Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học l...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học lớp bốn

.DOC
19
200
82

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi xét cho cùng, công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân. Cho nên việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực của người học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Và để đáp ứng yêu cầu trên, hiện nay trong dạy học có nhiều phương pháp và hình thức dạy học đã được nhiều giáo viên áp dụng nhằm phát triển tư duy người học. Trong số đó, hình thức tổ chức học tập theo nhóm đã và đang được vận dụng một cách hiệu quả. Như chúng ta đã biết, trong học tập thì không phải bất cứ một nhiệm vụ học tập nào cũng có thể được hoàn thành do những hoạt động thuần tuý của cá nhân. Có những câu hỏi, bài tập, những vấn đề đặt ra khó và phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa cá nhân mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, bên cạnh hình thức học tập cá nhân, cần tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm. Hình thức thảo luận nhóm có nhiều thế mạnh như: - Góp phần rèn luyện tinh thần tự lực của học sinh; giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp; tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau; phát huy vai trò trách nhiệm, tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. - Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ, tin tưởng nhau trong học tập. - Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giúp các em học sinh nhút nhát, khả năng diễn đạt kém... có điều kiện rèn luyện, tập dượt, từ đó tự khẳng định bản thân. Tạo điều kiện để từng học sinh phát huy hết khả năng của mình, giúp cho việc phân hoá trong hoạt động dạy học được thuận lợi. Làm thế nào để giờ học thảo luận nhóm đạt hiệu quả, tránh hiện tượng hình thức, bản thân tôi đã suy nghĩ và đã thực hiện thành công qua đề tài : “Kinh nghiệm tổ chức hình thức hợp tác nhóm trong dạy học lớp Bốn” v Phạm vi nghiên cứu: Tổ chức hợp tác nhóm trong dạy học các môn học của chương trình lớp Bốn v Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4/4 (năm học 2010-2011) và lớp 4/5 (năm học 2011-2012) của trường Tiểu học Lâm Quang Thự, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. v Các phương pháp nghiên cứu: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy các môn học, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: +Tìm hiểu, khảo sát, thu thập các dữ liệu thực tiễn có liên quan. + Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu. v Thời gian thực hiện: - Bắt đầu từ tháng 9 và hoàn thành vào tháng 12 năm học 2012 - 2013 B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận: Trong cuộc sống xã hội, sự hợp tác có tính phổ biến, mang bản chất sinh học tự nhiên và diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người. Sự hợp tác diễn ra trong mọi gia đình, cộng đồng, trong mọi công việc. Thậm chí ngay trong lúc nghỉ ngơi khi các thành viên cùng hoạt động để đạt mục đích chung. Sự hợp tác diễn ra trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp luật, là nền tảng của các cuộc cách mạng và những tiến bộ xã hội. Đặc biệt, nó có vai trò quan trọng trong thời đại ngày nay khi sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện quốc tế về tất cả các mặt công nghệ, kinh tế, sinh thái và chính trị xuyên qua biên giới lãnh thổ gắn bó các quốc gia trong một thế giới chung. Các nghiên cứu cho thấy hợp tác quyết định sự thành bại của mỗi cá nhân trong xã hội. Từ kết quả của nghiên cứu này, hiện nay, giáo dục của nhiều nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thuỵ Điển, New Zealand... nhận thấy cần dạy cho học sinh biết cách hợp tác với nhau và dạy các kĩ năng hợp tác như dạy bất kì một kiến thức, kĩ năng môn học nào ngay từ khi học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường. Ở nước ta, điều này được thể hiện trong mục tiêu chương trình tiểu học năm 2000: "Giáo dục tinh thần hợp tác vì mục đích chung là một nội dung giáo dục cực kì quan trọng trong đào tạo con người". Học hợp tác nhóm là hình thức tổ chức học tập của học sinh theo nhóm nhỏ trên lớp, trong đó nhấn mạnh đến các kĩ năng hợp tác mang tính xã hội. II. Cơ sở thực tiễn: Qua dự giờ, thăm lớp đồng nghiệp, tôi nhận thấy những hạn chế trong dạy học theo nhóm ở một số lớp như sau: - Sử dụng dạy học theo nhóm tuỳ tiện, không có sự lựa chọn thích hợp. - Trong hoạt động nhóm chỉ có một số em tham gia, số còn lại không tham gia hoặc tham gia không tích cực: Hoạt động nhóm chỉ tập trung ở một số đối tượng khá giỏi còn một số học sinh khác thì lợi dụng hoạt động nhóm để chơi. - Các thành viên trong nhóm không lắng nghe ý kiến của nhau: có hiện tượng lấn át hoặc chấp nhận ý kiến của nhau một cách miễn cưỡng. Thường là những em giỏi áp đặt ý kiến của mình cho toàn nhóm. - Cả nhóm phụ thuộc vào một, hai người, để mặc người đó điều khiển. - Nhóm hoạt động tự do, không ai điều khiển. - Vai trò của các thành viên trong nhóm không thay đổi (chỉ một, hai người thường xuyên làm nhóm trưởng và thư ký) trong các buổi dạy học có sử dụng nhóm. - Cách phân chia thời gian của giáo viên cho hoạt động nhóm không thỏa đáng. - Giáo viên cho học sinh tiến hành thảo luận nhóm nhưng không quy định rõ thời gian thảo luận trong bao lâu vì vậy học sinh vẫn nhởn nhơ đùa khi đã nhận nhiệm vụ. - Việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm còn mang nặng tính hình thức, chiếu lệ. Nhiều giáo viên quan niệm và hiểu rằng muốn đổi mới phương pháp dạy học là bắt buộc phải sử dụng hình thức thảo luận nhóm... nên bất kỳ tiết dạy nào hoặc khi có giáo viên dự giờ, thăm lớp là sử dụng đến thảo luận nhóm mà chưa thực sự chú ý đến hiệu quả của nó mang lại như thế nào. - Nội dung vấn đề thảo luận giáo viên đưa ra chưa phù hợp với khả năng, chưa kích thích được hứng thú của học sinh. Nếu vấn đề thảo luận nhóm quá dễ, quá thấp sẽ làm học sinh chủ quan, không làm việc. Ngược lại, vấn đề đưa ra quá khó, quá cao thì học sinh không thể tranh luận để giải quyết được. Tất cả đều không mang lại hiệu quả cho thảo luận nhóm - Về phía học sinh, vì thảo luận theo nhóm nên giờ học ở lớp trở nên lộn xộn, ồn ào. Nguyên nhân là do giáo viên chưa hướng dẫn học sinh kĩ năng hợp tác, biết lắng nghe ý kiến của bạn chứ không phải tranh nhau mà nói. - Hiện nay, theo quan điểm chỉ đạo của Bộ sẽ đưa những học sinh khuyết tật nhẹ học hoà nhập với học sinh bình thường thì hình thức học nhóm là rất cần thiết đối với em vì bản thân các em có những hạn chế về mặt nhận thức so với bạn bè cùng trang lứa nên các em phải cần sự hỗ trợ từ phía bạn thông qua hình thức học theo nhóm. III. Các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm thông qua hình thức dạy hợp tác nhóm: Để học hợp tác nhóm đạt hiệu quả cần phải đảm bảo những yếu tố sau: 1. Các thành viên trong nhóm phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực. Trong hoạt động hợp tác nhóm, học sinh phải nhận thấy "cùng chìm hoặc cùng nổi" (nghĩa là thành công cùng hưởng, thất bại cùng chịu). Vì vậy các thành viên của nhóm phải gắn kết với nhau theo cách: mỗi cá nhân cũng như toàn nhóm chỉ có thể thành công nếu cố gắng hết sức mình. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu cả nhóm phải hoàn thành lắp cái đu (Bài: Lắp cái đu - Kĩ thuật 4). Nhóm trưởng sẽ phân công mỗi bạn hoàn thành một bộ phận. Nếu một bạn nào trong nhóm không hoàn thành thì chắc chắn sản phẩm lắp cái đu của cả nhóm sẽ không hoàn thành. Vì vậy trong học hợp tác nhóm, học sinh có hai trách nhiệm: - Thực hiện nhiệm vụ được giao. - Đảm bảo các thành viên trong nhóm mình cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao (Bạn nào xong trước thì cùng hỗ trợ cho bạn mình để nhiệm vụ của nhóm được hoàn thành). 2. Tạo môi trường hợp tác"mặt đối mặt"trong nhóm học sinh để nói cho nhau nghe. Học hợp tác nhóm đòi hỏi sự trao đổi qua lại tích cực giữa các học sinh độc lập trong nhóm. Điều đó được thực hiện khi các thành viên nhóm nhìn thấy nhau trong trao đổi. Tương tác mặt đối mặt, có tác động tích cực đối với học sinh như: Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao thiệp chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và đáp án giải quyết vấn đề, tăng cường các kĩ năng tỏ thái độ, biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức: lời nói, ánh mắt, cử chỉ, khích lệ mọi thành viên tham gia, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau. 3. Nâng cao trách nhiệm cá nhân: Nhóm hợp tác được tổ chức sao cho từng thành viên trong nhóm không thể trốn tránh công việc, hoặc trách nhiệm học tập. Mọi thành viên đều phải học, đóng góp phần mình vào công việc chung và thành công của nhóm. Mỗi thành viên thực hiện một vai trò nhất định. Các vai trò ấy được luân phiên thường xuyên trong các nội dung hoạt động khác nhau (Nhóm trưởng, thư kí, báo cáo viên ...). Mỗi thành viên đều hiểu rằng không thể dựa vào công việc của người khác. 4. Sử dụng kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội. Học sinh phải thể hiện được các kĩ năng làm việc trong nhóm nhỏ. Đó là các kĩ năng: + Kĩ năng hình thành nhóm như: tham gia ngay vào hoạt động nhóm, không rời khỏi nhóm. + Kĩ năng giao tiếp như: biết chờ đợi đến lượt, tóm tắt và xử lí thông điệp. + Kĩ năng xây dựng niềm tin như bày tỏ sự ủng hộ qua ánh mắt, nụ cười, yêu cầu giải thích, giúp đỡ và sẵn sàng giải thích giúp bạn. + Kĩ năng giải quyết mối bất đồng như: kìm chế bực tức, không làm xúc phạm khi phản đối... 5. Rút kinh nghiệm tương tác nhóm: Sau mỗi hoạt động hợp tác, học sinh phải đánh giá quá trình hoạt động của mỗi thành viên nhóm như những mặt tốt trong hoạt động chung và những đóng góp cá nhân nổi bật cần được phát huy, những mặt cần thay đổi, cải thiện để hoạt động của nhóm có hiệu quả hơn. Điều này, giúp học sinh học được kĩ năng hợp tác với người khác một cách có hiệu quả. Tóm lại, dạy học theo phương thức hợp tác nhóm là giáo viên tổ chức cho học sinh đối diện nhau trong nhóm học tập cùng trao đổi, chia sẻ, tìm tòi những kinh nghiệm, những kiến thức hay giải quyết nhiệm vụ học tập được giao. Trong khi đó, giáo viên bao quát, theo dõi hoạt động của học sinh và sẵn sàng làm cố vấn, trọng tài hay hỗ trợ các nhóm khi cần thiết. Để thực hiện dạy học hợp tác nhóm trong bài học cụ thể, tôi đã tiến hành như sau: 1) Xác định các kĩ năng hợp tác và nội dung hoạt động nhóm. Có hai loại mục tiêu tôi cần xác định rõ trước khi dạy một bài. Một là, mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ được xác định ở mức độ phù hợp với học sinh và phù hợp với yêu cầu chung của bài học. Hai là, mục tiêu về kĩ năng hợp tác của học sinh với nhau: được thể hiện bằng các kĩ năng hợp tác cụ thể, yêu cầu học sinh qua bài học. Căn cứ vào khả năng hợp tác nhóm của học sinh tôi xác định các kĩ năng cần rèn cho các em. Trong một bài học, tuỳ theo nội dung môn học, tôi xác định nội dung vấn đề cho hoạt động hợp tác nhóm. Vấn đề tôi đưa ra cho học sinh hoạt động học hợp tác nhóm luôn đảm bảo: Nội dung vấn đề phải có độ khó, phức tạp nhất định sao cho nhóm học sinh phải cùng hợp tác với nhau mới có thể giải quyết được. Nội dung vấn đề cho hoạt động nhóm, chỉ có thể giải quyết được khi các thành viên nhóm phải vận dụng những kinh nghiệm của bản thân. Nội dung vấn đề trong hoạt động nhóm cho học sinh giải quyết tôi đều dành thời gian hợp lí để học sinh thảo luận. Các vấn đề đưa ra cho học hợp tác nhóm được tôi biên soạn trong phiếu học tập hoặc viết bảng phụ. Các phiếu được biên soạn đơn giản, rõ mục đích, có tính trực quan cao, không rườm rà, gây khó hiểu, mất thời gian. Ví dụ: Lịch sử lớp 4: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4: Lập bảng so sánh tình hình đất nước trước và sau khi được thống nhất theo mẫu: Thời gian Trước khi thống nhất Các mặt Đất - Triều Sau khi thống nhất nước đình - Đời sống của nhân dân Khi giao nhiệm vụ thảo luận. Tôi có thể tiến hành bằng nhiều hình thức: Tôi có thể nêu miệng câu hỏi hoặc ghi câu hỏi ở bảng phụ hoặc giao nhiệm vụ thông qua phiếu thảo luận. Đối với những câu hỏi ngắn, tôi thường nêu miệng câu hỏi hoặc ghi ở bảng phụ. Làm như vậy vừa tiết kiệm thời gian. Còn đối với các câu hỏi dài hoặc các bảng biểu yêu cầu điền số, chữ thì tôi sử dụng phiếu. Đặc biệt nếu nội dung thảo luận là các kiến thức chốt lại của bài (như thảo luận rút ra nội dung, ý nghĩa bài Tập đọc, rút ra bài học Đạo đức ...) thì nhất thiết phải dùng phiếu. Vì các kiến thức chốt lại là các kiến thức yêu cầu ghi nhớ nên nếu dùng phiếu thảo luận thì khi ghi kết quả thảo luận vào phiếu các em sẽ ghi nhớ lâu. 2) Thành lập nhóm học hợp tác : * Xác định số lượng học sinh trong nhóm: Sau khi các mục tiêu của bài học được xác định rõ. Tôi quyết định số lượng học sinh mỗi nhóm. Số lượng học sinh trong nhóm phụ thuộc vào nội dung bài học cũng như các tư liệu đồ dùng. Đối với những câu hỏi dễ, tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi (mỗi nhóm 2 học sinh), câu hỏi khó tôi cho học sinh thảo luận nhóm lớn (mỗi nhóm 4 - 5 học sinh) * Lựa chọn các thành viên vào nhóm : Tôi sắp xếp các thành viên vào một nhóm, sao cho các thành viên nhóm càng đa dạng càng tốt. Nhóm hoạt động có hiệu quả là nhóm gồm các thành viên có năng lực đa dạng: khả năng nhận thức cao, trung bình và thấp, đa dạng về thành phần xuất thân, điều kiện kinh tế, môi trường sống ... Với nhóm như vậy, mỗi một vấn đề cần giải quyết sẽ chứa đựng sự cân nhắc, toàn diện hơn. * Xác định thời gian duy trì nhóm : Cần duy trì hoạt động nhóm đến thời điểm đủ độ ổn định và có thể thành công. Khi các nhóm cũ có vấn đề và hoạt động kém hiệu quả tôi giải tán nhóm và thành lập nhóm mới. Nếu không lập nhóm mới học sinh sẽ không học được các kĩ năng cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, trong quá trình hợp tác với bè bạn. Việc học sinh lần lượt được hoạt động cùng nhóm với tất cả các bạn trong lớp, sau một học kì hay năm học, là điều hết sức có ý nghĩa. Nó giúp cho việc xây dựng trong các em cảm nhận tích cực và lành mạnh về sự hợp tác, mang lại cho các em nhiều cơ hội để thực hành các kĩ năng cần thiết cho việc hoạt động trong các nhóm mới. Học sinh có cơ hội giao tiếp với nhiều nét tính cách riêng, khác nhau ... Điều đó, làm tăng ý nghĩa giao lưu, giao tiếp, mở rộng và nâng cao kiến thức năm học. Tránh việc đánh giá thấp sức mạnh của các nhóm học tập đa dạng trong việc nâng cao chất lượng học tập, sự phong phú và tính tích cực tham gia của mọi thành viên. Không nên để nhóm "quá hiểu" nhau, dễ sinh ra tình trạng trì tệ, thiếu năng động, dựa dẫm vào nhau. * Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm Các thành viên trong nhóm cần có nhiệm vụ, vai trò rõ ràng. Sau mỗi hoạt động nhóm, các thành viên cần thay đổi vai trò cho nhau, tránh tình trạng mỗi thành viên chỉ đóng một vai trò trong thời gian quá lâu. Vai trò của các thành viên trong một nhóm bao gồm: * Điều khiển nhóm hay còn gọi là nhóm trưởng, có nhiệm vụ hướng dẫn các thành viên tham gia vào hoạt động, giải thích rõ nhiệm vụ hoạt động của nhóm, tóm tắt, kiểm tra sự hiểu biết vấn đề trao đổi, thống nhất ý kiến của nhóm, xây dựng bầu không khí ấm áp, giải quyết các "mâu thuẫn" trong quá trình hoạt động nhóm. Với vai trò này học sinh cần có nhiều năng lực hơn, đặc biệt là năng lực quản lí, giám sát và hướng dẫn bạn. * Thư kí ghi chép mọi ý kiến, biên tập, tóm tắt các ý kiến. * Báo cáo viên thay mặt nhóm báo cáo kết quả hoạt động của nhóm. * Khuyến khích động viên mọi thành viên tham gia, nhắc nhở những thành viên "lắm lời" trong nhóm, bảo đảm trong quá trình trao đổi mọi thành viên phải có quyền và nghĩa vụ đóng góp vào bài học. * Theo dõi thời gian: theo dõi và thông báo thời gian cho hoạt động nhóm. Các thành viên trong nhóm phân phối thời gian thích hợp cho từng vấn đề, tránh hiện tượng "cháy thời gian". 3) Tổ chức hoạt động nhóm : Tôi bố trí các thành viên trong nhóm học tập ngồi gần nhau sao cho các em có thể dễ dàng chia sẻ tài liệu học tập, duy trì được sự liên hệ với nhau bằng ánh mắt và trao đổi nhỏ, đủ nghe trong nhóm mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các nhóm khác. Mỗi nhóm được sắp xếp ngồi ở 2 bàn, khi có lệnh hoạt động, bàn trên quay xuống bàn dưới rất nhanh tránh lãng phí thời gian. Tôi giải thích để học sinh hiểu rõ về nhiệm vụ học tập cũng như các kĩ năng hợp tác trong quá trình học nhóm: Giao nhiệm vụ sao cho học sinh rõ việc mình phải làm. Khi giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, ngôn từ của giáo viên phải rõ ràng, mạch lạc để đảm bảo cho học sinh hiểu rõ tránh thất bại trong hoạt động giải quyết nhiệm vụ. Hỏi những câu hỏi phụ để kiểm tra xem học sinh đã hiểu nhiệm vụ được giao chưa. Những câu hỏi phụ đảm bảo cho sự trao đổi hai chiều, đảm bảo việc giao nhiệm vụ thực hiện một cách có hiệu qủa và đảm bảo học sinh sẵn sàng bắt tay vào hoàn thành nhiệm vụ đó. (VD: Các em đã hiểu nhiệm vụ cô giao chưa? Các em có thắc mắc gì trong nội dung câu hỏi thảo luận không ?) 4) Theo dõi, can thiệp và điều chỉnh tiến trình hợp tác nhóm: Trong quá trình theo dõi hoạt động của các nhóm, tôi đưa ra những gợi ý, nhắc lại những biện pháp và cách thức để hoàn thành công việc được giao, giải đáp các thắc mắc và dạy các kĩ năng thực hiện nhiệm vụ khi cần thiết. Đối với những nhóm chưa thực hiện nhiệm vụ được giao một cách tích cực tôi đến gần và cùng tham gia, làm mẫu cho học sinh. Khi học sinh gặp khó khăn, tôi đưa ra những gợi ý cần thiết như liên hệ những kiến thức đang trao đổi với những kiến thức học sinh đã được học, tạo ra mối quan hệ giữa kiến thức mới và những kiến thức học sinh đã biết, đã trải nghiệm. Ví dụ: Toán lớp 4: So sánh hai phân số khác mẫu số Phần tìm hiểu bài: So sánh hai phân số và Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4 để tìm cách so sánh hai phân số và . Đối với các nhóm chưa tìm ra cách so sánh hai phân số này, giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở để học sinh liên hệ với kiến thức của bài cũ: "Em đã học cách so sánh hai phân số cùng mẫu số. Như vậy để so sánh được hai phân số khác mẫu số là phân số mẫu số hai phân số và và trước tiên em phải làm gì?" (Quy đồng để đưa về hai phân số có cùng mẫu số rồi so sánh). 5) Nhận xét tương tác nhóm: Tôi tiến hành nhận xét ngay sau khi hoạt động hợp tác kết thúc hoặc vào cuối mỗi tiết học. Mục đích của nhận xét nhóm là để học sinh có ý thức thực hiện những yêu cầu về kĩ năng hợp tác. Nội dung nhận xét sẽ tập trung vào việc thực hiện những nhiệm vụ về hợp tác diễn ra như thế nào? Học sinh nào đã thực hiện tốt, những gì có thể thay đổi để hoạt động hợp tác ngày càng được tốt hơn ? Dần dần, tôi hướng dẫn học sinh tự nhận xét nhóm mình, các nhóm khác nhận xét nhóm bạn, tôi đóng vai trò tập hợp, khái quát, bổ sung những nhận xét của từng nhóm. Để học sinh hiểu, biết được vai trò và trách nhiệm của mình, tôi lấy ví dụ một nội dung thảo luận và làm mẫu. Mục đích của tôi là qua làm mẫu học sinh hiểu được cách thức thảo luận và biết được vai trò của mình trong nhóm (việc làm này tôi làm khi nhận một lớp mới). Tôi sẽ đóng vai trò là nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ điều khiển các bạn trong nhóm. Ví dụ: Thảo luận nhóm 4: Nêu các biểu hiện thể hiện phép lịch sự khi giao tiếp. * Nhóm trưởng: Bạn A sẽ là thư ký, bạn B là báo cáo viên, bạn C theo dõi thời gian. - Theo tôi phép lịch sự khi giao tiếp thể hiện ở: Nói năng nhẹ nhàng, nhã nhặn, không nói tục, chửi bậy. * Nhóm trưởng: Theo bạn A thì như thế nào ? * Bạn A: Theo mình thì phải biết lắng nghe khi người khác đang nói. * Nhóm trưởng: Theo bạn B? * Bạn B: Cảm ơn khi được giúp đỡ; Xin lỗi khi làm phiền người khác. * Nhóm trưởng : Theo bạn C thì sao? * Bạn C: Theo mình thì biết dùng những lời yêu cầu, đề nghị khi muốn nhờ người khác giúp đỡ. * Nhóm trưởng : Bạn D có ý kiến gì không ? * Bạn D : Gõ cửa, bấm chuông khi muốn vào nhà người khác; Ăn uống từ tốn, không rơi vãi, không vừa nhai vừa nói. * Nhóm trưởng : Mời bạn A (thư kí) nêu lại ý kiến của các bạn trong nhóm. * Bạn A : Phép lịch sự khi giao tiếp thể hiện ở ... * Nhóm trưởng : Các bạn có thống nhất với ý kiến của bạn trong nhóm không ? ® (Nhóm trưởng thống nhất ý kiến của các thành viên trong nhóm và đưa ra kết luận cuối cùng của nhóm). Sau khi báo cáo viên của nhóm trình bày, các nhóm khác có thể đặt câu hỏi chất vấn thì cả nhóm cùng hỗ trợ bạn báo cáo để trả lời các câu hỏi. Sau thời gian thực hiện hình thức hợp tác nhóm trong giảng dạy, tôi đã thu nhận được những kết quả khả quan. * Về phía giáo viên: - Hiệu quả tiết dạy được nâng cao. - Tiết dạy sinh động, giáo viên rèn được kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội cho học sinh. * Về phía học sinh: - Học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình. Phát huy cao vai trò của từng thành viên trong nhóm, đề cao năng lực cá nhân bởi vì các em đã được đảm trách nhiều vai trò khác nhau trong nhóm của mình. - Tăng cường sự hợp tác. Đây cũng là một kĩ năng sống mà học sinh cần có trong cuộc sống sau này. - Rèn được sự tự tin, mạnh dạn trước đám đông, khả năng diễn đạt lưu loát hơn. Sau khi áp dụng hình thức này trong công tác giảng dạy qua hai năm học: Năm học 2010-2011 và năm học 2011-2012, với tính hiệu quả của biện pháp nêu trên, cộng với sự quan tâm và nỗ lực của bản thân, sự tự giác hợp tác học tập của học sinh, các em đã có những tiến bộ rõ rệt. Động cơ học tập và chất lượng học tập của các em yếu cũng được nâng lên, các em đã tự tin, hòa đồng, bớt mặc cảm, tự ti trong học tập. Kết quả được thể hiện bằng bảng thống kê số liệu chất lượng về học lực hai năm học: Năm học 2010-2011 và năm học 2011-2012 như sau: * Kết quả xếp loại học lực lớp 4/4 năm học 2010-2011: Thời Giỏi TSHS Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 20 6 30% 5 25% 6 30% 3 15% 20 9 45% 8 40% 2 10% 1 5% điểm Cuối HKI Cuối năm * Kết quả xếp loại học lực lớp 4/5 năm học 2011-2012: Thời Giỏi TSHS Khá Trung bình Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 22 6 27,3% 6 27,3% 6 31,8% 3 13,6% 22 9 40,9% 8 36,4% 4 18,2% 1 4,5% điểm Cuối HKI Cuối năm C. KẾT LUẬN Tổ chức dạy học nhóm là một hình thức dạy học với nhiều tính ưu việt. Đó là một trong những hình thức thực hiện tốt việc dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này, học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Dạy học theo nhóm đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm và thiết kế được các hoạt động giúp các em lĩnh hội, khám phá kiến thức mới một cách tốt nhất, phát huy tác dụng tích cực trong việc giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện được các kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Như vậy, việc tổ chức hoạt động nhóm thành công hay không là phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó một phần lớn quyết định là vấn đề nhận thức, năng lực và nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Tôi thiết nghĩ người giáo viên "Đổi mới phương pháp dạy học" thành công là biết tự điều chỉnh cách thức sử dụng phương pháp, hình thức dạy học của mình sao cho thật phù hợp phát huy hết khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. Điều quan trọng khi tổ chức học hợp tác nhóm , giáo viên cần chú ý : - Nhiệm vụ cần giao cho học sinh phải rõ ràng, xác định rõ thời gian thảo luận cho học sinh biết. - Trong khi học sinh làm việc, giáo viên phải theo dõi, điều chỉnh kịp thời khi nhóm chưa hiểu rõ vấn đề. - Chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm. - Tạo thói quen hoạt động nhóm cho từng học sinh và học sinh phải biết được vai trò của mình đối với nhóm. Với cách làm như vậy lớp học sẽ trở nên sinh động, mọi học sinh đều có thể hoạt động một cách tích cực, tự giác theo sự tổ chức điều khiển của giáo viên. Trong quá trình thực hiện đề tài này, chắc chắn không tránh khỏi sai sót , rất mong quý cấp, các bạn đồng nghiệp góp ý bổ sung để đề tài sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn. Hòa Phong, tháng 12 năm 2012 Người viết Mạc Thị Thùy Nhân PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí thế giới trong ta. 2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tiểu học chu kỳ III (2003 2007) MỤC LỤC Trang A.Phần mở đầu........................................................................................... 1 B.Nội dung đề tài........................................................................................ 3 I. Cơ sở lý luận........................................................................................ 3 II. Cơ sở thực tiễn................................................................................... 3 III.Các biện để nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm thông qua hình thức dạy hợp tác nhóm................................................................. 4 C. Kết luận.................................................................................................. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan