Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo ...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng

.DOC
29
329
61

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KIM ĐỘNG TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỨC HỢP SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT VỀ ĐẠI LƯỢNG VÀ ĐO ĐẠI LƯỢNG MÔN TOÁN LỚP 3 Người thực hiện : Trần Thị Thanh Huyền Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đức Hợp – Kim Động- Hưng Yên Năm học: 2012- 2013 1 GIỚI THIỆU TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA KINH NGHIỆM Trang NỘI DUNG 1 Phần mở đầu I- Lý do chọn đề tài 1 1- Cơ sở lý luận 2 2- Cơ sở thực tiễn 2 II- Mục đích nghiên cứu 3 III- Nhiệm vụ nghiên cứu 4 IV- Đối tượng nghiên cứu 4 V- Phương pháp nghiên cứu 4 Phần nội dung I- Thực trạng của việc dạy và học các đại lượng và đo đại lượng ở 5 5 lớp 3. II- Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh lớp 3 khi học 6 về đại lượng và đo đại lượng III- Biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng 7 lớp 3. IV- Thực nghiệm sư phạm 18 V- Kết quả 22 Phần kết luận 23 I- Bài học kinh nghiệm 23 II. Điều kiện áp dụng 23 III- Những kiến nghị đề xuất 24 IV- Kết luận chung 25 2 PHẦN MỞ ĐẦU I- LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN: 1.Cơ sở lí luận: Môn Toán có một vị trí quan trọng trong các môn học ở Tiểu học, kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống của con người và là cơ sở để học tiếp môn Toán ở các bậc học trên. Mặt khác, môn Toán ở tiểu học góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện; nó giúp con người phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt và hình thành trong học sinh cách nhìn đúng đắn về sự vật, hiện tượng trong thực tiễn. Đồng thời môn Toán ở tiểu học còn bồi dưỡng cho các em tính trung thực, cẩn thận, tính khoa học trong lao động, học tập, góp phần vào sự hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của con người lao động mới. Chính vì vậy mà môn Toán ở tiểu học là môn học cực kì quan trọng không thể thiếu được đối với học sinh. Nội dung chương trình môn Toán ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng bao gồm 5 mạch kiến thức: - Số học - Đại lượng và đo đại lượng - Hình học - Thống kê - Giải toán Các nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nội dung dạy học đại lượng và phép đo đại lượng giữ vai trò quan trọng nhằm giúp học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, dạy học đại lượng và phép đo đại lượng nhằm giúp củng cố các kiến thức có liên quan trong môn Toán, phát triển năng lực thực hành, năng lực tư duy của học sinh. Cụ thể: việc dạy học các đại lượng và đo đại lượng, lập bảng đơn vị đo, thực hành cân đo, làm các bài tập giúp các em biết so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, biết thao tác tư duy cơ bản để hình thành 3 những phẩm chất trí tuệ và năng lực sáng tạo. Những kiến thức và kĩ năng dạy đại lượng và đo đại lượng còn góp phần giúp các em học tập tốt hơn các loại toán như: Tính sản lượng, các bài toán có nội dung hình học ở các lớp trên,…và cũng nhờ việc dạy học đại lượng và đo đại lượng các em biết cân đo, biết ước lượng, biết xem giờ và thực hành đổi tiền Việt Nam….Từ đó các em biết áp dụng những kiến thức đó vào cuộc sống hàng ngày. Cũng chính nhờ việc dạy học đại lượng và đo đại lượng, các em có thể học tốt hơn các môn học khác. 2- Cơ sở thực tiễn: Trong quá trình dự giờ và trực tiếp giảng dạy môn Toán lớp 3 tôi nhận thấy các đồng chí giáo viên và các em học sinh còn có những khó khăn, sai lầm và vướng mắc khi dạy học về đại lượng và số đo đại lượng. Cụ thể: a- Đối với giáo viên: - Còn lúng túng trong việc hình thành các biểu tượng về đại lượng cho học sinh. - Chưa phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy học về đại lượng và số đo đại lượng. - Chưa khắc sâu kiến thức cho học sinh khi dạy cách chuyển đổi các đơn vị đo từ danh số phức hợp sang danh số đơn. b- Đối với học sinh: Đại lượng là một khái niệm trừu tượng. Để nhận thức được khái niệm đại lượng đòi hỏi học sinh phải có khả năng trừu trượng hoá, khái quát hoá cao. Nhưng học sinh tiểu học còn rất hạn chế về khả năng này. Cụ thể: - Về tư duy: Học sinh tiểu học đang trong quá trình hình thành và phát triển, nhận thức còn ở trong giai đoạn “tư duy cụ thể” do đó, việc nhận thức các kiến thức về đại lượng và đo đại lượng là vấn đề khó. Các em khó có thể tư duy trừu tượng dựa trên khái niệm mà cần có chỗ dựa là trực quan. - Về trí nhớ: Đối với học sinh tiểu học, bộ não chưa phát triển hoàn chỉnh, các em thường nhớ một cách máy móc do ngôn ngữ các em còn ít nên các em có xu hướng thuộc lòng. Ở các em, trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ lôgic. 4 - Về tri giác: Là khâu đầu tiên và rất quan trọng đối với hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học. Các em còn tri giác tổng thể, chưa biết phân tích sâu, riêng lẻ các đặc điểm của đối tượng, cũng như chưa biết tổng hợp các đặc điểm riêng lẻ theo yêu cầu quy định. Tri giác của các em còn gắn với hành động thực tiễn thể hiện bằng cách trực quan. - Về chú ý: Sự chú ý không chủ định còn chiếm ưu thế. Các em nhạy cảm với cái mới lạ, hấp dẫn, màu mè, gợi cảm, trong khi đó, đại lượng và đo đại lượng là vấn đề trừu tượng, khó hiểu, khó nhớ, và hay lẫn lộn nên sự chú ý của các em không tập trung. Mặt khác, sự chú ý của các em còn chưa bền vững, mau mệt mỏi khi đối tượng đơn điệu, trừu tượng, dẫn đến các em hay mắc sai lầm khi thực hành đối với các đơn vị đo đại lượng. Với những lí do trên đây, tôi đã lựa chọn, nghiên cứu sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng”. II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 1. Tìm hiểu cấu trúc, nội dung chương trình dạy học các đại lượng và đo đại lượng ở sách giáo khoa Toán 3. 2.Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm đạt hiệu quả tốt hơn khi tiến hành soạn giảng từng bài cụ thể về dạy học đại lượng và đo đại lượng trong chương trình Toán 3. 3.Tìm hiểu hệ thống bài tập về đại lượng và đo đại lượng trong chương trình Toán 3. Nắm được các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của các bài tập đó và đề ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh thực hiện có hiệu quả những bài tập này. III- NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. 1. Tìm hiểu những đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học về đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3. 2. Điều tra thực trạng việc dạy và học về đại lượng và đo đại lượng của giáo viên và học sinh lớp 3 trong trường Tiểu học. 3.Thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của biện pháp đã nêu trong sáng kiến. 5 IV- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Học sinh lớp 3B và 3C trường Tiểu học Đức Hợp. V- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1- Phương pháp nghiên cứu lí luận: - Đọc các tài liệu có liên quan đến sáng kiến. - Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập, vở Luyện toán 3 Đọc tài liệu bồi dưỡng giáo viên . 2- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Toạ đàm, trao đổi với giáo viên và học sinh tiểu học. 3- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Rút kinh nghiệm qua thực tế công tác giảng dạy. 4- Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm, đối chứng, đánh giá hiệu quả của việc áp dụng phương pháp dạy học các đại lượng và đo đại lượng đã đề xuất. 6 PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC CÁC ĐẠI LƯỢNG VÀ ĐO ĐẠI LƯỢNG Ở LỚP 3: 1- Đối với giáo viên: Những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học được quan tâm đặc biệt ở tất cả các bậc học và ở mọi môn học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đạt kết quả rõ rệt trong môn toán. Tuy nhiên vẫn còn một số kiến thức khó khiến giáo viên lúng túng trong truyền đạt và học sinh gặp khó khăn trong việc thực hành, luyện tập. Cụ thể ở môn toán lớp 3, đại lượng và đo đại lượng là một mảng kiến thức tương đối khó và khô khan. Khi dạy đại lượng và đo đại lượng, một số giáo viên còn nặng về giảng giải, lúng túng khi hình thành các biểu tượng về các đại lượng và đơn vị đo đại lượng. Nhiều giáo viên còn sử dụng phương pháp dạy học cũ “ Thầy giảng – trò ghi nhớ” làm hạn chế tư duy của học sinh, khiến học sinh thụ động tiếp thu kiến thức. 2- Đối với học sinh: Tôi tiến hành khảo sát chất lượng với nội dung về đại lượng và đo đại lượng ở hai lớp 3B và 3C trường Tiểu học Đức Hợp và thu được kết quả như sau: Lớp Giỏi Sĩ số Trung Khá Yếu bình SL % SL % SL % SL % 3B 29 5 17.2 10 34.3 9 31 5 17.2 3C 29 4 13.8 12 41.4 9 31 4 13.8 Qua chấm bài và trò chuyện với học sinh tôi nhận thấy học sinh thường mắc phải những sai lầm sau: - Nhầm lẫn khi đổi các đơn vị đo. Ví dụ: 4m2cm = 42cm… - Sai lầm khi so sánh số đo đại lượng. Ví dụ: 5m < 50cm - Học sinh nhầm lẫn giữa các đơn vị đo như km và kg, hm và hg… - Lẫn lộn thời điểm và thời gian. Ví dụ: Học sinh nói: “Thời gian em thức dậy 7 buổi sáng là 7 giờ” – Lẽ ra phải nói: “Em thức dậy lúc 7 giờ”. - Sai lầm khi suy luận. Ví dụ: Học sinh cho rằng: Sắt nặng hơn bông nên 1kg sắt phải nặng hơn 1 kg bông. - Không phân biệt được sự khác nhau giữa đại lượng độ dài và đại lượng diện tích. Chẳng hạn: Khi yêu cầu tính chu vi và diện tích của một hình vuông có cạnh 4 cm, một học sinh đã làm như sau: Chu vi hình vuông là: 4 x 4 = 16 Diện tích hình vuông là: 4 x 4 = 16 Từ đó, học sinh này nêu nhận xét: hình vuông trên có chu vi bằng diện tích. II- NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG SAI LÇm CỦA HỌC SINH LỚP 3 KHI HỌC VỀ ĐẠI LƯỢNG VÀ ĐO ĐẠI LƯỢNG: 1.Từ phía học sinh: Nhận thức của học sinh Tiểu học, nhất là ở các lớp đầu cấp thường là cảm tính, tư duy của các em dựa vào trực quan và quan sát. Khả năng tưởng tượng của học sinh tiểu học còn bị hạn chế. Suy luận của các em không phải là suy diễn mà là một dãy các phán đoán gián đoạn, mò mẫm, chưa phải là phán đoán có ý thức. Vì khái niệm đại lượng là một khái niệm trừu tượng, nằm tàng ẩn trong các đối tượng vật chất cụ thể nên nhận thức được các khái niệm về đại lượng và đo đại lượng đặc biệt khó khăn đối với học sinh Tiểu học. Chính vì vậy, khi học về đại lượng và đo đại lượng học sinh thường mắc một số sai lầm. 2. Từ phía giáo viên: Trong thực tế giảng dạy, còn một số giáo viên vẫn sử dụng phương pháp dạy học cũ: Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng, ghi nhớ rồi làm theo bài mẫu. Do đó, học sinh ít hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường nghèo nàn, đơn điệu, năng lực vốn có của cá nhân học sinh ít có cơ hội phát triển, nên việc học sinh 8 mắc phải những sai lầm khi học về đại lượng và đo đại lượng là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, khi thấy học sinh mắc những sai lầm trong học toán, giáo viên chưa tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục nên những sai lầm đó vẫn còn tồn tại. III- BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT VỀ ĐẠI LƯỢNG VÀ ĐO ĐẠI LƯỢNG: 1. Mục tiêu cần đạt khi dạy học về đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3: 1.1. Dạy học về độ dài: - Giới thiệu tên gọi, kí hiệu, độ lớn của các đơn vị đo: đề - ca – mét, héc – tô – mét. - Biết đọc, viết số đo độ dài có một hoặc hai tên đơn vị đo. Giới thiệu bảng đon vị đo độ dài: Giúp học sinh có hiểu biết ban đầu về hệ thống đơn vị đo độ dài, quan hệ giữa hai đơn vị tiếp liền (chỉ đổi từ đơn vị lớn ra đơn vị - nhỏ và quan hệ giữa một số đơn vị đo độ dài thường gặp như 1km = 1000m, 1m = 100cm, 1m = 1000mm). Biết đổi số đo độ dài có một tên đơn vị đo (đổi từ danh số đơn sang danh số đơn) và biết đổi số đo độ dài có hai tên đơn vị thành số đo có 1 tên đơn vị (đổi từ danh số phức hợp sang danh số đơn) - - Làm tính và giải toán liên quan tới các số đo độ dài. Thực hành đo độ dài và ước lượng độ dài trong các trường hợp đơn giản. 1.2 Dạy học về khối lượng: - - Nhận biết tên gọi, kí hiệu và biểu tượng của đơn vị đo khối lượng. - Biết đọc, viết số đo với đơn vị gam. - Nhận biết quan hệ giữa hai đơn vị kilôgam và gam. - Làm tính và giải toán liên quan đến các số đo khối lượng gam và kilôgam - Tập sử dụng cân đĩa và cân đồng hồ để thực hành cân các đồ vật thông dụng hàng ngày. Tập ước lượng khối lượng trong một số trường hợp đơn giản. 1.3. Dạy học về thời gian. - Đo thời gian với các đơn vị đo thường gặp là: giờ, phút, ngày, tháng, năm. - Củng cố và nhận biết các mối quan hệ giữa 2 đơn vị đo thời gian như:1 ngày có 24 giờ, 1 giờ có 60 phút, 1 năm có 12 tháng, số ngày cụ thể trong từng tháng. 9 - Biết xem đồng hồ (chính xác đến từng phút). - Biết đọc và sử dụng lịch (lịch bóc hàng ngày hoặc lịch quyển). - Củng cố nhận biết về thời điểm và khoảng thời gian. 1.4. Dạy học về tiền Việt Nam. - Giới thiệu các loại tiền giấy: 2000đồng, 5000đồng, 10.000đồng, 20.000đồng, 50.000đồng, … - Làm quen với các đồng tiền kim loại: 5000đồng, 2000đồng, 1000đồng, 500đồng và 200đồng. - Tập đổi tiền và sử dụng tiền Việt Nam trong sinh hoạt hàng ngày. 1.5. Dạy học về diện tích. - Hình thành biểu tượng ban đầu về diện tích của một hình. - Giới thiệu tên gọi, kí hiệu, độ dài của đơn vị đo diện tích: xăng ti mét vuông. - Biết đọc, viết số đo diện tích với đơn vị là xăng- ti- mét vuông. - Biết cách tính diện tích của hình chữ nhật và hình vuông. - Biết làm tính và giải toán liên quan tới số đo diện tích là xăng- ti- mét vuông. 2. Biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng: Qua tìm hiểu và phân tích nguyên nhân dẫn đến sai lầm của học sinh lớp 3 khi học về đại lượng và đo đại lượng, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt về đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 như sau: 2.1. Biện pháp1:Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn khi chuyển đổi các đơn vị đo: Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chưa nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo. Khi dạy học về các đơn vị đo của một đại lượng cần giúp học sinh nắm vững hệ thống các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó. Bảng các đơn vị đo đại lượng là một hệ thống hoá các đơn vị đo đã học. Bảng còn là một công cụ giúp học sinh biết cách chuyển đổi số đo từ đơn vị này sang đơn vị khác. Để giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài ở lớp 2, tôi đã tiến hành dạy học bài: “Bảng đơn vị đo độ dài” như sau: Bước 1: Thành lập bảng: Học sinh nhắc lại (có thể không theo thứ tự) tất cả các đơn vị đo độ dài đã 10 học. Giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp lại theo thứ tự (từ trái qua phải) các đơn vị lớn hơn mét rồi đến các đơn vị nhỏ hơn mét để cuối cùng lập thành một bảng hoàn thiện như sau: Lớn hơn mét km hm Nhỏ hơn mét Mét dam m dm cm mm Bước 2: Phân tích bảng: Học sinh so sánh giá trị hai đơn vị liền nhau để rút ra nhận xét “Hai đơn vị đo độ dài liên tiếp gấp, kém nhau 10 lần”. Về sự liên quan giữa các đơn vị đo khác nhau trong bảng chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những mối quan hệ thường gặp như: 1km = 1000m; 1m = 100cm = 1000mm. Chưa yêu cầu học sinh suy luận gián tiếp (ví dụ: 1dm = 10cm, 1cm = 10mm, thế thì 1dm = 10 x 10mm = 100mm vì lúc này học sinh mới học đến bảng nhân 7) Bước 3: Vận dụng bảng: Học sinh tính luyện tập đọc bảng, đổi đơn vị đo, làm bài tập về các phép tính với số đo độ dài. Ví dụ: 8 dm + 3dcm, 96cm : 3. 2.2. Biện pháp2: Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi so sánh số đo đại lượng. Ví dụ: 5m < 50cm. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chỉ quan sát số đo mà không quan sát đơn vị đo. Học sinh chưa hiểu bản chất phép đo nên không phân biệt được giá trị đại lượng và số đo đại lượng. Số lớn hay số nhỏ của cùng một giá trị đại lượng phụ thuộc vào giá trị của đại lượng đó lớn hay nhỏ. Để khắc phục sai lầm này, bên cạnh việc giúp học sinh nắm vững hệ thống các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó , tôi đã cho học sinh làm nhiều bài tập dạng so sánh số đo đại lượng và lưu ý học sinh khi so sánh 2 giá trị của một đại lượng phải quy về cùng một đơn vị đo. Ví dụ > < = 6m3cm … 7m 5m6cm …. 5m 6m3cm…. 6m 5m6cm … 6cm 11 6m3cm… 630cm 5m6cm…506cm 2.3. Biện pháp3: Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi suy luận. Ví dụ: Học sinh cho rằng: Sắt nặng hơn bông nên 1kg sắt phải nặng hơn 1 kg bông. Cách suy luận như vậy không phải là cá biệt. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chưa hiểu bản chất khái niệm đại lượng và phép đo đại lượng. Nhận thức còn mang nặng cảm tính. Để khắc phục những sai lầm như trên tôi đã đưa ra nhũng ví dụ và yêu cầu học sinh thực hành đo trực tiếp. Chẳng hạn: tôi cho học sinh trực tiếp cân bằng cân đĩa để thấy rằng 1kg sắt không nặng hơn 1kg bông,… 2.4. Biện pháp4: Giúp học sinh khắc phục nhầm lẫn giữa các đơn vị đo như km và kg, hm và hg… Để khắc phục sai lầm này, khi giới thiệu đơn vị đo đại lượng mới, tôi lưu ý cho học sinh quy ước viết tắt và có sự so sánh về kí hiệu giữa đơn vị đo độ dài và đơn vị đo khối lượng, giúp học sinh nắm chắc hơn các kí hiệu này. VD:Ki –lô- mét (viết tắt là km) Ki- lô-gam ( viết tắt là kg) 2.5. Biện pháp5: Giúp học sinh phân biệt được sự khác nhau giữa đại lượng độ dài và đại lượng diện tích: Để khắc phục sai lầm này, ngay từ đầu, giáo viên cần cho học sinh nắm chắc biểu tượng đơn vị đo diện tích đầu tiên được học ở lớp 3- đó là xăng-ti-mét vuông. Chính vì vậy, khi dạy học về hình thành biểu tượng đơn vị đo diện tích là xăng – ti – mét vuông tôi đã tiến hành theo các bước sau: * Bước 1: Giới thiệu đại lượng mới: - Cho học sinh so sánh trực tiếp 2 sự vật theo một thuộc tính đặc trưng cho các đại lượng cần học. Chẳng hạn: + Yêu cầu học sinh phủ kín mặt bàn bằng những tờ giấy vở học sinh và cho biết: Cần bao nhiêu tờ giấy đó để phủ kín được mặt bàn. * Bước 2: Nêu sự cần thiết phải có đơn vị đo: - Giáo viên nêu vấn đề: Không phải lúc nào cũng có sự so sánh trực tiếp như 12 vậy. Chẳng hạn không thể đặt một mảnh ruộng lên trên cánh rừng được hoặc không thể đặt cái sân nọ lên cái sân kia để so sánh. - Do đó cần có cách so sánh gián tiếp qua một vật trung gian thứ ba. Chẳng hạn: Muốn so sánh diện tích hai cái sân, ta dùng vật trung gian là viên gạch + Cái sân thứ nhất lát hết 200 viên gạch; + Cái sân thứ hai lát hết 250 viên gạch. Vậy diện tích cái sân thứ nhất bé hơn cái sân thứ hai (vì 200 bé hơn 250). - Có nhiều cách chọn vật trung gian nói trên.Chẳng hạn: Tờ giấy, viên gạch… Tuy nhiên, nếu mỗi người lại chon một loại vật trung gian to nhỏ khác nhau như vật thì rất khó so sánh các kết quả đo. Do đó cần có đơn vị “chuẩn” để đo diện tích. Một trong các đơn vị đo diện tích đó là xăng - ti - mét vuông. * Bước 3: Giới thiệu đơn vị đo: Giáo viên cho học sinh quan sát hình vuông cạnh 1cm và giới thiệu: Để thuận lợi, người ta chọn diện tích của hình vuông có cạnh bằng một đơn vị đo độ dài là xăng - ti - mét làm đơn vị đo diện tích. Hình vuông đó gọi là “Hình vuông đơn vị diện tích”. Sau đó giáo viên cho học sinh vẽ trên vở ôli hình vuông có canh 1cm rồi tô mầu hình vuông đó và nêu “ một xăng - ti - mét vuông”. Tiếp theo giáo viên giới thiệu kí hiệu của đơn vị đo. Chẳng hạn: “Viết đầy đủ là xăng - ti - mét vuông thì quá dài, do đó ta viết tắt theo quy ước quốc tế là cm2 và khi viết số đo diện tích cần viết số kèm theo đơn vị đo”. Giáo viên ghi rõ lên bảng kí hiệu 1cm2 rồi gọi học sinh đọc cá nhân, đồng thanh vài lần. Mặt khác, khi phân tích sai lầm này, tôi đã chỉ rõ : chu vi là đại lượng độ dài, đơn vị đo là mét, đề-xi-mét,….còn diện tích là đại lượng diện tích, được đo bằng xăng-ti- mét vuông….hai đại lượng này không thể so sánh được với nhau. Chẳng hạn: Để đo chu vi hình vuông cạnh 4cm, ta lấy đơn vị đo độ dài 1cm (đoạn thẳng cạnh 1cm) và đặt dọc theo một cạnh, được 4 đơn vị đo độ dài, vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau nên tổng độ dài của 4 cạnh được xác định bằng phép tính : 4 x 4 = 16 và chu vi của hình vuông là 16cm. Để đo diện tích hình vuông cạnh 4cm, ta lấy đơn vị đo diện tích 1cm2 ( hình vuông có cạnh 1cm) và đặt dọc theo một cạnh được 13 4 đơn vị đo diện tích. Vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau nên đặt được 4 hàng như thế, tổng diện tích của hình vuông được xác định bằng phép tính: 4 x 4 = 16 và diện tích của hình vuông là 16 cm2. Vì vậy không thể nói hình vuông cạnh 4cm có chu vi bằng diện tích. 2.6. Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh thực hiện một số dạng bài tập khó về đại lượng và đo đại lượng: 1. Bài 1b (trang 46) Viết số thích hợp vào chỗ chấm (theo mẫu). Mẫu 3m2dm = 32dm 3m2cm = ………. cm 9m3cm = ………… cm 4m7dm = ………. dm 9m3dm = ………… dm 4m7cm = ………. cm Với bài tập này, các em học sinh rất lúng túng và hay nhầm lẫn. Vậy giáo viên cần hướng dẫn các em sử dụng mối liên hệ giữa các đơn vị đo độ dài để có: 3m2cm = 3m + 2cm = 300cm + 2cm = 302cm Vậy 3m2cm = 302cm 4m7dm = 4m + 7dm = 400cm + 70cm = 470cm Vậy: 4m7dm = 470cm Hoặc có thể sử dụng bảng m dm cm 3 0 2 4 7 0 Hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh viết và nhẩm: 3(m) 0 (dm) 2 (cm) để được 3m2cm = 302cm. Và 4(m) 7(dm) 0 (cm) để được 470cm Các câu khác học sinh có thể làm tương tự. 2. Bài 3 (trang 46) > 6m3cm ………….. 7m 5m6cm …………. 5m 14 < 6m3cm ………….. 6m 5m6cm …………. 6m = 6m3cm ………….. 630cm 5m6cm …………. 506cm 6m3cm ………….. 603cm 5m6cm …………. 560cm Với dạng bài tập này có thể hướng dẫn học sinh tìm cách giải bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn với câu thứ nhất 6m3cm ……… 7m thì 6m3cm gồm 6m và thêm 3cm nữa chứ không đủ để thành 7m. Vậy 6m3cm < 7m Học sinh cũng có nêu cách làm như sau: Đổi 6m3cm = 603cm. 7m = 700cm. Từ đó suy ra ta được 6m3cm < 7m. Các câu khác học sinh làm tương tự. 3. Bài 3 (trang 67) Cô Lan có 1kg đường, cô đã bán hết 400g. Sau đó cô chia đều số đường còn lại vào 3 túi nhỏ. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu gam đường? Với bài tập này giáo viên cần hệ thống câu hỏi gợi mở để các em tự tìm ra cách giải. - Bài toán cho biết gì? (Cô có 1kg đường, làm bánh hết 400g. Số còn lại chia đều vào 3 túi nhỏ). - Bài toán yêu cầu tính gì? (Mỗi túi có bao nhiêu gam đường) - Muốn biết mỗi túi có bao nhiêu gam đường ta cần biết gì? (Số đường còn lại nặng bao nhiêu gam?) - Muốn tìm số đường còn lại ta phải làm gì? (Lấy 1kg – 400g). - Khi thực hiện phép tính 1kg – 400g thì ta phải làm thế nào? (phải đổi 1kg = 1000g rồi mới làm phép tính trừ). Sau đó học sinh giải: 1kg = 1000g Số đường còn lại cân nặng là: 1000 – 400 = 600 (g) Mỗi túi đường nhỏ cân nặng là: 15 600 : 3 = 200 (g) Đáp số: 200 gam đường. 4. Bài 4 (trang 104) Vẽ đoạn thẳng AB có độ dài 8cm rồi xác định trung điểm O của đoạn thẳng đó? Với bài này giáo viên cần giúp các em hiểu trung điểm cũng chính là điểm ở chính giữa và hướng dẫn các em nêu cách làm bài: - Vẽ đoạn thẳng AB có độ dài 8cm. - Chia nhẩm 8cm : 2 = 4cm. - Đặt vạch 0 cm của thước trùng với điểm A, mép thước trùng với đoạn thẳng AB, chấm điểm O trên đoạn thẳng AB sao cho ứng với vạch 4cm của thước. A O B 5. Bài 4 (trang 109) Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng: Ngày 30 tháng 8 là chủ nhật thì ngày 2 tháng 9 cùng năm đó là: A. Thứ hai B. Thứ ba C. Thứ tư D. Thứ năm Giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau: - Xác định tháng 8 có bao nhiêu ngày? (31 ngày). - Tính dần từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 2 tháng 9: + Ngày 30 tháng 8 là chủ nhật. + Ngày 31 tháng 8 là thứ hai. + Ngày 1 tháng 9 là thứ ba. + Ngày 2 tháng 9 là thứ tư. - Vậy phải khoanh vào chữ C. 6. Bài 7 (trang 166) Ngày 8 tháng 3 là ngày chủ nhật. Hỏi những ngày chủ nhật trong tháng đó là những ngày nào? Giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau: + Mỗi tuần có bao nhiêu ngày? 16 + Ngày 8 tháng 3 là chủ nhật. Vậy ngày chủ nhật liền trước là ngày mấy? Ngày liền sau là ngày bao nhiêu? Hướng dẫn học sinh minh họa bằng sơ đồ: Chủ nhật 1 Chủ nhật Chủ nhật 8 Chủ nhật 15 Chủ nhật 22 29 Hướng dẫn học sinh trình bày bài giải: + Chủ nhật đầu tiên của tháng 3 là ngày 01 (vì 8 – 7 = 1) + Chủ nhật thứ hai của tháng 3 là ngày 08. + Chủ nhật thứ ba của tháng 3 là ngày 15 (vì 8 + 7 = 15) + Chủ nhật thứ tư của tháng 3 là ngày 22 (vì 15 + 7 = 22) + Chủ nhật cuối cùng của tháng 3 là ngày 29 (vì 22 + 7 = 29) 7. Bài 7 (trang 155) Đoạn đường AB dài 2350m và đoạn đường CDdài 3km. Hai đoạn đường này có chung nhau một chiếc cầu từ C đến B dài 350m. Tính độ dài đoạn đường từ A đến D? AC 350m BD ////////////////// 2350m 3km - Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài: + Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? + Mối liên quan các số đo độ dài của bài. - Hướng dẫn học sinh cách giải: + Muốn tính độ dài đoạn đường AD thì ta phải biết độ dài đoạn đường AD bằng tổng độ dài những đoạn nào? + Muốn tính độ dài đoạn đường AC ta làm như thế nào? + Hoặc muốn tính độ dài đoạn đường BD ta làm như thế nào? Vậy bài toán có thể giải bằng mấy cách? - Cho học sinh trình bày bài giải: 17 Cách 1: Cách 2: Độ dài đoạn đường AC là: 3km = 3000m 2350 – 350 = 2000 (m) Độ dài đoạn đường BD là: 2000m = 2km 3000 – 350 = 2650 (m) Độ dài đoạn đường AD là: Độ dài đoạn đường AD là: 2 + 3 = 5 (km) 2350 + 2650 = 5000 (m) Đáp số: 5 km 5000m= 5km Đáp số: 5 km 8. Bài 4 (trang 159) Viết số thích hợp vào ô trống (theo mẫu) Tổng số tiền 80 000 đồng Số các tờ giấy bạc 10 000 đồng 20 000 đồng 50 000 đồng 1 1 1 90 000 đồng 100 000 đồng 70 000 đồng Hướng dẫn học sinh lựa chọn các tờ giấy bạc sao cho đúng bằng số tiền cần lấy. Ví dụ: 80 000 = 10 000 + 20 000 + 50 000 Vậy ta phải lấy mỗi loại 1 tờ 9. Bài 4 (trang 173) Bình có 2 tờ giấy bạc loại 2000 đồng. Bình mua bút chì hết 2700 đồng. Hỏi Bình còn lại bao nhiêu tiền? - Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài: + Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? + Mối liên quan các số liệu của bài. 18 - Hướng dẫn học sinh cách giải: + Muốn biết còn lại bao nhiêu tiền ta phải biết gì? + Muốn biết số tiền Bình có ta làm như thế nào? - Cho học sinh trình bày bài giải: Số tiền Bình có là: 2000 x 2 = 4000 (đồng) Số tiền Bình còn lại là: 4000 – 2700 = 1300 (đồng) Đáp số: 1300 đồng 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất