PHONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SƠN HÀ
TRƯƠNG TIỂU HỌC SƠN CAO
HỒ SƠ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Họ và tên : Nguyễn Dũng
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị : Trường tiểu học Sơn Cao
Hồ sơ gồm có : 02 sáng kiến kinh nghiệm
Năm học : 2016 - 2017
MỤC LỤC
PHẦN I :
MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn đề tài ....................................................................................
II/ Mục đích nghiên cứu ...........................................................................
III/ Đối tượng nghiên cứu .......................................................................
IV/ Đối tượng khảo sát, thực nghiệm ....................................................
V/ Phương pháp nghiên cứu ....................................................................
VI/ Thời gian nghiên cứu .........................................................................
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
1
3
3
3
4
4
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
Trang
5
7
7
8
12
12
13
13
14
15
PHẦN II :
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I : Những vấn đề lí luận ........................................................
Chương II : Thực trạng về vấn đề nghiên cứu ..............................
1/ Nguyên nhân khách quan:....................................................................
2/ Nguyên nhân chủ quan:.......................................................................
Chương III : Biện pháp giảng dạy phân môn chính tả ...............
1/ Ren phát âm đung tiếng phổ thông ....................................................
2/ Hướng dẫn phân biệt chính tả băng phân tích, so sánh ...............
3./ Phân biê ̣t nghia của t .........................................................................
4/ Vâ ̣n dụng củng cố băng các bài tâ ̣p chính tả ...................................
Chương IV : Hiệu quả của đề tài .............................................................
PHẦN III :
KẾT LUẬN CHUNG
1/ Ý nghia của đề tài .................................................................................
2/ Khả năng ứng dụng triển khai .............................................................
3/ Bài học kinh nghiệm ...............................................................................
4/ Những kiến nghị, đề xuất .....................................................................
Tài liệu tham khảo .....................................................................................
Trang 17
Trang 17
Trang 17
Trang 18
Trang 20
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn học Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ quan trọng vào bậc nhất là trau dồi
ngôn ngữ cho học sinh, trang bị cho học sinh những tri thức và quy tắc sử dụng chung trong
hoạt động giao tiếp.
Trong các phân môn của bộ môn Tiếng Việt, chính tả là một trong những phân môn có
vai trò quan trọng, bởi đây là phân môn hình thành, ren luyện và phát triển kỹ năng viết. Ren
chữ viết chính tả cung cấp cho học sinh biết quy tắc chính tả và thói quen viết chữ ghi âm
Tiếng Việt đung và chuẩn. Nắm vững chính tả học sinh mới có thể nói được, viết được, nói
hay, viết hay… góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, đây là thứ của cải vô cùng
quý báu của dân tộc ta.
Sự thống nhất chính tả thể hiện tính thống nhất của một ngôn ngữ. Chính tả có thống
nhất thì việc giao tiếp băng ngôn ngữ viết mới không bị trở ngại giữa các địa phương, cũng
như giữa các thế hệ với nhau.
Mục tiêu đầu tiên của giáo dục tiểu học là ren luyện cho học sinh kỹ năng “đọc thông,
viết thạo”. Giải quyết lỗi chính tả trong nhà trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng
góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục đề ra.
Đối với học sinh bậc tiểu học việc ren để các em viết đung, viết chuẩn là vấn đề vô
cùng cần thiết. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 4, lớp gần cuối cấp của bậc tiểu học, số lượng
môn học nhiều hơn vì lẽ đó các em chỉ tập trung vào viết đủ chữ nên việc sai lỗi chính tả khi
viết và trình bày bài chưa khoa học là khá phổ biến.
Ở trường tiểu học Sơn Cao, huyện Sơn Hà phần lớn học sinh là con em dân tộc Hre các
em nói tiếng phổ thông còn chưa rõ và phát âm chưa đung dẫn đến việc viết chữ cũng còn
sai rất nhiều.
Qua nhiều năm giảng dạy tại trường tôi thấy nhiều học sinh khi viết chính tả chỉ chu ý
nghe giáo viên phát âm để viết đung chữ, chứ chưa coi trọng nghia của t hoặc các em viết
theo cách đọc của phát âm tiếng mẹ đẻ, do đó các em chỉ nghe để viết đủ, đung chữ ở tất cả
các môn học nhưng thực sự các em viết còn mắc lỗi chính tả khá nhiều. Vì lẽ đó dạy chính tả
trong trường tiểu học có ý nghia rất lớn trong việc phát triển trí thông minh, khả năng tư duy
(vì phải sử dụng các thao tác như phân tích, so sánh đối chiếu, khái quát hoá và tr u tượng
hoá để rut ra quy tắc chính tả) và khả năng ghi nhớ máy móc cho các em. Góp phần giáo dục
ý chí và đức tính tốt như tính kỉ luật, tính cẩn thận, cần cù, nhẫn nại, óc thẩm mi, đồng thời
bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, cách biểu thị tình cảm tốt đẹp khi giao tiếp.
Xuất phát t những lí do trên và qua thực nghiệm thực tế đối với 19 học sinh của lớp
4E trường tiểu học Sơn Cao năm học 2015 - 2016 do tôi chủ nhiệm. Tôi mạnh dạn tiến hành
nghiên cứu và thực hiện đề tài “ Biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4” để áp
dụng trong giảng dạy.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Tìm và đưa ra biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4 góp phần trang bị cho
những cơ sở lí luận, vào việc hoàn thiện nội dung và phương pháp dạy chính tả ở bậc tiểu
học nói chung, dạy chính tả lớp 4 nói riêng:
1. Tìm hiểu nguyên nhân mắc lỗi để xác định nội dung dạy học chính tả.
2. Phân tích thực trạng lỗi chính tả về âm, vần, dấu thanh.
3. Bổ sung nguyên tắc chính tả cho học sinh.
4. Xây dựng bài tập khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
5. Giáo viên phải gương mẫu về chữ viết và phát huy tính tích cực của học sinh khi
nhận xét, chữa bài viết cũng như bài tập chính tả.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Học sinh lớp 4E trường tiểu học Sơn Cao.
Lớp 4E : 19 học sinh, do tôi chủ nhiệm.
Các em học sinh lớp 4E do tôi thực nghiệm hầu hết là con em dân tộc, các em đều
ngoan ngoãn biết vâng lời thầy, cô giáo, vâng lời cha mẹ, đoàn kết với bạn be, biết tương trợ
giup đỡ lẫn nhau.
Tổng số học sinh lớp 4E là: 19 học sinh.
Trong đó:
Học sinh nam
: 11 em
Học sinh nữ
: 8 em
Dân tộc Kinh
: 0 em
Dân tộc Hre
: 19 em
Khuyết tật ngôn ngữ : 0 em.
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM :
* Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4 trường tôi đang dạy.( Trường tiểu học Sơn Cao –
Sơn Hà - Quảng Ngãi )
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
1. Phương pháp khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh.
2. Phương pháp thống kê, phân tích.
3. Phương pháp thực nghiệm.
4. Phương pháp đối chiếu và so sánh kết quả sau khi vận dụng các biện pháp trên.
VI. THƠI GIAN NGHIÊN CỨU :
* T năm học 2015-2016 đến cuối học kì I năm học 2016 - 2017.
PHẦN II :
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
Tiếng Việt là ngôn ngữ chung thống nhất trên toàn đất nước Việt Nam, nhưng mỗi
vùng đều có sự khác biệt nhiều cách phát âm của t ng địa phương khác nhau. Những cách
phát âm đó làm cho Tiếng Việt thêm giàu đẹp, phong phu. Cho nên khi đối thoại người với
người ở các vùng miền trên đất nước ta đều nghe và hiểu được. Nhưng mặt khác sự khác biệt
về phát âm giữa các địa phương lại dẫn đến tình trạng viết sai chính tả do phát âm. Trong
cuộc sống của con người, cụ thể là người Việt Nam không chỉ giao tiếp băng ngôn ngữ nói
mà còn giao tiếp băng ngôn ngữ viết. Như trong linh vực học tập nghiên cứu tài liệu cũng
như việc giao tiếp giữa những người ở xa nhau, hoặc giữa các thế hệ đời trước với đời sau.
Tiếng Việt là công cụ để giao tiếp tư duy và học tập, trong thực tế cuộc sống của con người.
Chính vì vậy yêu cầu đặt ra trong việc giao tiếp băng ngôn ngữ viết là làm sao phải đảm bảo
được người đọc hiểu đung hoàn toàn ý nghia, nội dung trong văn bản của người viết. Viết
đung chính tả là giup cho học sinh có điều kiện sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong
việc học tập các môn học khác trong nhà trường. Để đạt được yêu cầu này trên linh vực chữ
viết phải được thể hiện một cách thống nhất trên t ng con chữ, t ng âm tiết Tiếng Việt. Nói
một cách khác là mỗi âm vị sẽ được thể hiện băng một hay một tổ hợp chữ cái đồng thời mỗi
t cũng có một cách viết nhất định, thống nhất trong cộng đồng người Việt.
Về cơ bản chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, mỗi âm vị được ghi băng một con
chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết chính tả Tiếng Việt là thống nhất với nhau.
Đọc như thế nào sẽ viết như thế ấy. Trong giờ chính tả, học sinh sẽ xác định được cách viết
đung ( viết đúng chính tả) băng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói( hình thức
chính tả nghe- viết). Cơ chế của cách viết đung là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh
và chữ viết. Giữa đọc và viết, giữa tập đọc và viết chính tả ( chính tả nghe – viết: tức là
nghe đọc để viết lại ) có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại có quy trình hoạt động
trái ngược nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hoá văn bản dưới dạng âm thanh thành văn bản
viết. Có như vậy, khi giao tiếp băng ngôn ngữ, người đọc mới hiểu đung hoàn toàn nội dung,
ý nghia mà người viết gửi gắm, việc viết đung thống nhất như thế còn gọi băng thuật ngữ
quen thuộc là: chính tả.
Qua các bài viết chính tả ren luyện cho học sinh “Có tính kỉ luật, tính cẩn thận và óc
thẩm mĩ”. Đồng thời bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý Tiếng Việt, chữ viết, cách biểu
thị tình cảm được thể hiện trong việc viết đung chính tả.
Xuất phát t tính chất và tầm quan trọng của việc viết đung chính tả như thế nên phân
môn chính tả đã được đưa vào chương trình giảng dạy của trường phổ thông. Cụ thể ở đây là
các lớp bậc tiểu học, phân môn chính tả đã được giảng dạy ở tất cả các lớp trong bậc học tiểu
học với nhiều hình thức chính tả khác nhau: T chính tả nhìn bảng, nhìn sách để chép rồi
chính tả nghe - viết, chính tả nhớ - viết. Với những hình thức chính tả này giup học sinh có
thể hiểu về quy tắc chính tả để viết đung chính tả. Tuy việc viết đung chính tả là quan trọng
và cần thiết như vậy nhưng thực tế việc dạy và học chính tả ở tất cả các lớp trong bậc học
tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 trường tiểu học Sơn Cao nói riêng vẫn còn mắc nhiều
lỗi khi viết chính tả. Đây là nhiệm vụ của người học sinh cần phải ren luyện chữ viết sao cho
đung “chính tả” và cũng là trách nhiệm đặc biệt quan trọng của tập thể giáo viên trường tiểu
học Sơn Cao nói chung và cá nhân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 4E, trách
nhiệm đó đặc biệt cần chu trọng hơn.
CHƯƠNG II:
NHỮNG THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong thực tế giảng dạy chương trình môn Tiếng Việt, phân môn chính tả có nhiệm vụ
cung cấp cho học sinh các quy tắc viết đung và ren luyện để các em có ki năng, thói quen
viết đung chính tả, ren luyện để các em có kỹ năng viết đung quy trình con chữ, ren luyện
cho học sinh một số phẩm chất: Tính kỷ luật, tính cẩn thận (vì phải viết thẳng hàng, ngay
ngắn, đẹp đẽ). Đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt.
Do xác định được vai trò và tầm quan trọng của việc ren chữ viết cho học sinh tiểu học,
tôi đã tìm hiểu vấn đề này. Trước hết nhăm nâng cao chất lượng chữ viết cho các em. Viết
đung chính tả cho học sinh dân tộc nói chung và học sinh lớp 4 trường tiểu học Sơn Cao nói
riêng. Đồng thời cũng góp phần đuc kết, rut kinh nghiệm và làm phong phu thêm một số
biện pháp chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường. Ren cho học sinh có kỹ năng: đọc, nghe,
nói, viết thành thạo.
1. Nguyên nhân khách quan:
Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Tiếng Việt tuy là một ngôn ngữ thống nhất
trong cả nước nhưng có nhiều phương ngữ khác nhau. Phương ngữ làm cho Tiếng Việt thêm
giàu đẹp, phong phu nhưng mặt khác ở mỗi địa phương, dân tộc nào thì dân tộc ấy có những
thói quen, cách phát âm riêng, mà cách phát âm đó lại lệch chuẩn. Tình trạng này ảnh hưởng
đến tính thống nhất của ngôn ngữ và gây nhiều khó khăn trong việc dạy học chính tả. Do ảnh
hưởng của phương ngữ là rất lớn đối với việc phát âm, nói và viết chính tả. Các em phát âm
sai dẫn đến việc viết cũng sai.
Các em học sinh hăng ngày ngoài giờ học trên lớp thì lượng thời gian các em được tiếp
xuc với thầy, cô giáo, bạn be, được giao tiếp và trau dồi vốn Tiếng Việt, chữ viết là rất ít.
Khi về nhà các em lại tiếp xuc với ngôn ngữ địa phương( cụ thể ở đây là tiếng Hre) của
mhững người thân trong gia đình, cộng đồng, địa phương nơi các em học sinh sinh sống. Mà
ngôn ngữ địa phương ( tiếng dân tộc Hre ) như chung ta đã biết thường hay lẫn lộn và sai
chính tả. Bên cạnh đó hầu hết gia đình các em đều làm nông nghiệp nên ngoài giờ học trên
lớp về đến nhà các em còn phải dành thời gian giup đỡ gia đình, các em không có điều kiện
tiếp xuc với bạn be, thầy, cô giáo, … cũng như thời gian học thêm ở nhà hay đọc sách, báo,
… Không có thời gian để luyện viết, đọc theo yêu cầu, hướng dẫn của giáo viên.
2. Nguyên nhân chủ quan:
Hầu hết học sinh là con em dân tộc Hre. Các em tiếp xuc với xã hội còn rất ít, nói tiếng
phổ thông chưa thành thạo khi đọc bài còn sai. Vì vậy việc tái hiện con chữ khi giáo viên
đọc để viết lại còn rất chậm và không chính xác. Đặc biệt các em còn nhầm lẫn giữa các âm:
Nh/ D hay Gi; T/ Th; L/Đ; V/B. Một số em không phân biệt được các phụ âm đầu mà khi
đọc các phụ âm đó gần giống nhau.
Ví dụ: ch/ tr; x/ s; d/ r hay gi; t/ th; ng/ ngh; k/ c hay q. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều
em thường viết chưa đung phần vần khi viết còn nhầm lẫn.
Ví dụ: ai/ ay; iu/ ưu; anh/ ach; ênh/ êch; inh/ ich; iên/ uyên; ươn/ ương;…T việc không
xác định được và còn nhầm lẫn giữa các phụ âm đầu và phần vần, do đó dẫn đến học sinh
viết sai thường xuyên.
Nhiều giáo viên trong quá trình dạy chỉ căn cứ vào sách giáo viên, sách học sinh mà
thực hiện việc dạy chính tả chứ chưa thực hiện việc dạy chính tả theo vùng miền, theo hiểu
nghia của t để viết đung chính tả mọi luc, mọi nơi. Nếu như không thống kê những lỗi phổ
biến của đối tượng học sinh lớp mình phụ trách, của địa phương nơi học sinh sinh sống, chưa
vận dụng sáng tạo t những bài tập ngoài sách học sinh để bài dạy thêm phong phu, đa dạng,
tần số chính tả xuất hiện nhiều và phù hợp với đối tượng lớp mình phụ trách.
Đặc biệt một số giáo viên chỉ chu ý phát âm đung trong giờ chính tả. Như vậy ở các
môn học khác giáo viên phát âm thường không chuẩn, do đó học sinh cũng không chu ý viết
cẩn thận. Không sửa lỗi cho học sinh, cho nên học sinh cẩu thả khi viết. Một phần là do các
em chưa chịu khó học, ý thức học tập chưa cao, nhất là luyện đọc, nói Tiếng Việt và luyện
viết ở nhà. Khi đến lớp trong giờ chính tả cũng như các tiết học khác các em viết còn ẩu,
nhanh chưa chính xác. Mặc dù thời gian viết chính tả trên lớp là thời gian luyện viết tốt nhất
với các em. Muốn viết đung chính tả cũng như muốn áp dụng các thuật nhớ, các mẹo chính
tả, phải hướng cho học sinh biết nhận dạng và nắm chắc đơn vị trung tâm của chính tả Tiếng
Việt là ( tiếng) hay( âm tiết) và yêu cầu cơ bản của chính tả Tiếng Việt là viết đung t ng
tiếng một.
Ví dụ: “ Công cha như nui Thái Sơn”. Là một câu nói gồm 6 tiếng phân biệt rạch ròi,
khi một tiếng được viết lên trang giấy ta sẽ có một chữ.
Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết đung chính tả,
việc nắm nghia của t rất quan trọng. Hiểu nghia của t là một trong những cơ sở giup học
sinh viết đung chính tả.
Ví dụ: Nếu giáo viên đọc một t có hình thức ngữ âm là/ za/ thì học sinh có thể lung
tung trong việc xác định hình thức chữ viết của t này. Nhưng nếu đọc ( gia đình) hoặc ( da
dẻ) hay( ra vào), đọc trọn vẹn t , mỗi t gắn với một nghia xác định, thì học sinh dễ dàng
viết đung chính tả. Vì vậy, có thể hiểu răng chính tả Tiếng Việt còn là loại chính tả ngữ
nghia. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt.
Khi viết chính tả, học sinh chỉ chu ý nghe giáo viên phát âm chứ không hề chu ý đến nghia
của t để viết cho đung. Vì lẽ đó mà chung ta thường thấy nhiều học sinh hoàn thành tốt
trong giờ chính tả nhưng ở các môn học khác lại mắc rất nhiều lỗi chính tả.
Muốn khắc phục được những hạn chế, thiếu sót đó người giáo viên cần bổ sung, điều
chỉnh mục tiêu môn chính tả sao cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ trách và
nhắc nhở phân tích các t ngữ mà học sinh thường viết sai, thường gặp trong các môn học
khác để học sinh hiểu nghia của t và luôn viết đung chính tả. Hơn nữa khi đọc bài các em
thường đọc chưa chính xác các tiếng có phụ âm đầu: v/ b; l/ đ; th/ t; nh/ d/ r/ gi;… Vì thế cho
nên khi viết hay nhầm lẫn, giáo viên cần phân tích rõ ràng cho học sinh hiểu để tránh viết
sai. Trong khi viết chính tả cần phân tích, so sánh để học sinh nắm được nghia của t thì học
sinh mới viết đung mọi luc, mọi nơi. Như vậy băng phương pháp này học sinh sẽ có thói
quen viết chính tả theo nghia của t .
Qua thực tế thực nghiệm đề tài “ Biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4”. Đối
với học sinh lớp 4E năm học 2015 – 2016 do tôi chủ nhiệm, qua một năm học vận dụng vào
giảng dạy và ren chữ viết cho các em kết quả được nâng lên rõ rệt.
Cụ thể: Qua khảo sát đầu năm học 2015 - 2016, chất lượng chữ viết chính tả của học
sinh lớp 4E .
Tổng số học sinh lớp 4E : 19 em.
Tổng số bài kiểm tra đầu năm học là : 19 bài.
Kết quả khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học 2015 – 2016 như sau :
TSHS
PHÂN
HOÀN THÀNH
CHƯA HOÀN THÀNH
19
MÔN
SL
TL
SL
TL
CHÍNH TẢ
16
84,2%
3
15,8%
- Dưới đây là biểu đồ biểu thị kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn chính tả
năm học 2015 – 2016.
Qua kết quả khảo sát cho thấy chất lượng viết chính tả vẫn còn rất nhiều hạn chế. Nếu
không có biện pháp giảng dạy để ren luyện chữ viết cho học sinh thì sẽ rất khó khăn cho các
em học các môn học khác cũng như học lên các cấp học sau.
CHƯƠNG III:
BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY
PHÂN MÔN CHÍNH TẢ LỚP 4
Việc tìm và đưa ra các biện pháp giảng dạy phân môn chính tả lớp 4, là vấn đề mà mỗi
giáo viên cần phải có trách nhiệm giup đỡ các em. Muốn vậy chung ta những giáo viên đang
trực tiếp giảng dạy bậc học tiểu học phải có cách làm khoa học, cụ thể phải nghiên cứu các
phương pháp dạy học, có nhiều phương pháp và cách nghiên cứu. Tôi nghiên cứu theo các
bước sau:
1. Khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh.
2. Phát hiện lỗi sai mà các em mắc phải.
3. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh viết chưa đung chính tả.
4. Đưa ra một số biện pháp ren viết chính tả và trực tiếp vận dụng các
phương pháp đó trong quá trình giảng dạy phân môn chính tả.
- T đó, tôi đã có một số kinh nghiệm giup học sinh lớp 4 học tốt phân môn chính tả.
1. Ren phát âm đung tiếng ph thông:
Sử dụng biện pháp luyện theo mẫu để ren cho học sinh phát âm đung chuẩn theo tiếng
phổ thông. Ren luyê ̣n phát âm đung chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đung
chuẩn, đồng thời chu ý luyê ̣n phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm
cuối. Việc ren phát âm giáo viên phải chu trọng đến đối tượng học sinh trong lớp mình để
ren luyê ̣n, và việc ren luyê ̣n này phải thực hiê ̣n tốt trong phân môn tập đọc và phải được ren
luyê ̣n thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học, môn học.
Thực tế có thể có những học sinh chỉ phát âm đung khi đọc bài còn khi nói vẫn nói sai
theo tiếng địa phương. Có những em rất khó khăn trong việc phát âm cho đung. Vì hàng
ngày thời gian các em giao tiếp ở nhà nhiều hơn là ở trường nhưng chung ta cũng đ ng nên
nản chí. Mà phải kiên trì ren luyện trong các hoàn cảnh có thể có khi giao tiếp với các em.
Trường hợp các em phát âm đung khi đọc bài còn khi nói vẫn nói sai theo tiếng địa phương
và khi không phát âm đung thì các em cũng có biểu tượng về t ngữ được ren trong đầu để
khi các em viết không bị sai.
2. Hướng dẫn phân biệt chính tả băng phân tích, so sánh:
Song song với việc phát âm, giáo viên cần áp dụng biê ̣n pháp phân tích cấu tạo của
tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn, phát hiê ̣n và chỉ ra những điểm khác nhau để học sinh
lưu ý và ghi nhớ khi thực hiê ̣n viết chính tả.
Ví dụ:
- s/x: cây xả/cây sả - xa mạc/sa mạc – sa sôi/xa xôi…
-ng/nh: bên thành/bên thàng.
-uôi/ui: cây chuối/cây chui, muối/mui…
- ươi/ ưi: bưởi/bửi, tươi cười/ tưi cười. hai mưi…
Cho học sinh phân tích tiếng
- bưởi= b+ ươi+ dấu hỏi; bửi = b+ ưi+ dấu hỏi
thành = th+ anh+ dấu huyền.
thàng = th+ ang+ dấu huyền.
So sánh để thấy sự khác nhau: tiếng “bưởi” có vần “ươi”, tiếng “bửi” có vần “ưi”...
HS ghi nhớ điều này, khi viết các em sẽ không sai
Cho học sinh phân biệt r/ d/ gi (hoặc ch/tr…) băng cách tìm các tiếng lập bảng.
r
- rạo: rạo rực
rào rạo, rệu rạo….
d
dạo: dạo nào
dạo chơi, dạo này
gi
không có
3. Phân biêṭ nghia của t :
Đây cũng là mô ̣t biê ̣n pháp nhăm khắc phục học sinh tiểu học chung ta đỡ sai chính
tả. Vì muốn viết đung chính tả phải hiểu nghia của t chính xác. Viê ̣c giải nghia t
thường được thực hiê ̣n trong tiết Tâ ̣p đọc, Luyê ̣n t và câu… và nhất là trong tiết Chính
tả cũng là mô ̣t biê ̣n pháp tích cực giup học sinh khi các em không thể phân biê ̣t t khó
dựa vào phát âm hoă ̣c phân tích cấu tạo tiếng.
Ví dụ:
+ Phân biệt : muối/mui
- muối: Có dạng hạt,vị mặn dùng đề làm gia vị nấu ăn…
- mui: là một bộ phận của quả: mui cam, mui bưởi…
+ Phân biê ̣n “thành” và “thàng” (trong t đơn).
- bên thành= mặt xung quanh của vật.
- bên thàng: không có nghia.
+ Phân biê ̣t “củng” và “cũng”:
Củng = củng cố
Cũng = cũng làm, cũng được.
Đă ̣c biê ̣t với những t nhiều tiếng, t nhiều nghia giáo viên phải đă ̣t t đó trong
văn cảnh cụ thể để gợi lại nghia t hoă ̣c giup học sinh giải nghia t .
4. Vâ ̣n dụng củng cc băng các bài tâ ̣p chính tả:
Giáo viên cần cho học sinh thực hiê ̣n các dạng bài tâ ̣p chính tả khác nhau để giup
học sinh tâ ̣p vâ ̣n dụng các kiến thức đã học, làm quen với viê ̣c sử dụng t trong văn
cảnh thể. Sau mỗi lần làm bài tâ ̣p, giáo viên giup học sinh rut ra các quy tắc chính tả để
các em ghi nhớ.
Tóm lại những viê ̣c làm trên để giup các em viết đung chính tả thì những viê ̣c làm
đó phải thường xuyên, liên tục trong mọi luc, mọi nơi, mọi tiết dạy.
CHƯƠNG IV :
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Sau khi nắm bắt được những đối tượng sai chính tả nhiều. Tôi bắt đầu áp dụng biê ̣n
pháp trên mô ̣t cách thường xuyên trong mỗi tiết dạy Tâ ̣p đọc, Luyê ̣n t và câu, Chính tả
và trong các trường hợp giao tiếp với học sinh. Cụ thể như sau:
Ví dụ: Các em đọc yếu thường chính tả viết sai. Trong giờ Tâ ̣p đọc tôi ren luyê ̣n
cho các em cách phát âm những t , tiếng các em đọc sai. Sau đó cho các em luyê ̣n đọc
nhiều lần và giao bài về nhà. Cụ thể như em Đinh Văn Thi, Đinh Văn Tiểu, Đinh Thị
Loan,… đọc yếu, viết chính tả hay sai tôi giao về nhà đọc đoạn tâ ̣p đọc nào đó và viết
lại đoạn đó. Hôm sau đem lên thầy giáo kiểm tra.
Qua những tiết Luyê ̣n t và câu giup các em phân biê ̣t nghia của t , phân tích cấu
tạo tiếng nhăm giup các em hiểu nghia của t để viết chính tả đung, nhất là các em được
ren luyê ̣n qua các bài tâ ̣p ứng dụng.
Ngoài ra những em hay viết sai chính tả còn được ren luyê ̣n trong những tiết ôn
Tiếng Viê ̣t.
Sau 8 tháng thử nghiệm tại lớp 4E trường tiểu học Sơn Cao năm học 2015- 2016 về khả năng
viết đung chính tả của học sinh, tôi thu được kết quả như sau:
TSHS
PHÂN
HOÀN THÀNH
CHƯA HOÀN THÀNH
19
MÔN
SL
TL
SL
TL
CHÍNH TẢ
19
100%
0
0%
Qua những biê ̣n pháp trên tôi nhâ ̣n thấy tỉ lệ học sinh viết đung chính tả ngày được
nâng cao rõ rệt.
Trong quá trình dạy học, với viê ̣c áp dụng các biê ̣n pháp trên tôi nhâ ̣n thấy học sinh
đã có tiến bô ̣ khá rõ rê ̣t. Tuy nhiên để duy trì được kết quả này thì viê ̣c làm trên phải
được tiến hành thường xuyên, liên tục, để ren cho học sinh có thói quen “viết đung”
trong mọi trường hợp.
Ngoài ra, viê ̣c kiểm tra “viết đung chính tả” của giáo viên đối với học sinh không
chỉ ở môn chính tả mà còn kiểm tra ở các em những môn khác như môn Tâ ̣p làm văn,
Luyê ̣n t và câu, các tiết kiểm tra Khoa học, Địa lý…
PHẦN III :
KẾT LUẬN CHUNG
1/ Ý nghia của đề tài :
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy học sinh chưa
hoàn thành phân môn chính tả. Giup giáo viên t ng luc cân băng trình độ học sinh trong lớp
học; giup học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ
học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
2/ Khả năng ứng dụng triển khai :
Đề tài đang trong bước đầu thực hiện có hiệu quả. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng
và triển khai cho tất cả giáo viên trong đơn vị cùng thực hiện và bổ sung để việc dạy học
sinh chưa hoàn thành phân môn chính tả đạt hiệu quả cao hơn.
3/ Bài học kinh nghiệm:
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghi, muốn giup đỡ đối tượng học
sinh chưa hoàn thành phân môn chính tả, giáo viên chủ nhiệm cần phải nhiệt tình, năng nổ,
phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhăm lôi cuốn
học sinh học tập tích cực. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong
nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải
tạo sự đoàn kết, yêu thương giup đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo
cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ
thái độ bình tinh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các
em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em
để t đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh rất thích được động viên khen thưởng,
giáo viên không nên dùng hình phạt làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin
để các em an tâm học tập.
* Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học
sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc
chắn răng các em học sinh chưa hoàn thành sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy
khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực
của chính bản thân của các em thì chung ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với
các em. Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng răng: Đây sẽ là một tài liệu
nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm
thích hợp. Hơn thế nữa, giup đỡ học sinh chưa hoàn thành phân môn chính tả là nghia vụ,
trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm băng cái tâm của người thầy và hãy
nhận lấy trách nhiệm về mình. Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ.
Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản
thân và sự chia sẽ của bạn be đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giup đỡ đối
tượng học sinh chưa hoàn thành. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc
nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao
nhất.
4/ Những kiến nghị, đề xuất :
Phòng giáo dục và đào tạo huyện Sơn Hà, cụm chuyên môn Cao, Linh, Giang, Ban
Giám hiệu trường tiểu học Sơn Cao thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng học sinh
chưa hoàn thành nói chung. Cụ thể là học sinh chưa hoàn thành phân môn chính tả để cho
giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Để hoàn thành sáng kiếm kinh nghiệm này, tôi xin chân thành cảm ơn : Phòng giáo dục
và Đào tạo huyện Sơn Hà, Ban giám hiệu Trường tiểu học Sơn Cao, đã phát động thi đua
viết sáng kiến kinh nghiệm, nhăm khuyến khích chung tôi những người thầy giáo, cô giáo,
nghiên cứu chuyên môn tích lũy kinh nghiệm, làm giàu vốn kinh nghiệm cho bản thân.
Trong quá trình nghiên cứu chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thiếu sót, rất mong sự góp
ý của đồng nghiệp, của các cấp lãnh đạo để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành
cảm ơn !
XÁC NHẬN
Sơn Hà, ngày 10 tháng 01 năm 2017
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là đề tài NCKH,
SK bản thân thực hiện, không sao chép nội
dung của người khác, nếu vi phạm chịu xử
lý theo quy định.
Người thực hiện đề tài
Nguyễn Dũng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Công văn 600/GD&ĐT Sơn Hà, ngày 09 tháng 12 năm 2016 về việc chấm điểm thi
đua khen thưởng làm căn cứ xét khen thưởng cuối năm và hướng dẫn hoạt động của cụm thi
đua cấp học.
2/ Số liệu, chất lượng học tập của học sinh lớp 4 ở đầu năm học 2015 – 2016 và cuối
năm học 2015 – 2016;
3. Sách Tiếng Việt lớp 4, tập 1+ 2.
4. Dạy và học chính tả ở tiểu học, Hoàng Văn Thung- Đỗ Văn Thảo, Nhà xuất bản Giáo
Dục.
5. Chữa lỗi chính tả cho học sinh, Phan Ngọc, Nhà xuất bản Giáo Dục.
- Xem thêm -