Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiêm chính tả lớp 4...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiêm chính tả lớp 4

.DOC
24
508
137

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ Môn học Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ quan trọng vào bậc nhất là trau dồi ngôn ngữ cho học sinh, trang bị cho học sinh những tri thức Việt ngữ học và quy tắc sử dụng chúng trong hoạt động giao tiếp. Trong các phân môn của bộ môn Tiếng Việt, chính tả là một trong những phân môn có vai trò quan trọng, bởi đây là phân môn hình thành, rèn luyện và phát triển kỹ năng viết. Rèn chữ viết chính tả cung cấp cho học sinh biết quy tắc chính tả và thói quen viết chữ ghi âm Tiếng Việt đúng và chuẩn. Nắm vững chính tả học sinh mới có thể nói được, viết được, nói hay, viết hay… góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, thứ của cải vô cùng quý báu của dân tộc ta. Sự thống nhất chính tả thể hiện tính thống nhất của một ngôn ngữ. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị trở ngại giữa các địa phương, cũng như giữa các thế hệ với nhau. Mục tiêu đầu tiên của giáo dục tiểu học là rèn luyện cho học sinh kỹ năng “đọc thông, viết thạo”. Giải quyết lỗi chính tả trong nhà trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục đề ra. Đối với học sinh bậc tiểu học việc rèn để các em viết đúng, viết chuẩn là vấn đề vô cùng cần thiết. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 4, lớp gần cuối của bậc tiểu học, số lượng môn học nhiều hơn vì lẽ đó các em chỉ tập trung vào viết đủ chữ nên việc sai lỗi chính tả khi viết và trình bày bài chưa khoa học là khá phổ biến. Qua nhiều năm giảng dạy tại trường tôi thấy nhiều học sinh khi viết chính tả chỉ chú ý nghe giáo viên phát âm để viết đúng chữ, chứ chưa coi trọng nghĩa của từ, hoặc các em viết theo cách đọc của phát âm tiếng mẹ đẻ, do đó các em chỉ nghe để viết đủ, đúng chữ ở tất cả các môn học nhưng thực sự các em viết còn mắc lỗi chính tả khá nhiều. Vì lẽ đó dạy chính tả trong trường tiểu học có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển trí thông minh, khả năng tư duy (vì phải sử dụng các thao tác như phân tích, so sánh đối chiếu, khái quát hoá và trừu tượng hoá để rút ra quy tắc chính tả) và khả năng ghi nhớ máy móc cho các em. Góp phần giáo dục ý chí và đức tính tốt như tính kỉ luật, tính cẩn thận, cần cù, nhẫn nại, óc thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, cách biểu thị tình cảm tốt đẹp khi giao tiếp. Xuất phát từ những lí do trên và qua thực nghiệm thực tế đối với 28 học sinh của lớp 4 trường tiểu học Long Tân 2 năm học 2013-2014 do tôi chủ nhiệm. Tôi mạnh dạn tìm hiểu tiếp và đưa ra “ Một số biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4” trong năm học 2013- 2014. Vì có viết đúng chính tả học sinh mới có điều kiện để học tốt các môn học khác và cũng là tiền đề để các em bước vào lớp học cuối cấp của bậc Tiểu học. II. Nhiệm vụ: Tìm và đưa ra một số biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4 góp phần trang bị cho những cơ sở lí luận, vào việc hoàn thiện nội dung và phương pháp dạy chính tả ở bậc tiểu học nói chung, dạy chính tả lớp 4 nói riêng: 1. Tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi để xác định nội dung dạy học chính tả. 2. Phân tích thực trạng lỗi chính tả về âm, vần, dấu thanh. 3. Bổ sung nguyên tắc chính tả cho học sinh. 1 4. Xây dựng bài tập khắc phục lỗi chính tả cho học sinh. 5. Giáo viên phải gương mẫu về chữ viết và phát huy tính tích cực của học sinh khi chấm, chữa bài viết cũng như bài tập chính tả. III. Đối tượng nghiên cứu. Giáo viên lớp 4. Học sinh lớp 4. Lớp 4 : 28 học sinh, do tôi Nguyễn Văn Hơn chủ nhiệm. Các em học sinh lớp 4 do tôi thực nghiệm hầu hết các em đều ngoan ngoãn biết vâng lời thầy, cô giáo, vâng lời cha mẹ, đoàn kết với bạn bè, biết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tổng số học sinh lớp 4 là: 28 học sinh. Trong đó: Học sinh nam : 22 em Học sinh nữ : 6 em Dân tộc Kinh : 28 Khuyết tật ngôn ngữ : 0 em. B. NỘI DUNG. CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÍ LUẬN. Tiếng Việt là ngôn ngữ chung thống nhất trên toàn đất nước Việt Nam, nhưng mỗi vùng đều có sự khác biệt nhiều cách phát âm của từng địa phương khác nhau.Những cách phát âm đó làm cho Tiếng Việt thêm giàu đẹp, phong phú. Cho nên khi đối thoại người ở các vùng miền trên đất nước ta đều nghe và hiểu được. Nhưng mặt khác của sự khác biệt về phát âm giữa các địa phương lại dẫn đến tình trạng viết sai chính tả do phát âm. Trong cuộc sống của con người, cụ thể là người Việt Nam không chỉ giao tiếp bằng ngôn ngữ nói mà còn giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Như trong lĩnh vực học tập nghiên cứu tài liệu cũng như việc giao tiếp giữa những người ở xa nhau, hoặc giữa các thế hệ đời trước với đời sau. Tiếng Việt là công cụ để giao tiếp tư duy và học tập, trong thực tế cuộc sống của con người, người ta vẫn thường có câu: “Văn hay không bằng chữ tốt”. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết là làm sao phải đảm bảo được người đọc hiểu đúng hoàn toàn ý nghĩa, nội dung trong văn bản của người viết. Viết đúng chính tả là giúp cho học sinh có điều kiện sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các môn học khác trong nhà trường. Để đạt được yêu cầu này trên lĩnh vực chữ viết phải được thể hiện một cách thống nhất trên từng con chữ, từng âm tiết Tiếng Việt. Nói một cách khác là mỗi âm vị sẽ được thể hiện bằng một hay một tổ hợp chữ cái đồng thời mỗi từ cũng có một cách viết nhất định, thống nhất trong cộng đồng người Việt. Về cơ bản chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, mỗi âm vị được ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết chính tả Tiếng Việt là thống nhất với nhau. Đọc như thế nào sẽ viết như thế ấy. Trong giờ chính tả, học sinh sẽ xác định được cách viết đúng ( viết đúng chính tả) bằng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói( hình thức chính tả nghe- viết). Cơ chế của cách viết đúng là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết. Giữa đọc và viết, giữa tập đọc và viết chính tả ( chính 2 tả nghe – viết: tức là nghe đọc để viết lại ) có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng lại có quy trình hoạt động trái ngược nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hoá văn bản dưới dạng âm thanh thành văn bản viết. Có như vậy, khi giao tiếp bằng ngôn ngữ, người đọc mới hiểu đúng hoàn toàn nội dung, ý nghĩa mà người viết gửi gắm, việc viết đúng thống nhất như thế còn gọi bằng thuật ngữ quen thuộc là: chính tả. Bởi theo nghĩa gốc thì “chính tả” tức là “ phép viết đúng” hay “ lối viết hợp với chuẩn”. Qua các bài viết chính tả rèn luyện cho học sinh “ có tính kỉ luật, tính cẩn thận và óc thẩm mĩ”.Đồng thời bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý Tiếng Việt, chữ viết, cách biểu thị tình cảm được thể hiện trong việc viết đúng chính tả. Xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của việc viết đúng chính tả như thế nên phân môn chính tả đã được đưa vào chương trình giảng dạy của trường phổ thông. Cụ thể ở đây là các lớp bậc tiểu học, phân môn chính tả đã được giảng dạy ở tất cả các lớp trong bậc học tiểu học (trừ học kì I của chương trình lớp 1 là chưa dạy) với nhiều hình thức chính tả khác nhau: Từ chính tả nhìn bảng, nhìn sách để chép (ở cuối lớp 1 và đầu lớp 2) rồi đến chính tả so sánh, chính tả nghe- viết, chính tả nhớ-viết. Với những hình thức chính tả này giúp học sinh có thể hiểu về quy tắc chính tả để viết đúng chính tả. Tuy việc viết đúng chính tả là quan trọng và cần thiết như vậy nhưng thực tế việc dạy và học và học chính tả ở tất cả các lớp trong bậc học tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 trường tiểu học Chiềng Khừa nói riêng vẫn còn mắc nhiều lỗi khi viết chính tả. Đây là nhiệm vụ của người học sinh cần phải rèn luyện chữ viết sao cho đúng “chính tả” và cũng là trách nhiệm đặc biệt quan trọng của tập thể giáo viên trường tiểu học Chiềng Khừa nói chung và cá nhân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 4, trách nhiệm đó đặc biệt cần chú trọng hơn. CHƯƠNG II. NHỮNG THỰC TRẠNG. Trong thực tế giảng dạy chương trình môn Tiếng Việt, phân môn chính tả có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh các quy tắc viết đúng và rèn luyện để các em có kĩ năng, thói quen viết đúng chính tả, rèn luyện để các em có kỹ năng viết đúng quy trình con chữ, rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất: Tính kỷ luật, tính cẩn thận (vì phải viết thẳng hàng, ngay ngắn, đẹp đẽ). Đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt. Do xác định được vai trò và tầm qan trọng của việc rèn chữ viết cho học sinh tiểu học, tôi đã tìm hiểu vấn đề này. Trước hết nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho các em. Viết đúng chính tả cho học sinh dân tộc nói chung và học sinh lớp 4 trường tiểu học Chiềng Khừa nói riêng. Đồng thời cũng góp phần đúc rút kinh nghiệm và làm phong phú thêm một số biện pháp chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường. Rèn cho học sinh có kỹ năng: đọc, nghe, nói, viết thành thạo. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4 trường Tiểu học Chiêng Khừa- Huyện Mộc Châu”. Qua thực tế thực nghiệm đề tài “ Một số biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 3 trường tiểu học Chiềng Khừa”, đối với học sinh lớp 3A năm học 2010 – 2011 do tôi chủ nhiệm, năm học : 2010-2011, qua một năm học vận dụng vào giảng dạy và rèn chữ viết cho các em kết quả được nâng lên rõ rệt. Cụ thể: Qua khảo sát đầu năm học 2010-2011, chất lượng chữ viết chính tả của học sinh lớp 3A . 3 Tổng số học sinh lớp 3A : 14 em. Tổng số bài kiểm tra đầu năm học là : 14 bài. Trong đó: 8 /14 bài5 / 14 bàiĐiểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu 1 / 14 bài 0 / 14 bài Đến cuối năm học 2010-2011, kết quả kiểm tra như sau: Tổng số bài kiểm tra : 14 bài. Trong đó: Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu 1 / 14 bài 3 /14 bài 9 / 14 bài 1 / 14 bài Mặc dù kết quả thực nghiệm năm học 2010-2011 nâng lên đáng kể, xong đó là một phần rất ít trong số học sinh của trường. Vì lẽ đó năm học 2011-2012, tôi tiếp tục tìm hiểu và thấy được việc viết chính tả của học sinh còn hạn chế rất nhiều. Nhiều học sinh đọc còn rất chậm, do đó ảnh hưởng rất lớn đến việc nghe – viết chính tả. Bên cạnh đó còn nhiều em chữ viết cẩu thả, nhầm lẫn giữa những phụ âm đầu đọc gần giống nhau, do đọc ngọng dẫn đến viết sai, do chưa cẩn thận, cẩu thả nên chữ viết xấu, trình bày chưa khoa học, viết chưa đúng mẫu chữ (Học sinh dân tộc Thái viết sai phụ âm đầu b/v; thanh sắc, thanh ngã. Các em dân tộc H’mông viết sai vần). Từ đó, tôi tiếp tục áp dụng vào để giảng dạy cho học sinh lớp 4 trong năm học 2011 – 2012 này. Đầu năm học 2011-2012. Qua khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh lớp 4A, cụ thể là: Tổng số bài được khảo sát là: 19 bài.Trong đó: Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu 1/ 19 bài 2 / 19 bài 10 / 19 bài 6 / 19 bài Qua kết quả khảo sát cho thấy chất lượng viết chính tả còn rất nhiều hạn chế, điểm yếu còn quá nhiều, số lượng bài đạt điểm khá, giỏi thì quá ít. Nếu không có biện pháp giảng dạy để rèn luyện chữ viết cho học sinh thì sẽ rất khó khăn cho các em học các môn học khác cũng như học lên lớp 4 cũng như các cấp học sau. CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY PHÂN MÔN CHÍNH TẢ LỚP 4. Việc tìm và đưa ra các biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 5, là vấn đề mà mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm giúp đỡ các em. Muốn vậy chúng ta những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bậc học tiểu học phải có cách làm khoa học, cụ thể phải 4 nghiên cứu các phương pháp dạy học, có nhiều phương pháp và cách nghiên cứu. Tôi nghiên cứu theo các bước sau: 1. Khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh. 2. Phát hiện lỗi sai mà các em mắc phải. 3. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh viết chưa đúng chính tả. 4. Đưa ra một số biện pháp rèn viết chính tả và trực tiếp vận dụng các phương pháp đó trong quá trình giảng dạy phân môn chính tả. Trong thời gian thực nghiệm tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để khắc phục những lỗi chính tả mà các em thường mắc và rèn cho các em viết đúng chính tả. BIỆN PHÁP THỨ NHẤT: TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN MẮC LỖI ĐỂ XÁC ĐỊNH NỘI DUNG DẠYHỌC CHÍNH TẢ. 1. Nguyên nhân khách quan. Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Tiếng Việt tuy là một ngôn ngữ thống nhất trong cả nước nhưng có nhiều phương ngữ khác nhau. Phương ngữ làm cho Tiếng Việt thêm giàu đẹp, phong phú nhưng mặt khác ở mỗi địa phương, dân tộc nào thì dân tộc ấy có những thói quen, cách phát âm riêng, mà cách phát âm đó lại lệch chuẩn. Tình trạng này ảnh hưởng đến tính thống nhất của ngôn ngữ và gây nhiều khó khăn trong việc dạy học chính tả. Do ảnh hưởng của phương ngữ là rất lớn đối với việc phát âm, nói và viết chính tả. Các em phát âm sai dẫn đến việc viết cũng sai. Các em học sinh hằng ngày ngoài giờ học trên lớp thì lượng thời gian các em được tiếp xúc với Thầy, cô giáo, bạn bè, được giao tiếp và trau dồi vốn Tiếng Việt, chữ viết là rất ít. Khi về nhà các em lại tiếp xúc với ngôn ngữ địa phương( cụ thể ở đây là tiếng Thái) của mhững người thân trong gia đình, cộng đồng, địa phương nơi các em học sinh sinh sống.Mà ngôn ngữ địa phương( tiếng dân tộc Thái) như chúng ta đã biết thường hay lẫn lộn và sai chính tả. Bên cạnh đó hầu hết gia đình các em đều làm nông nghiệp nên ngoài giờ học trên lớp về đến nhà các em còn phải giành thời gian giúp đỡ gia đình, các em không có điều kiện tiếp xúc với bạn bè, Thầy, cô giáo, …, cũng như thời gian học thêm ở nhà hay đọc sách, báo,… Không có thời gian để luyện viết, đọc theo yêu cầu, hướng dẫn của giáo viên. 2. Nguyên nhân chủ quan. Hầu hết học sinh là con em dân tộc Thái. Các em tiếp xúc với xã hội còn rất ít, nói tiếng phổ thông chưa thành thạo khi đọc bài còn sai. Vì vậy việc tái hiện con chữ khi giáo viên đọc để viết lại còn rất chậm và không chính xác. Đặc biệt các em còn nhầm lẫn giữa các âm: Nh/ D hay Gi; T/ Th; L/Đ; V/B. Một số em không phân biệt được các phụ âm đầu mà khi đọc các phụ âm đó gần giống nhau. Ví dụ: Ch/ Tr; X/ S; D/ R hay Gi; T/ Th; Ng/ Ngh; K/ C hay Q. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều em thường viết chưa đúng phần vần khi viết còn nhầm lẫn. Ví dụ:Ai/ Ay; Iu/ Ưu; Anh/ Ach; Ênh/ Êch; Inh/ Ich; Iên/ Uyên; Ươn/ Ương;…Từ việc không xác định được và còn nhầm lẫn giữa các phụ âm đầu và phần vần,do đó dẫn đến học sinh viết sai thường xuyên. 5 Nhiều giáo viên trong quá trình dạy chỉ căn cứ vào sách giáo viên, sách học sinh mà thực hiện việc dạy chính tả chứ chưa thực hiện việc dạy chính tả theo khu vực, theo hiểu nghĩa của từ để viết đúng chính tả mọi lúc, mọi nơi. Nếu như không thống kê những lỗi phổ biến của đối tượng học sinh lớp mình phụ trách, của địa phương nơi học sinh sinh sống, chưa vận dụng sáng tạo từ những bài tập ngoài sách học sinh để bài dạy thêm phong phú, đa dạng, tần số chính tả xuất hiện nhiều và phù hợp với đối tượng lớp mình phụ trách. Đặc biệt một số giáo viên chỉ chú ý phát âm đúng trong giờ chính tả. Như vậy ở các môn học khác giáo viên phát âm bình thường không chuẩn, do đó học sinh cũng không chú ý viết cẩn thận. Không sửa lỗi cho học sinh, cho nên học sinh cẩu thả khi viết. Một phần là do các em chưa chịu khó học, ý thức học tập chưa cao, nhất là luyện đọc, nói Tiếng Việt và luyện viết ở nhà. Khi đến lớp trong giờ chính tả cũng như các tiết học khác các em viết còn ẩu, nhanh chưa chính xác.Mặc dù thời gian viết chính tả trên lớp là thời gian luyện viết tốt nhất với các em. Muốn viết đúng chính tả cũng như muốn áp dụng các thuật nhớ, các mẹo chính tả, phải hướng cho học sinh biết nhận dạng và nắm chắc đơn vị trung tâm của chính tả Tiếng Việt là ( tiếng) hay( âm tiết) và yêu cầu cơ bản của chính tả Tiếng Việt là viết đúng từng tiếng một. Khi nói, khi đọc người Việt Nam phát âm từng tiếng tách bạch nhau. Ví dụ: “ Công cha như núi Thái Sơn”. Là một câu nói gồm 6 tiếng phân biệt rạch ròi, khi một tiếng được viết lên trang giấy ta sẽ có một chữ. Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Ví dụ: Nếu giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là/ za/ thì học sinh có thể lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc ( gia đình)hoặc ( da dẻ) hay( ra vào), đọc trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định, thì học sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy, có thể hiểu rằng chính tả Tiếng Việt còn là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt. Khi viết chính tả, học sinh chỉ chú ý nghe giáo viên phát âm chứ không hề chú ý đến nghĩa của từ để viết cho đúng. Vì lẽ đó mà chúng ta thường thấy nhiều học sinh đạt điểm cao trong giờ chính tả nhưng ở các môn học khác lại mắc rất nhiều lỗi chính tả. Muốn khắc phục được những hạn chế, thiếu sót đó người giáo viên cần bổ sung, điều chỉnh mục tiêu môn chính tả sao cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ trách và nhắc nhở phân tích các từ ngữ mà học sinh thường viết sai, thường gặp trong các môn học khác để học sinh hiểu nghĩa của từ và luôn viết đúng chính tả. Hơn nữa khi đọc bài các em thường đọc chưa chính xác các tiếng có phụ âm đầu: V/ B; L/ Đ; Th/ T; Nh/ D/ R/ Gi;… Vì thế cho nên khi viết hay nhầm lẫn, giáo viên cần phân tích rõ ràng cho học sinh hiểu để tránh viết sai. Trong khi viết chính tả cần phân tích, so sánh để học sinh nắm được nghĩa của từ thì học sinh mới viết đúng mọi lúc, mọi nơi. Như vậy bằng phương pháp này học sinh sẽ có thói quen viết chính tả theo nghĩa của từ. BIỆN PHÁP THỨ HAI: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LỖI CHÍNH TẢ VỀ ÂM, VẦN, DẤU THANH. 6 Ở bậc tiểu học, môn Tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc; Luyện từ và câu; Tập làm văn; Tập viết; Kể chuyện; Chính tả. Phân môn chính tả có nhiệm vụ : “ Cung cấp cho học sinh các quy tắc viết đúng và rèn luyện để các em có kỹ năng và thói quen viết đúng chính tả, rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất: Tính kỉ luật, tính cẩn thận( vì phải viết thẳng hàng, ngay ngắn, đẹp đẽ, đúng cỡ chữ). Đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, cách biểu thị tình cảm tốt đẹp trong đó có việc viết đúng chính tả”. Chất lượng học tập các phân môn của môn Tiếng Việt có quan hệ chặt chẽ, chi phối nhau, phân môn này có ảnh hưởng và hỗ trợ cho phân môn kia. Nếu học tốt phân môn chính tả học sinh có một công cụ hết sức đắc lực và hữu ích để ghi chép bài chính xác, nhanh, đẹp. Thế nhưng chất lượng học phân môn chính tả của học sinh hiện nay ở trường tiểu học Chiềng Khừa nói chung và học sinh trường Khu Trung tâm nói riêng còn ở mức độ thấp. Biểu hiện tập trung nhất là tình trạng viết sai chính tả còn phổ biến. Dù là học sinh trong cùng một địa phương hay cùng một lớp song không phải em nào cũng mắc lỗi giống hệt nhau, một số thường viết sai: Ch/ Tr; V/ B; L/ Đ, một số em lại sai: Nh/ D/ Gi…Một điều đáng lưu tâm hơn là hầu hết các em trong đơn vị trường đọc và viết sai nhiều: Th/ T; V/ B; ch/tr;…và một số âm đầu cũng như phần vần đọc gần giống nhau: Iêng/ Iêc; Iết/Iếc; Anh/ Ach; Iên/ Uyên;… hay các tiếng có dấu thanh: sắc/ ngã… Nếu giáo viên cứ chú trọng đến các lỗi mà các em sai phổ biến còn những lỗi khác không chú ý đến thì sẽ là một trong những nguyên nhân sai lỗi đó một cách truyền thống không sửa được, vì lẽ đó mỗi giáo viên cần nhận thức và xác định được cho mình nhiệm vụ quan trọng số một của phân môn chính tả là cung cấp các quy tắc, rèn luyện kỹ năng và thói quen viết đúng chính tả. Trước hết cần phân ra từng nhóm đối tượng học sinh, nhóm nào thường mắc những lỗi nào thì tìm ra phương pháp khác phục cho học sinh sửa lỗi đó. Khi viết những từ có liên quan đến những lỗi mà nhóm học sinh hay mắc phải, cần gọi những em đó lên viết trên bảng lớp, viết thường xuyên. Có như vậy, các em mới phát hiện ra lỗi sai để kịp thời giúp học sinh khắc phục. Lỗi phụ âm đầu: “v” viết thành “ b” “ l” viết thành “đ” “th” viết thành “t” Viết lẫn lộn giữa “ s” và “x” Viết lẫn lộn giữa “g” và “gh” Viết lẫn lộn giữa “ ng” và “ngh” Viết lẫn lộn giữa “ c”, “k” và “q” Viết lẫn lộn giữa “ ch” và “tr” Viết lẫn lộn giữa “ d”, “r” và “ gi” Lỗi chính tả phần vần: “ ai” viết thành “ay” “ iu” viết thành “ ưu” “ an” viết thành “at” 7 “ anh” viết thành “ ach” “ ui” viết thành “ uy” “ iêc” viết thành “ iêp” “ ơi” viết thành “ây” “ iên viết thành “ uyên” “ ông” viết thành “ ôn” “ ăng” viết thành “ăn” “ ênh” viết thành “êch” “ inh” viết thành “ich” “ ươn” viết thành “ ương” “ iêu” viết thành “ yêu” “ ut” viết thành “uc” Lỗi chính tả thanh điệu: Dấu “ngã” viết thành dấu “ sắc”. Thêm vào đó khi viết chính tả cũng như các môn học khác, khi viết thường xuyên bỏ dấu thanh hay viết thêm dấu thanh vào những tiếng không có dấu thanh. Trong quá trình rà soát lỗi các bài kiểm tra của 19 học sinh 4A. Tôi đã liệt kê được những từ ngữ mà các em thường viết sai. Qua đó tôi sẽ sử dụng những từ ngữ này làm ngữ liệu để khắc phục và xây dựng bài tập để học sinh thực hành. Các lỗi các em thường xuyên viết sai và hay nhầm lẫn: Chữ viết đúng Đọc bài văn Đủng đỉnh Đĩnh đạc Người lính Mĩ Lưu luyến Nhọc nhằn Thông tin Truyền thuyết Sung sướng Lực sĩ Xanh biếc Sai lỗi chính tả Nước biển Chênh chếch Nghiêng ngả Gập ghềnh Bạt ngàn Thơm phưng phức Khuy áo Mây bay Chữ thường viết sai, nhầm lẫn (phần âm, vần, dấu thanh) Lọc vài băn- đọc bài băn Lủng lỉnh Lính lạc- đính lạc Người lính Mí-người đính mí Liu liến- điu luyễn Dọc dằn- giọc giằn- rọc rằn Tông tin Truyền tuyết- chiền tiết Xung xướng-sung sưỡng Đực xĩ- đực sí Sanh biết – xanh viếc Xai lối chính tả- sai đối chĩnh tả Nước viển- nước biểng Chênh chếc- trêng trếc Ngiêng ngả Gập gềnh Vạt ngàn- bạn ngàn Tơm phưn phức Khui áo Mơi bay- mơi bai 8 Kết quả Yêu thương Róc rách Che lấp Trịnh trọng Chế giễu Cồng kềnh Của trách Hoa sữa Kết của Iêu tương Gióc rách- dóc dác- gióc giác Che đấp Trịch trọng- chịnh chọng Chế riễu- chế diếu Cồng cềnh Qủa trách- quả trác Hoa xứa- hoa sứa Qua nhiều lần được luyện viết học sinh sẽ nhận ra lỗi sai và sẽ biết khắc phục được lỗi sai mà mình thường mắc phải. Ngoài ra giáo viên cần chú ý ở những bài chính tả lớp mình ít viết sai thì không nên đi sâu mà cần linh hoạt sắp xếp thời gian xen kẽ các bài tập khác lớp mình thường viết sai để đỡ mất thời gian và khắc phục dần việc viết sai lỗi chính tả cho các em. Bằng cách linh hoạt trong giờ chính tả cũng như các môn học khác, học sinh thường xuyên được luyện viết chính tả. Đồng thời rèn luyện cho các em có tính kỉ luật, cẩn thận, tính thẩm mĩ, tình yêu Tiếng Việt và ý thức rèn chữ viết.Cách biểu thị tình cảm tốt đẹp đó thể hiện trong việc viết đúng chính tả, việc viết đúng chính tả là góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt. BIỆN PHÁP THỨ BA: BỔ SUNG NGUYÊN TẮC CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH. Mục đích dạy học chính tả là hình thành cho học sinh năng lực viết thành thạo, thuần thục chữ viết Tiếng Việt theo các chuẩn mực chính tả, nghĩa là giúp học sinh hình thành các kỹ xảo chính tả, không cần sự tham gia của ý chí. Để đạt được điều này cần phải bắt đầu nhận thức các quy tắc các mẹo luật chính tả. Việc hình thành các kỹ xảo bằng con đường có ý thức sẽ tiết kiệm thời gian, công sức hơn. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả cao. Trong quá trình giảng dạy và truyền thụ kiến thức cho các em học sinh, đòi hỏi người giáo viên cần xác định được trọng tâm của bài, dạy chính tả phải biết kết hợp với việc dạy chuẩn âm, tức là “ phát âm đúng”. Yêu cầu giáo viên phải là người chuẩn mực trong việc đọc, nói. Vì cơ sở cơ bản của chính tả Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm.Chính tả âm vị đọc thế nào, nói thế nào viết thế ấy. Hầu hết học sinh chưa nắm vững nguyên tắc chính tả nên dẫn đến viết sai chính tả. Ví dụ: Khi viết những âm đầu mà khi phát âm gần giống nhau, hoặc những tiếng nào cần sử dụng âm C/Q hay K hoặc D/ R hay Gi, những tiếng nào có âm cuối là I/ Y.Giáo viên cần thường xuyên chú ý giúp học sinh so sánh, phân biệt sao cho chính xác tức là giúp học sinh nắm chắc nguyên tắc chính tả. - Đối với âm D/ R/ Gi. + Viết “ D” khi đứng trước các nguyên âm: a, â, o, e, i, iê, yê,…( duyên dáng, dạt dào,…). 9 + Viết “ Gi” khi đứng trước các nguyên âm: a, â, o, u, ư, ươ, …( giờ giấc, giữ gìn, giường gỗ, cùng một giuộc,…). + Viết “ R” khi đứng trước các nguyên âm: a, o, ô, e, i, iê, ươ, uô,…( rành mạch, róc rách, rì rào,…). - Đối với âm C/ K/ Q. + Viết “ C” khi đứng trước các nguyên âm: a, o, ô, ơ, u, ư,…( cá, cô, cờ,cò, căn cứ, …) + Viết “ K”khi đứng trước các nguyên âm: e, ê, i, iê,…( kiêu sa, Quốc kì, êke, kênh kiệu,…). Viết “ Q” khi đứng trước vần có “ u” là âm đệm: ( quân đội, Quốc kì, quê hương, quả quýt, quần áo,…). - Đối với âm G/ Gh; Ng/ Ngh. + Viết “ G”, “ Ng”khi đứng trước các nguyên âm: a, â, o,ô, u, ư, ươ, …( ngủ gà ngủ gật, gà gô, ngỗ ngược, gửi ,gùi,…) + Viết “ Gh” khi đứng trước các nguyên âm: e, ê, i, …( bàn ghế, ghi chép, ghe thuyền,…) + Viết “ Ngh”khi đứng trước các nguyên âm: i, ê, iê ( con nghé, nghi ngờ, nghiêng ngả, củ nghệ,…) - Đối với âm Ch/ Tr. + Viết “ Ch” khi đứng trước các nguyên âm: a,ă,â, o, ô, e, i, iê, ươ, uô,…( cha, chú, che chở, viết chữ, chuộc tội, chăm chỉ, kể chuyện, chiếu cố,…) + Viết “Tr” khi đứng trước các nguyên âm: e,ê, iê, ươ ( trả giá, trượt băng, tri kỉ, truyện kể, triều đại,…) - Đối với âm S/ X. + Viết “ S” khi đứng trước các nguyên âm: a, ă,â, o, ô, ơ,e, i, iê, ươ, uô ( bão táp mưa sa, săn bắt, nằm sấp, nói se sẽ, sì sụp, siêu âm, song ca, bị sốc, suồng sã, suýt chết, sương giá,…). + Viết “ X” khi đứng trước các nguyên âm: a, o, ô, ư, i, uô, ươ, iê( lạp xường, xao xuyến, xử lý, xấp xỉ, xiêu vẹo, xốc nổi, chèo xuồng,…) - Đối với chữ viết có I hay Y. + Viết “ I ” khi đứng sau các phụ âm: x, m, r, ch, tr, gh, ngh, l,…( xinh xắn, thông minh, rì rào, chính tả, trí tuệ, ghi nhớ, nghỉ hè, lí lịch,…) + Viết “ Y” khi đứng độc lập hay nó không có âm đứng trước ( y tá, yêu thương, yên lặng, âu yếm, yết kiến,…). - Đối với chữ viết chứa nguyên âm đôi iê hay yê. + Viết “ Iê”khi đứng sau các phụ âm: d, đ, h, k, l, m, n, x, s, t, th, ch,…( diệu kì, điêu đứng, huy hiệu, kiêu kì, lo liệu, miêu tả, nồi niêu, siêu sao, xiêu vẹo, tiền tiêu, thiếu thốn,…) + Viết “ Yê” khi đứng sau các phụ âm: d, đ, h , l, x, t, th, ch, tr ( xét duyệt,huyết tương, luyện tập, xao xuyến, tuyệt đối, thuyền bè, kể chuyện, truyền thuyết). Khi học sinh nắm chắc nguyên tắc chính tả thì mỗi khi viết bài các em sẽ viết chính xác và viết đúng chính tả. Cũng từ đó giáo dục ý chí và đức tính tốt, tính cẩn thận, óc thẩm mĩ đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, cách biểu thị tình cảm tốt đẹp khi giao tiếp. 10 BIỆN PHÁP THỨ TƯ: XÂY DỰNG BÀI TẬP KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH. Dạy chính tả trong trường tiểu học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển trí thông minh, khả năng tư duy và khả năng ghi nhớ của học sinh. Nếu học tốt phân môn chính tả học sinh sẽ có một công cụ hết sức đắc lực và hữu ích để ghi chép bài chính xác, nhanh và đẹp. Như vậy, trong dạy học chúng ta phải biết cách tổ chức, biết cách điều khiển cho trẻ hoạt động. Bởi chúng ta đều biết, các em phải được hoạt động thì tâm lí cũng như nhận thức mới phát triển được. Mặt khác, các em phải được hoạt động một cách có chủ động thì khả năng nhận thức sẽ tốt hơn. Cụ thể, trong quá trình dạy học chính tả giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực hành luyện tập các bài tập, bởi thông qua quá trình thực hành luyện tập các bài tập sẽ dần hình thành ở các em kỹ năng viết thành thạo, thuần thục chữ viết Tiếng Việt theo chuẩn chính tả, nghĩa là hình thành kỹ xảo chính tả. Khi các em làm bài tập một cách tích cực, chủ động thì các em sẽ tự nhận biết được viết như thế nào là viết đúng và nếu viết khác đi thì sẽ sai, từ đó các em ghi nhớ cách viết đúng sâu sắc hơn, bền vững hơn. Trong quá trình giảng dạy, sau khi học xong bài mới, giáo viên giao cho học sinh những bài tập để thực hành luyện tập. Đối với các em việc thực hành luyện tập sẽ giúp các em ghi nhớ kiến thức đẫ học nhanh hơn và biết khắc phục những lỗi mà mình thường mắc phải. Còn đối với bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy sau khi chấm tất cả các bài tập này, thứ nhất là có thể đánh giá được kết quả học tập của mỗi học sinh. Thứ hai là có thể thu được thông tin ngược lại từ phía học sinh, xem mức độ tiếp thu bài của các em tới đâu? hay còn vướng mắc ở chỗ nào? phần nào? Với phương pháp dạy học đó đã phù hợp chưa? Từ đó điều chỉnh lại cách thức, phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả tốt nhất. Từ kết quả khảo sát thực tế đối với học sinh lớp 4A trường tiểu học Chiềng Khừa,. Khi viết bài các em viết sai chính tả rất nhiều, trình bày bài cẩu thả, viết còn nhầm lẫn giữa các phụ âm đọc gần giống nhau. Do đó tôi mạnh dạn xây dựng một số bài tập chính tả dưới hình thức tổ chức cho các em làm bài kiểm tra. Nhằm củng cố và bổ sung kỹ năng nắm chắc nguyên tắc chính tả để các em không còn gặp khó khăn khi viết bài, nhằm hạn chế lỗi chính tả trong các môn học khác. BÀI KIỂM TRA SỐ 1. 1. Điền vào chỗ trống s hay x. ….anh ….anh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc bên bờ ….ông Đứng bên này ….ông ….ao nhớ tiếc ….ao ….ót ….a như rụng bàn tay 2. Tìm tiếng có vần iên hay uyên thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây. chỉ có …………..mới hiểu ………… mênh mông nhường nào Chỉ có ………… mới biết 11 ………….. đi đâu về đâu. 3. Điền vào chỗ trống r , d hay gi. …..ây mơ ….ễ má …..ấy trắng mực đen …..eo ……ó gặt bão …..ối …..ít tít mù …...anh lam thắng cảnh …..út …..ây động rừng …..ương đông kích tây …..ãi ….ó …..ầm mưa. 4. Tìm các từ viết sai chính tả và sửa lại cho đúng. Lúa nặng trữu bông …………………………………….. Hoa lịu đỏ trõi …………………………………….. Gánh nặng kíu kịt …………………………………….. Chim non rữu rít …………………………………….. Thuộc bảng cỉu trương …………………………………….. Miu trí dúng cảm …………………………………….. Gửi tư biu liện …………………………………….. Lưu luyễn tiến lưa …………………………………… 5. Điền vào chỗ trống các tiếng có phụ âm đầu tr hay ch. Trận đấu ………kết Vô tuyến ………….hình Phá cỗ ………. thu Văn học …………. miệng Tình bạn thuỷ ……. Chim bay ……….. cành Cơ quan ………. ương Bạn nữ ………… chuyền. 6. Khoanh tròn vào chữ cái trước từ viết đúng chính tả. A. Vầy biện Đ. Bầy trẻ I. Ban đạy B. Bày biện E. Bày trẻ K. Van lạy C. Thứ bảy G. Tre đạy L.chậy nhảy D. Tứ bảy H. Che đậy M. Chạy nhảy. Tôi tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra vào chiều ngày mồng 15/ 11/ 2011 kết quả như sau: Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu 1 / 19 bài 2/ 19 bài 11/ 19 bài 5/ 19 bài Trong đó nhầm lẫn giữa các âm, vần còn rất nhiều cụ thể: Stt 1 2 3 4 5 Nhầm lẫn giữa các âm, vần, dấu thanh Nhầm lẫn giữa D, R và Gi Nhầm lẫn giữa X và S Nhầm lẫn giữa Ch và Tr Nhầm lẫn giữa vần Uyên và Iên Nhầm lẫn giữa vần Iu và Ưu 12 Số bài mắc lỗi 8 bài 7 bài 9 bài 5 bài 4 bài 6 7 8 9 Nhầm lẫn giữa Ay và Ây Nhầm lẫn giữa Th và T Nhầm lẫn giữa V và B Nhầm lẫn giữa dấu thanh “sắc” và dấu thanh “ ngã” 5 bài 2 bài 4 bài 7 bài Sau khi cho học sinh thực hành làm bài kiểm tra, các em còn nhầm lẫn rất nhiều giữa các âm cũng như các vần đọc gần giống nhau. Từ kết quả trên tôi tiếp tục cho học sinh làm bài kiểm tra số 2. BÀI KIỂM TRA SỐ 2. 1. Điền vào chỗ trống V hay B. ….ạch lá tìm sâu Giật gấu ….á ….ai Giậu đổ …..ìm leo Kinh hồn ….ạt vía ….ăn ôn ….õ luyện Ăn ….óc học hay. 2. Tìm tiếng có phụ âm đầu C, K hay Q điền vào chỗ trống để có thành ngữ đúng. 3. 4. 5. 6. ……..sâu ……bẫm ………thành danh toại ……..mò cò xơi ……. cá chọn canh ……. tóc xe duyên …….. làm cam chịu ……. hơi bén tiếng Kề vai sát ………… Điền vào chỗ trống Ai hay Ay. T …… làm hàm nhai T ….. qu….. miệng trễ Trăm hay không bằng t…. quen Sức d….. vai rộng Cây ng….. không sợ chết đứng. Tìm tiếng chứa vần Iêu , Êu hay Ươu thích hợp vào chỗ trống. …….yếu đào tơ Gầy cao …… đêu Dáng đi liêu …….. Cánh …...... no gió Con ốc …….. vàng Người con …… thảo Con ……. cao cổ Gạch chân những chữ viết sai và sửa lại cho đúng. Tìm nơi tăm tẳm rừng sâu …………………………. Bập bùng hoa chuỗi, chắng màu hoa van ……………………………. Tìm nơi bờ viển xóng tràn ………………….. …….. Hàng cây chắn báo, dịu ràng mùa hoa ……………………………. Tìm nơi cuồn đảo khây xa ………………………….. Có loài hoa nở như là không tên …………………………….. Tìm tiếng chứa vần Ên, Ênh điền vào chỗ trống cho thích hợp. Lên thác xuống ……….. Bóng trăng ………. chếch 13 Ăn ….làm ra Ăn ……. ngồi trốc Mây trời bồng ………… Nước chảy …….láng Của ……. tại người Áo mũ ……… xang. Bài kiểm tra số 2 tôi cho học sinh làm vào chiều thứ tư ngày 14/ 01/ 2012, kết quả như sau: Tổng số bài kiểm tra: 19 bài Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu 2 / 19 bài 6/ 19 bài 9/ 19 bài 2/ 19 bài tTrong đó nhầm lẫn giữa các âm, vần đã có phần giảm xong vẫn còn nhiều học sinh mắc phải cụ thể: Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Nhầm lẫn giữa các âm, vần, dấu thanh Nhầm lẫn giữa D, R và Gi Nhầm lẫn giữa X và S Nhầm lẫn giữa Ch và Tr Nhầm lẫn giữa vần Uyên và Iên Nhầm lẫn giữa vần Iu và Ưu Nhầm lẫn giữa Ay và Ây Nhầm lẫn giữa Th và T Nhầm lẫn giữa V và B Nhầm lẫn giữa dấu thanh “sắc” và dấu thanh “ ngã” Nhầm lẫn giữa vần “ươi và uôi”, “an và ang”, “ơp và ơt”, “ôc và uôc”, “ai và ay” Số bài mắc lỗi 5 bài 5 bài 6 bài 4 bài 3 bài 3 bài 1 bài 1 bài 5 bài 4 bài Sau khi cho học sinh thực hành làm bài kiểm tra số 2, mặc dù đã có nhiều cố gắng xong vẫn còn một số em khi làm bài còn nhầm lẫn giữa các âm cũng như các vần đọc gần giống nhau. Từ kết quả trên tôi tiếp tục cho học sinh làm bài kiểm tra số 3, để nhằm giúp học sinh khi viết bài đúng và đẹp hơn. BÀI KIỂM TRA SỐ 3. 1. Khoanh tròn chữ cái trước từ viết đúng. A. Sóng viển D. Bông hồng B. Long lanh E. Thức giấc C. Bóng truyền G. Giòng suối 2. Điền vào chỗ trống vần Iên hay Uyên. Đón mừng ch….. thắng Chia tay lưu l……. Ch…… tàu xuôi ngược Ăn nói l….. thoắng Thầy cô kh…… bảo L….. hoan tổng kết Nhà trường t…… dương Học tập ch…… cần Học sinh t….. t ……….. Đội quân t…… phong 3.Tìm những từ viết sai chính tả trong bài và viết lại cho đúng. 14 BẦM ƠI ! Ai về thăm mẹ kuê ta ………………………………… Chiều nai có đứa con xa rớ thầm ………………………………… Bầm ơi có dét không Bầm ………………………………… Heo heo gió núi, đâm tâm mưa phùn ………………………………… Bầm gia ruộng cới Bầm dun …………………………............ Chân lội dưới vùn, tay cới mạ non ………………………………… Mạ non Bầm cấy mới đon ………………………………… Duột gan Bầm lại tương con mấy lần ………………………………… Mưa phùn ướt áo tứ tân ………………………………… Mưa bao nhiêu hạt tương Bầm vấy nhiêu. ………………………………… 4. Điền vào chỗ trống Tr hay Ch. Tuổi thơ ..ở đầy cổ tích Dòng sông lời mẹ ngọt ngào Con gặp …...ong lời mẹ hát Cánh cò ….ắng, dải đồng xanh Đưa em đi cùng đất nước ….òng ….ành nhịp võng ca dao Con yêu màu vàng hoa mướp “ Con gà cục tác lá ….. anh”. 5. Tìm chữ cái, vần thích hợp với mỗi chỗ trống( D, R hay Gi; Iên. Uyên, Ai hay Ay) GIỮA CƠN HOẠN NẠN. Một chiếc th……… ra đến ……ữa …..òng sông thì ….ò. Chỉ trong nh….. mắt, th… `… đã ngập nước. Hành khách nhốn nháo, hoảng hốt, ai n…. ra sức tát nước cứu th….`…, …uy chỉ có một anh chàng vẫn thản nh….., coi như không có ch…… gì x..’.. ra. Một người khách th….vậy, không ……ấu nổi tức ….ận, bảo: - Th…`… sắp chìm xuống đ…. Sông ….ôi`, sao anh vẫn thản nh…. v…? Anh chàng nọ trả lời: - Việc gì phải lo nhỉ? Th…`… n…`.. đâu ph..’.. của tôi!. Bài kiểm tra số 3 tôi cho học sinh làm vào chiều thứ hai ngày 16/ 3 / 2012, sau khi chấm bài tôi nhận thấy sự tiến bộ của các em được thể hiện cụ thể trong bài kiểm tra, sự nhầm lẫn giữa các âm, vần đọc gần giống nhau vẫn còn song đó chỉ là một con số rất nhỏ . Mặc dù vậy chữ viết của các em vẫn còn cẩu thả, một số em viết chưa đúng cỡ chữ, mẫu chữ, trình bày bài chưa khoa học, kết quả như sau: Tổng số bài kiểm tra: 19 bài Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 3 / 19 bài 6/ 19 bài 9/ 19 bài 1/ 19 bài tTrong đó nhầm lẫn giữa các âm, vần cụ thể: 15 Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Nhầm lẫn giữa các âm, vần, dấu thanh Nhầm lẫn giữa D, R và Gi Nhầm lẫn giữa X và S Nhầm lẫn giữa Ch và Tr Nhầm lẫn giữa vần Uyên và Iên Nhầm lẫn giữa vần Iu và Ưu Nhầm lẫn giữa Ay và Ây Nhầm lẫn giữa Th và T Nhầm lẫn giữa V và B Nhầm lẫn giữa dấu thanh “sắc” và dấu thanh “ ngã” Nhầm lẫn giữa vần “ươi và uôi”, “an và ang”, “ơp và ơt”, “ôc và uôc”, “ai và ay” Số bài mắc lỗi 5 bài 4 bài 4 bài 4 bài 2 bài 3 bài 1 bài 1 bài 3 bài 4 bài BIỆN PHÁP THỨ 5. GIÁO VIÊN PHẢI GƯƠNG MẪU VỀ CHỮ VIẾT VÀ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH KHI CHẤM, CHỮA BÀI VIẾT CŨNG NHƯ BÀI TẬP CHÍNH TẢ. Để khắc phục lỗi chính tả và nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh dân tộcThái và Hmông trường tiểu học Chiềng Khừa nói chung, học sinh dân tộc Thái và Hmông lớp 4 trường tiểu học Chiềng Khừa nói riêng. Giáo viên phải nắm vững quy tắc chính tả, thuật ngữ chính tả, thuật nhớ và mẹo chính tả. Nắm vững cơ sở ngữ âm, ngữ nghĩa của chính tả Tiếng Việt. Có hiểu biết đầy đủ về khả năng kết hợp của các thành phần trong âm tiết Tiếng Việt. Mặt khác phải quán triệt nguyên tắc chính tả tại địa phương ( cụ thể ở đây là học sinh trường tiểu học Chiềng Khừa - Mộc Châu ). Cũng xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh trường tiểu học Chiềng Khừa nói chung, học sinh lớp 4 trường tiểu học Chiềng Khừa nói riêng. Để giúp học sinh viết đúng và chuẩn chính tả người giáo viên phải rèn chữ viết thường xuyên, viết chữ đúng mẫu, chuẩn, đẹp. Phải gương mẫu về chữ viết trên bảng, chữ viết nhận xét, chữa lỗi trong vở học sinh. Đặc biệt phải quan tâm độ cao, kích thước của từng con chữ, khoảng cách giữa các con chữ, các tiếng phải đều, đúng quy định, cách trình bầy bài phải khoa học. Muốn rèn chữ viết của học sinh có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải có ý thức trách nhiệm cao, nhiệt tình chỉ bảo uốn nắn chữ viết cho các em, dành nhiều thời gian cũng như tâm huyết với nghề, thực sự yêu thương học sinh, quan tâm và thường xuyên nhắc nhở, động viên khen ngợi các em kịp thời, đúng mức ở các bài viết ( khen, chê hợp lí, tránh tình trạng khen ngợi quá mức để rồi các em không cố gắng hay chê trách nhiều để các em tự ti mặc cảm với các bạn). Một vấn đề cần lưu ý trong khi học sinh viết bài đó là tư thế ngồi viết, giáo viên yêu cầu học sinh ngồi viết đúng tư thế, không ngồi tuỳ tiện như: ngồi nghiêng người, cúi sát vào vở, bàn ghế chưa đúng quy cách, … Việc ngồi không đúng tư thế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nét chữ của các em, gây cong vẹo cột sống,…Ngoài ra yêu cầu các em cầm bút đúng cách để khi viết bài được dễ dàng.Thường xuyên chú ý nhắc nhở học sinh giữ sách vở cẩn thận không để nhàu nát. Muốn thành công trong việc rèn viết chính tả cho các em phải có sự bàn bạc ở tập thể chuyên môn, phải phối hợp với nhiều người, phối hợp giữa 16 gia đình và nhà trường. Điều cần chú ý là rèn chữ viết cho học sinh ngay từ các lớp đầu cấp, nhằm rèn cho các em có ý thức ngay từ khi bắt đầu bước vào lớp học đầu tiên của bậc học tiểu học. Từ đó các em sẽ có thói quen viết cẩn thận, đúng, đẹp. Khi đã hình thành được thói quen các em sẽ có ý thức viết đẹp hơn, trình bầy khoa học và một điều quan trọng hơn là sẽ hạn chế tới mức thấp nhất việc viết sai chính tả. Trong mỗi bài viết chính tả hay bài tập chính tả, sau khi viết hay làm bài tập xong các em đều được chấm và chữa bài, nhiều giáo viên thu tất cả vở học sinh để tự mình chấm (ở lớp hay ở nhà). Như vậy giáo viên đã bỏ qua bước cho học sinh tự chữa lỗi trong bài viết hay bài tập của mình hoặc của bạn (hình thức đổi vở cho nhau để chữa bài). Bằng cách này giáo viên chỉ có một điểm thuận lợi là giảm bớt thời gian trong tiết học, nhưng mặt khác học sinh không được một lần nữa tiếp xúc với bài viết, bài tập vừa được viết, được làm, không tự phát hiện ra lỗi sai dưới sự hướng dẫn, sửa chữa của giáo viên. Do đó cần để cho học sinh phát huy tính tích cực, sáng tạo của bản thân các em bằng cách tự chữa bài viết cũng như bài tập chính tả của mình cũng như của bạn. Đối với các em học sinh lớp 4A trường tiểu học Chiềng Khừa, ngay từ đầu năm học 2011- 2012 (tháng 10 năm 2011), bản thân tôi đã vận dụng tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc chấm, chữa bài nhằm phát triển tư duy, sự nhận thức của các em để các em tự nhận biết mình đã sai, nhầm lẫn như thế nào? Rồi qua đó các em sẽ hiểu rằng mình cần phải ghi nhớ để không lặp lại những lỗi đó nữa. Trong thời gian thực nghiệm đối với học sinh hai lớp 4A , tôi đã vận dụng để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh khi chấm, chữa bài. Cụ thể bằng hai cách: * Cách thứ nhất: Sau khi viết chính tả cũng như làm bài tập xong yêu cầu học sinh đọc lại bài và tự soát lỗi, chữa bài bằng cách dùng bút chì gạch chân những lỗi mà mình viết sai, làm sai.Giáo viên khuyến khích học sinh tự đánh giá bài viết hay bài tập chính tả của mình (nghĩa là tự chấm điểm bài của mình vào phiếu đánh giá mà giáo viên đã chuẩn bị cho các em hoặc ghi điểm vào góc vở của các em). Sau đó giáo viên thu bài xem kết quả mà học sinh đã tự chữa bài, đánh giá và dùng bút mực đỏ gạch chân những chỗ sai mà học sinh chưa phát hiện rồi chữa lại cho đúng ra lề vở. * Cách thứ hai: Học sinh đổi vở chính tả hay vở bài tập cho bạn ngồi kế bên để chữa lỗi (dùng bút chì gạch chân những lỗi mà bạn viết sai hay làm sai ). Giáo viên khuyến khích học sinh đánh giá bài viết hay bài tập chính tả của bạn. Tiếp đó giáo viên thu bài, kiểm tra kết quả học sinh chữa lỗi chính tả, bài tập chính tả và đánh giá bài của bạn có chính xác không? giáo viên có thể gọi một số học sinh đối thoại trực tiếp vì sao lại đánh giá, ghi điểm bài của bạn mình như vậy và đặt ra một số câu hỏi gợi ý để hướng cho học sinh tìm những lỗi mà các em chưa chỉ ra được. Việc trực tiếp ghi lại những lỗi mà mình hoặc bạn mình đã viết sai sẽ giúp các em khắc sâu và ghi nhớ lâu hơn những lỗi đó, những lần sau đó các em sẽ tự nhớ để viết đúng. Phần hướng dẫn học sinh làm các bài tập trong sách giáo khoa vở bài tập, thông thường phần luyện tập giáo viên thường sử dụng chủ yếu hình thức luyện tập ở bảng lớp, kết hợp với vở bài tập nên còn nhiều hạn chế. Do đó đòi hỏi người giáo viên cần linh hoạt khi hướng dẫn học sinh làm bài tập chính tả, yêu cầu các em phải có năng lực tư duy cao hơn để không những làm tốt bài tập chính tả và tự chữa lỗi trong bài viết của mình cũng như của bạn mà còn biết vận dụng tốt vào các môn học khác. 17 Vì vậy trước khi luyện viết một bài chính tả giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái quát bài cần viết, để học sinh lưu ý phân biệt các hiện tượng chính tả, giải thích từ khó, nguyên tắc chính tả,… Ngôn ngữ gắn liền với tư duy nên học sinh có hiểu mới viết đúng được và sửa lỗi trong bài một cách chính xác. Thêm vào đó khi chấm, chữa bài cho học sinh giáo viên cần chú ý đến cách trình bầy bài viết của các em sao cho khoa học, sạch, đẹp. Ngoài một số biện pháp cơ bản trên, trong quá trình giảng dạy tôi còn vận dụng một số biện pháp khác như: Yêu cầu học sinh tự luyện viết ở nhà mỗi tuần ít nhất hai bài , tổ chức thi vở sạch, thi viết chữ đẹp,… động viên các em kịp thời tạo cho các em niềm tin. Từ đó các em sẽ có ý thức học tập tốt hơn không riêng gì phân môn chính tả mà trong tất cả các môn học. CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI VẬN DỤNG “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY PHÂN MÔN CHÍNH TẢ LỚP 4” VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM. 1. Kết quả đạt được. Trong năm học 2011- 2012 vừa qua tôi đã cùng các đồng chí giáo viên trong khối 4 vận dụng 5 biện pháp trong đề tài vào việc giảng dạy phân môn chính tả cho học sinh. Sau một năm học kết quả được nâng lên rõ rệt. Học sinh biết cách trình bầy bài một cách khoa học hơn, chữ viết tương đối đều, đẹp, cẩn thận và ít sai lỗi chính tả. Điều đáng mừng hơn là khi học phân môn tập làm văn và các môn học khác các em có thói quen viết đúng chính tả, trình bày sạch đẹp. Bản thân tôi là một giáo viên chủ nhiệm có được kết quả như vậy tôi rất phấn khởi và tự tin với những thành công khi vận dụng các biện pháp này. Mặc dù trong kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế, thiếu sót. Kết quả đạt được tuy còn rất khiêm tốn nhưng đã góp một phần nhỏ bé nâng cao chất lượng chữ viết của 19 học sinh trong lớp, do tôi chủ nhiệm. Qua các đợt kiểm tra trong năm học chất lượng viết chính tả của học sinh đạt được cụ thể như sau: Tổng số học sinh được tham gia kiểm tra là: 19 em, với 19 bài kiểm tra, đây là kết quả rèn luyện của các em trong năm học 2011- 2012. Stt Thời gian kiểm tra Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu 1 Giữa kì I (04/11/2011) 1/ 19 bài 2/ 19 bài 11/19 bài 5/19 bài 2 Cuối kì I (30/12/2011) 2/ 19 bài 3/ 19 bài 10/19 bài 3/19 bài 18 3 Giữa kì II(16/03/2012) 2/ 19 bài 6/ 19 bài 9/19 bài 2/19 bài 4 Cuối kì II(10/05/2012) 3/ 19 bài 7/ 19 bài 9/19 bài 0/19 bài Trong học kì II năm học 2011-2012, Hội đồng khoa học Nhà trường( Ban giám hiệu Nhà trường) trực tiếp tới lớp 4A do tôi chủ nhiệm khảo sát chất lượng chữ viết của các em. Chữ viết của các em có nhiều tiến bộ xong vẫn còn nhiều em viết còn mắc những lỗi chính tả truyền thống như: ( l/đ; t/ th; v/ b; tr/ ch;…iêc/iêt; ăn/ăng; inh/in; ac/at…). Kết quả cụ thể như sau: Tổng số bài kiểm tra: 19 bài Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 3 / 19 bài 7 / 19 bài 9/ 19 bài 0/ 19 bài B 2. Bài học kinh nghiệm: Qua hai năm học (2010-2011; 2011-2012) vận dụng các biện pháp vào giảng dạy phân môn chính tả, kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, các em viết bài chữ viết còn xấu, cẩu thả, sai nhiều lỗi chính tả,.. Xong tôi cũng nhận thấy đây là những bước tiến bộ cần phát huy, bản thân tôi tự coi những biện pháp đã vận dụng là cẩm nang cho bản thân để vận dụng vào giảng dạy trong những năm học tiếp theo. Qua đó tôi tự rút ra một số bài học kinh nghiệm cho bản thân. 1. Điều tra đối tượng, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng viết sai chính tả ở học sinh… 2. Từ việc nắm rõ nguyên nhân, tìm hiểu kĩ các lỗi sai thường mắc của học sinh để từ đó tìm ra phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. 3. Đặc biệt quan tâm tới nguyên tắc chính tả để học sinh viết đúng. 4. Lưu ý đến cách cầm bút và tư thế ngồi viết của học sinh cũng như cách trình bày, cỡ chữ, ý thức giữ gìn sách vở của các em. 5. Đặc biệt lưu tâm đến việc chấm, chữa lỗi chính tả trong bài viết cũng như bài tập chính tả của học sinh. C. KẾT LUẬN CHUNG. Trên đây là những kết quả sau hai năm học bản thân tôi đã thu nhận được trong quá trình trực tiếp vận dụng đề tài” Một số biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La”.Được sự quan tâm sát sao, góp ý chân thành của Hội đồng khoa học Nhà trường. Sự giúp đỡ của tập thể giáo viên trong khối 4 + 5. Tôi đã đạt được những kết quả như trên. Song tôi nhận thấy do kinh nghiệm của bản thân còn có hạn, chất lượng còn nhiều hạn chế, trong những năm học tiếp 19 theo tôi sẽ tích cực nghiên cứu nhiều biện pháp hơn nữa để học sinh học phân môn chính tả đạt kết quả cao hơn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc rèn chữ viết cho học sinh, nhằm đáp ứng yêu cầu của giáo dục toàn diện đồng thời tạo điều kiện nâng cao chất lượng chữ viết, rèn luyện thói quen cẩn thận, ý thức viết đúng chính tả cho các em học sinh dân tộc nói chung, các em học sinh dân tộc Thái, HMông thuộc xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu nói riêng. Chiềng Khừa, ngày … tháng … năm 2012 Người thực hiện đề tài Lường Văn Thành Xác nhận của HĐKH Nhà trường. ....................................................................................................................................... .................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................. .................................................................................................................................................. ………………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………………….. ….. ……………………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………………...... ......................................................................................................................................... Xác nhận của HĐKH Phòng Giáo dục-Đào tạo huyện Mộc Châu. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng