trong giá trị tinh thần người Việt cũng như những nhân cách văn hóa đại diện cho bản sắc dân tộc Việt. Và trong thời đại ngày nay, khi văn hóa ngoại lai được du nhập, nó đã làm loãng những giá trị truyền thống dân tộc thì văn học cần thể hiện sức mạnh của mình. Văn học luôn hiện hình và trở thành đội quân tiên phong trong việc bảo vệ những giá trị văn hóa dân tộc. Chính lịch sử văn hóa - văn học dân tộc đã cho chúng ta một nhận thức đúng đắn rằng: người cầm bút chỉ trở thành một nhà văn lớn khi họ đã đạt đến tầm vóc của một nhà văn hóa - tư tưởng. Văn học là sản phẩm của lịch sử, là đứa con được sinh ra trong lòng cộng đồng dân tộc, là quý phẩm của sáng tạo con người. Vì vậy, như một tất yếu, nó phải có trách nhiệm phản ánh lịch sử tồn tại của các thời đại cùng những hệ giá trị riêng biệt mang tính bản sắc “vùng”. Hay nói cách khác, văn học có chức năng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông để lại, còn người sáng tác văn chương chính là cầu nối chuyển giao những hệ giá trị đó. 17 Là một bộ phận cốt yếu của văn hóa, là sản phẩm và hiện thân cho văn hóa, văn học luôn chiếm giữ một vai trò đặc biệt trong văn hóa. Vì vậy, nó đã đặt ra những nhu cầu, những góc nhìn đúng đắn đối với người thưởng thức cũng như giới nghiên cứu phê bình tác phẩm văn học. Đó là cần phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn của văn hóa xã hội. Ngoài ra, phải xem văn học là một bộ phận cấu thành nên văn hóa, tác phẩm văn học cũng chính là sản phẩm của văn hóa. Vì vậy, cần giải mã nó trong ngữ cảnh của văn hóa. Hơn thế nữa, cần phải nhìn nhận văn học như là một trong những loại hình nghệ thuật có khả năng thấu nhận, chạm tới mạch ngầm của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người sáng tạo văn chương. 1.2.2. Văn học kết tinh các giá trị văn hóa. Trước hết cần phải hiểu giá trị là gì? Giá trị (value) là kết tinh cô đọng nhất của văn hóa, là hệ quy chiếu đánh giá sự văn minh nhân loại. Dưới cái nhìn tổng quan, giá trị giống như một biểu hình, mà ở đó từng nét vẽ như kiến tạo nên bộ mặt riêng biệt độc đáo của từng con người, dân tộc, thời đại. Giá trị và giá trị văn hóa chính là hình thái của đời sống tinh thần con người, nó phản ánh và kết tinh trong mọi khía cạnh cuộc sống con người. Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa đã đưa ra định nghĩa về giá trị là “những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo những gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói cách khác, đó chính là những cái được cho là Chân, Thiện, Mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất con người” [49, tr.38]. Có thể nói, giá trị văn hóa chính là giá trị xã hội và văn học là nơi thể hiện các hệ giá trị ấy. Mặt khác, giá trị còn là một phạm trù tinh thần được con người tri giác, cảm hóa và hun đúc từ những trải nghiệm thực tại. Bằng cảm thức về văn hóa riêng biệt, con người tiếp cận giá trị với bộ lọc tinh vi để “phân loại” chúng. Những dạng nào là phù hợp, quy chuẩn, tốt đẹp thì gìn giữ, bảo lưu, bảo tồn qua nhiều thế hệ, góp phần làm giàu thêm cho bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngược lại, những dạng thức là “phản giá trị”, “phi giá trị” tất yếu sẽ bị “rũ bỏ”, đào thải như một quy luật hiển nhiên. 18 Nếu âm nhạc “thu gom” những giá trị văn hóa thông qua tiết tấu, giai điệu; kiến trúc biểu đạt văn hóa qua những cấu hình, bài trí, bố cục thì văn học lại có khả năng kết tinh giá trị văn hóa theo cách riêng của mình thông qua ngôn ngữ và biểu tượng. Bằng ngôn ngữ và biểu tương, văn học luôn luôn chủ động định hình và lựa chọn những hệ giá trị tốt đẹp nhất cho con người. Văn học như một sự kết tinh các giá trị văn hóa bằng những vai trò, chức năng riêng biệt của mình. Thứ nhất, văn học gìn giữ và bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống sống mãi với thời gian, với con người. Trải theo thời gian, sự va đập giữa mỹ tục văn hóa truyền thống với cái xấu, cái ác của văn hóa ngoại lai thời hiện đại đã diễn ra như một tất yếu của cuộc sống. Hơn nữa, văn học là một bộ phận cấu thành của văn hóa và người sáng tác chính là chủ thể sáng tạo, là sản phẩm của cộng đồng tộc người. Vì vậy, họ luôn chịu sự chi phối của những thành tố, những quy phạm của văn hóa cộng đồng. Như một tất yếu, những đứa con tinh thần của họ cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những hệ giá trị ngầm được hoạch định sẵn trong tâm thức văn hóa mỗi con người. Đó chính là cội nguồn lý giải vì sao độc giả luôn hướng đến Cái Đẹp - một phạm trù mỹ học gắn liền với tư tưởng của chủ thể sáng tạo. Và một điều cần nhấn mạnh ở đây đó là dù giá trị thẩm mỹ có hướng ngòi bút tác giả đến “vùng miền” nào của những ý niệm văn hóa thì cuối cùng vẫn phải được đặt trên phông nền của đạo đức, văn hóa truyền thống. Trương Đăng Dung trong Tác phẩm văn học như là quá trình (2004) cũng đề cập đến vấn đề này. Tác giả gọi nó là điều kiện để quyết định tác phẩm của thời đại này bước sang thời đại khác và giá trị thẩm mỹ đích thực trong tác phẩm văn học sẽ hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ, nó sẽ xây dựng hình tượng con người theo cái Đẹp và xác định một tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp. Như vậy, những tác phẩm văn học, vừa biểu trưng bản chất đặc thù nghệ thuật vừa mang đến cho đối tượng thụ ngôn một cách nhìn đúng hướng. Những hệ giá trị tốt đẹp trong văn học sẽ luôn được lưu truyền, gìn giữ và phát huy trong các thế hệ con người và thời đại dân tộc. Thứ hai, không chỉ gìn giữ và bảo lưu các hệ giá trị tốt đẹp, văn học còn sản sinh ra các giá trị văn hóa tinh thần mới, đôi khi còn vượt ra khỏi những giới hạn về mặt thời đại. Nói cách khác, văn học có khả năng đặc biệt – khả năng sáng tạo ra 19 các giá trị văn hóa. Văn học với năng lực kỳ diệu ấy đã tạo nên nhiều giá trị văn hóa, trong đó, quan trọng nhất là giá trị ngôn từ dân tộc và những giá trị tư tưởng của mỗi cá nhân con người trong dân tộc ấy. Nghệ thuật ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng của văn hóa cũng như văn học. Nó vừa là thành phẩm của một tiến trình văn hóa lâu dài của xã hội loài người, vừa là phương thức cho sự phát triển văn hóa. Văn hóa càng gần đến ngưỡng văn minh nhân loại thì ngôn ngữ càng trở nên phong phú, tinh diệu hơn. Bản thân nghệ thuật ngôn từ đổi mới và phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của văn hóa. Do đó, chăm lo cho văn học tức là chăm lo cho văn hóa, tạo điều kiện cho văn học phát triển là bước đột phá cho sự phát triển của đời sống văn hóa. Trong lời Phi Lộ đăng trên tạp chí Văn học số 1(5/1932), học giả Đinh Gia Trinh đã khẳng khái nhận xét rằng “Muốn giữ cho cái quốc hồn của mình đừng siêu lạc, cái quốc túy của mình khỏi tán thất, cái quốc hoa của mình ngày một thêm rực rỡ tốt tươi, thì thế nào cũng phải trao lời trải chuốt, sửa sang, sắp đặt, gom góp thứ tiếng nói ấy cho thành văn thành vẻ, thành riêng hẳn, là đặc sắc của dân tộc mình mới được”[63, tr.47]. Trên hành trình phát triển, ngôn ngữ văn học luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và sáng tạo các giá trị văn hóa dân tộc. Những giá trị ngôn ngữ truyền thống, đặc biệt ngôn ngữ dân gian trở thành những tài sản vô cùng quý giá trong suốt những chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc từ xưa đến nay. Ở một góc độ khác, văn học bảo vệ, gìn giữ và hun đúc lên một hệ giá trị độc đáo, đó chính là nhân phẩm con người. Nói cách khác, văn học với những khả năng tiềm ẩn bên trong đã tạo lập quá trình xây dựng và phát triển nhân cách con người, nhân cách văn hóa. Văn học có thể giải mã tất cả những ẩn số bên trong mỗi con người thông qua ngoại hình, hành động. Nếu như khoa học khai hóa tri thức về tự nhiên, xã hội, con người nói chung thì văn học có thể xuyên thấu vào từng hiện tượng trái tim và tâm hồn con người mà phản chiếu nó một cách riêng biệt nhất. Khi đời sống tâm hồn và tâm lý con người ngày càng trở nên phức tạp thì văn học nghệ thuật càng có cơ hội để thể hiện vai trò của mình - soi thấu để định hình sự tự thức. Một tác phẩm văn học thành công khi bản thân nó chứa đựng vô số những mảng đời thực, nghĩa là người đọc thấy mình ở trong đó, và hiệu ứng “giáo dục nhân cách” 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan