Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp ...

Tài liệu Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực

.PDF
104
270
123

Mô tả:

§¹i häc Th¸i Nguyªn TRƯỜNG §¹i häc SƯ ph¹m ------------------------------- ®OµN THÞ THUú D¦¥NG RÌN LUYÖN THAO T¸C LËP LUËN SO S¸NH CHO HäC SINH LíP 11 THEO QUAN §IÓM TÝCH HîP Vµ TÝCH CùC luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc gi¸o dôc Th¸i Nguyªn - 2008 §¹i häc Th¸i Nguyªn TRƯỜNG §¹i häc SƯ ph¹m ------------------------------- ®OµN THÞ THUú D¦¥NG RÌN LUYÖN THAO T¸C LËP LUËN SO S¸NH CHO HäC SINH LíP 11 THEO QUAN §IÓM TÝCH HîP Vµ TÝCH CùC Chuyªn ngµnh: LL & PP d¹y häc v¨n M· sè: 60.14.10 luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc gi¸o dôc Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. l£ A Th¸i Nguyªn - 2008 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những gì mình đề xuất. Chính vì thế, văn nghị luận Việt Nam đã hình thành từ xa xưa cùng với sự phát triển của tư tưởng và văn hoá giáo dục của dân tộc. Nó là phương tiện đắc lực giúp vào quá trình phát triển ấy. Trong nhà trường, việc rèn luyện viết văn nghị luận là yêu cầu rất trọng yếu trong quá trình học tập. Văn nghị luận giúp cho học sinh tập vận dụng tổng hợp các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào việc làm văn, rèn luyện kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc phát triển tư duy khoa học, tư duy lí luận ở họ. Những đề bài nghị luận đặt ra những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải huy động những hiểu biết lí luận và thực tiễn để giải quyết, nhằm xây dựng cho họ một phương pháp, tư tưởng khoa học để có nhận thức đúng và thái độ đúng trước những vấn đề bàn luận, cũng tức là giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để tiến tới những hành động đúng đắn, tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện tại và tương lai. Để học sinh phổ thông tạo được những văn bản hay, đầy sáng tạo, việc dạy các em sử dụng tốt các thao tác lập luận là vô cùng quan trọng. Vì vậy, sách giáo khoa Ngữ Văn từ THCS (Trung học cơ sở) đến THPT (Trung học phỏ thông) đã đưa các thao tác lập luận thành từng nội dung cụ thể (ở sách giáo khoa Làm văn trước đây các thao tác lập luận này chưa được học một cách rõ ràng, cụ thể), nhằm giúp học sinh hiểu sâu bản chất các thao tác cụ thể, từ đó vận dụng tốt các thao tác đó trong quá trình tạo lập văn bản. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Sách giáo khoa Ngữ Văn THCS đã cung cấp cho học sinh hai thao tác lập luận là thao tác chứng minh, thao tác giải thích, đến sách giáo khoa Ngữ văn THPT - SGK Ngữ văn 11 - phần Làm văn giới thiệu thêm bốn thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bác bỏ, và bình luận. Bốn thao tác lập luận này là trọng tâm phần Làm văn của sách Ngữ văn lớp 11. Trong đó thao tác lập luận so sánh là một thao tác lập luận rất quan trọng để làm sáng rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác. Thao tác này là một nội dung rất mới lần đầu tiên đưa vào dạy ở trường phổ thông theo tinh thần đổi mới nên rất khó đối với giáo viên. Bên cạnh đó chưa có một công trình nào, một chuyên đề nào nghiên cứu về cách rèn luyện thao tác lập luận so sánh theo hướng tích hợp và tích cực nên chúng tôi mạnh dạn đi nghiên cứu vấn đề này với mong muốn phần nào giúp cho người giáo viên bớt đi những khó khăn, lúng túng khi rèn luyện cho học sinh: “Thao tác lập luận so sánh” trong SGK (sách giáo khoa) Ngữ văn 11. Với những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực”. 2. Lịch sử vấn đề So sánh là một thao tác của hoạt động tư duy lôgíc nhằm giúp con người tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt khi đưa đối tượng này ra đối chiếu với đối tượng khác dựa trên một tiêu chí nào đó, từ đó nhận thức sâu sắc và làm nổi bật đối tượng. Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê (chủ biên) đã đưa ra cách hiểu về so sánh là:“nhìn vào cái này để thấy cái kia, để thấy sự giống và khác nhau hoặc sự hơn kém” [30, tr.861]. Cuốn “Phong cách học Tiếng Việt hiện đại” của tác giả Hữu Đạt cũng đưa ra khái niệm so sánh là việc “đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống và khác nhau giữa chúng”[13, tr.294]. Cuốn “Giáo trình tâm lí học đại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 cương”, tác giả Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) đã đưa ra cách hiểu về so sánh “là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng)”[49, tr.116]. Như vậy, cách hiểu về so sánh của “Từ điển Tiếng Việt”, của tác giả Hữu Đạt và của giáo trình tâm lí học đại cương đều có quan điểm chung về so sánh là để thấy sự giống và khác nhau của các sự vật, hiện tượng, từ đó thấy rõ đặc điểm và giá trị của mỗi sự vật, hiện tượng. Cuốn “Lôgic học” của tác giả Phan Trọng Hoà tuy không trực tiếp bàn về so sánh, nhưng đã bàn đến việc đem so sánh các sự vật, hiện tượng với nhau mà hình thành các phán đoán, nhận xét. Chẳng hạn, để hình thành khái niệm niệm “nước”, con người phải trải qua một quá trình phân tích, so sánh, đối chiếu nó với một số chất khác gần gũi với nó như “không khí”, “mực”, “dầu”,” “rượu trắng”… và cuối cùng người ta rút ra một số nhận xét “nước trong suốt”, “nước không có màu”, “nước không có mùi”, “nước không có vị”…[19, tr.46]. Như vậy so sánh là thao tác lôgic dùng để rút ra các phán đoán, nhận xét để nhận thức đối tượng được cụ thể. Và để so sánh, người ta phải dựa trên cùng một tiêu chí, nếu khác tiêu chí, so sánh sẽ trở nên khập khiễng, thiếu sức thuyết phục, từ đó dễ dẫn đến nhận xét, đánh giá sai lệch. Tác giả Ngô Doãn Tá trong “Giáo trình lôgic học” đưa ra ba dạng định nghĩa bằng so sánh: so sánh tương đồng, so sánh ngược, so sánh khác biệt [46, tr.69- 70]. Như vậy so sánh là thao tác lôgic đem đối tượng này đặt cạnh đối tượng khác vạch ra các dấu hiệu “tương tự dấu hiệu cơ bản của đối tượng trong các đối tượng khác” hay “dấu hiệu không tồn tại ở đối tượng cần định nghĩa nhưng lại có trong đối tượng dùng để so sánh với nó khi định nghĩa”. Từ đó chúng ta có thể hiểu muốn nhận thức đối tượng sâu sắc cần so sánh, đặt nó với đối tượng khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Trong thực tế đời sống, trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta rất hay dùng biện pháp so sánh, đối chiếu để làm nổi bật đặc điểm riêng, những nét riêng độc đáo của một đối tượng nào đó. Như thế, so sánh là một thao tác nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật hoặc là các mặt trong cùng một sự vật để thấy sự giống và khác nhau. So sánh cũng được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông như một thao tác chủ đạo. Đây là một thao tác thúc đẩy quá trình vận động tư duy để tìm tòi cái mới Trong Làm văn, khi bàn về thao tác lập luận so sánh, tác giả Nguyễn Quốc Siêu trong sách “Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông” mặc dù không trình bày cụ thể về những thao tác lập luận trong văn nghị luận nhưng tác giả nói tới bản chất của luận chứng lập luận trong văn nghị luận phải có tính lí, và một trong những cách thức vận dụng kĩ năng thuyết lí là “phương pháp lấy vật làm sáng tỏ lí bằng so sánh”, “phương pháp minh hoạ hình tượng bằng so sánh”. Từ đó tác giả khẳng định rằng việc so sánh các đối tượng không phải tuỳ tiện mà phải tuân theo một nguyên tắc: lấy những đặc tính này của một hiện tượng để so với một đặc trưng cùng loại của một hiện tượng khác. Bằng cách này để trình bày lí lẽ làm cho cái lí trình bày được sáng sủa, sinh động và giàu hình ảnh [46,tr.221]. Cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Quốc Siêu, tác giả Bảo Quyến trong cuốn “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận” cũng cho rằng nói tới so sánh là nói tới“thao tác đối chiếu nhằm tìm ra cái chung và sự khác biệt giữa các đối tượng, các vấn đề” [32,tr.14]. Như vậy, tác giả đã diễn giải một cách tường minh bản chất của so sánh là thao tác đối chiếu các sự vật, hiện tượng. Đem đối chiếu để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm trong quá trình lập luận. Và tác giả cũng chỉ ra rõ nét tác dụng to lớn của lập luận so sánh là: “nhấn mạnh những nét độc đáo, đặc sắc trong ý kiến của mình để tăng thêm sức hấp dẫn, thuyết phục của bài văn” [32, tr.14]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Trong cuốn “Luyện tập cách lập luận trong đoạn văn nghị luận” tác giả Nguyễn Quang Ninh (chủ biên), Trần Hữu Phong, Nguyễn Thị Ban lại cho rằng lập luận bằng “so sánh tương đồng là đi từ cái đã biết để suy ra cái chưa biết, để từ đó thừa nhận cái chưa biết và cái đã biết có những nét tương tự nhau” [28, tr.66]. Ngược lại, lập luận bằng cách “so sánh tương phản là cách lập luận theo kiểu đối chiếu đối tượng này với đối tượng khác trong sự tương phản lẫn nhau nhằm khẳng định một trong hai đối tượng cần hướng tới”[29, tr.67]. Cách hiểu như vậy về lập luận so sánh của các tác giả có phần cụ thể hơn về so sánh trong văn nghị luận. Cũng cách hiểu về so sánh, Sách giáo khoa Làm Văn 12 do Trần Đình Sử(chủ biên) chương trình CCGD, cũng đưa ra cách luận chứng trong văn nghị luận bằng cách: “so sánh tương đồng là từ một chân lí đã biết suy ra một chân lí tương tự, có chung một lôgic bên trong, so sánh tương phản là đối chiếu các mặt đối lập nhau để làm nổi bật luận điểm” [45,tr.17-18]. Trong giáo trình Làm văn của Lê A- Đình Cao quan niệm “tính chất cơ bản của phương pháp so sánh là đối chiếu một cách tường minh các đối tượng, các sự kiện, các vấn đề để phát hiện ra những nét giống nhau và khác nhau giữa chúng”[3,tr.221] và “thực chất của nội dung so sánh là phân tích (phân tích bằng cách đối sánh, đặt sóng đôi) hai đối tượng, hai vấn đề, thường là đối chiếu vật không biết hoặc ít biết với một sự vật quen thuộc cốt làm cho ý nghĩa của chúng rõ hơn, dễ nhận biết hơn” [3, tr.222]. Yêu cầu cơ bản của phép so sánh này là tính chính xác, chúng phải nằm trong một phạm trù, một bản chất tự nhiên nào đó, nếu không sự so sánh sẽ không có giá trị. Các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh trong cuốn “ Muốn viết được bài văn hay” nhấn mạnh: “so sánh là một biện pháp hết sức cần thiết trong văn nghị luận. Một mặt nó làm sáng tỏ vấn đề đang nghị luận, mặt khác nó chứng tỏ người viết có kiến thức phong phú, rộng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 rãi”. Tuy nhiên, các tác giả cũng cho rằng “nếu căn cứ vào hình thức nghị luận để chia ra các kiểu bài thì so sánh cũng là kiểu bài tương đương với chứng minh, giải thích, bình luận…Bởi vì so sánh văn học không đơn thuần chỉ là một thao tác tư duy lôgic mà trên cơ sở của thao tác nó phát triển thành nghị luận, tức hàm chứa trong nó nhiều thao tác nhỏ nữa như giải thích, đối chiếu, liên hệ…”.Từ sự phân tích trên, các tác giả cho rằng “phân chia kiểu bài nghị luận theo thao tác( cho dù là thao tác nghị luận) là phức tạp” [27, tr.16-17]. Cuốn Làm văn của Lê A- Nguyến Trí cũng nhấn mạnh: “Phân chia các kiểu bài văn nghị luận có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng trên thực tế cơ sở lí thuyết phân thành các kiểu bài đó là dựa trên thao tác tư duy” [6,tr.142]. Theo các tác giả, việc chia các kiểu bài chỉ dựa vào các thao tác nghị luận chủ yếu là chưa thoả đáng. Sự phân chia này giúp học sinh dễ nhận biết bản chất từng thao tác cụ thể, nhưng lại khiến cho các em có cách hiểu bó hẹp, khiên cưỡng khi làm văn nghị luận. Bởi trong thực tế không có bài làm văn nghị luận nào chỉ đơn thuần sử dụng một thao tác lập luận mà nó là sự kết hợp nhiều thao tác lập luận. Hiện nay, các tác giả sách giáo khoa Ngữ văn biên soạn đã tách các thao tác lập luận thành từng bài riêng với mục đích giúp học sinh nắm bản chất từng thao tác lập luận, từ đó có cách hiểu rộng hơn, sâu hơn về mỗi thao tác, đồng thời giúp các em vận dụng linh hoạt các thao tác này vào quá trình viết bài làm văn nghị luận. Trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tác giả Lê A- chủ biên phần Làm văn (bộ cơ bản), Đỗ Ngọc Thống- chủ biên phần Làm văn (bộ nâng cao), đã thống nhất quan điểm không dựa vào các thao tác lập luận để chia nhỏ văn bản nghị luận thành nhiều loại: chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận… và khẳng định mỗi thao tác lập luận có thể sử dụng ở nhiều kiểu bài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 nghị luận khác nhau, và ở một bài nghị luận có thể sử dụng nhiều thao tác lập luận khác nhau. Thao tác lập luận so sánh không chỉ có mặt trong các kiểu bài mà thao tác này còn có mối liên hệ mật thiết với các thao tác khác : phân tích, bác bỏ, bình luận… Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thực tế viết văn lại vừa tạo điều kiện để luyện tập cho học sinh biết cách sử dụng thao tác lập luận trong suốt quá trình học văn nghị luận từ THCS đến THPT và ứng dụng vào việc học tập cũng như cuộc sống sau này. Cho đến nay, thao tác lập luận so sánh mới chỉ được đề cập mang tính định hướng chung trong các sách giáo viên (bộ cơ bản và bộ nâng cao) và trong tài liệu bồi dưỡng giáo viên lớp 11- môn Ngữ văn, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về vấn đề này. Và cũng chưa có một công trình nghiên cứu nào đưa ra cách rèn luyện thao tác lập luận so sánh theo hướng tích hợp và tích cực. Thực hiện luận văn này, chúng tôi nhằm góp phần mở ra một hướng tiếp cận mới trong quá trình dạy học thao tác lập luận, mà cụ thể là rèn luyện “thao tác lập luận so sánh” trong SGK Ngữ văn 11. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực” nhằm xây dựng cơ sở lí thuyết và thực tiễn của thao tác lập luận so sánh. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất cách thức tổ chức dạy học theo hướng thích hợp, tích cực nhằm nâng cao định hướng dạy học văn nghị luận nói chung và thao tác lập luận nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực” nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 - Tìm hiểu, xác định cơ sở lí thuyết và thực tiễn cho việc dạy học thao tác lập luận so sánh. - Đề xuất nội dung, cách tổ chức dạy học thao tác lập luận so sánh ở lớp 11 thông qua bài thiết kế. - Tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của những đề xuất trong luận văn đã đề ra. 4. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu quá trình dạy và học thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11. Phạm vi: các bài học thao tác lập luận so sánh và các bài có quan hệ với bài học này như: thao tác lập luận so sánh, luyện tập thao tác lập luận so sánh, luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh, bài làm văn số 2, 3.. Giới hạn chủ yếu nghiên cứu dạy học thao tác lập luận so sánh theo sách giáo khoa lớp 11- chương trình chuẩn, có liên hệ với chương trình sách giáo khoa 11- nâng cao. 5. Các phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực” chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp thống kê Đây là một trong những phương pháp của toán học. Chúng tôi sử dụng phương pháp này để xử lí các số liệu thu thập được trong quá trình điều tra thực nghiệm. 5.2. Phương pháp điều tra khảo sát Chúng tôi sử dụng phương pháp này để tìm hiểu việc giảng dạy và học tập, rèn luyện kĩ năng so sánh trong văn nghị luận cho học sinh lớp 11. Qua đó nắm được thực trạng dạy- học Làm văn ở trường THPT. Từ đó nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 đề tài một cách tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Làm văn ở nhà trường THPT. 5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Phương pháp này được thực hiện ở một số phương diện sau: - Xây dựng cơ sở thực nghiệm sư phạm thông qua các bài thiết kế nội dung dạy học. Cơ sở thực nghiệm được xác định dựa vào các tri thức về giáo dục, tâm lý, về trình độ nhận thức của từng đối tượng và căn cứ vào hệ thống tri thức về thao tác lập luận so sánh trong chương trình Ngữ văn lớp 11. - Tổ chức thực hiện giảng dạy ở trường phổ thông. - Thông qua quá trình thực hiện giảng dạy, đánh giá nhận thức của học sinh từ đó đưa ra một số đề xuất về việc giảng dạy các thao tác lập luận trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, đồng thời khẳng định mức độ thành công của đề tài. 6. Bố cục của luận văn Để triển khai nội dung nghiên cứu chúng tôi chia luận văn thành 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận. Phần mở đầu luận văn trình bày những nội dung cơ bản có tính định hướng trong việc nghiên cứu nội dung đề tài là: lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng - phạm vi nghiên cứu, mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu. Ngoài ra trong phần mở đầu, chúng tôi còn giới thiệu về bố cục của luận văn, qua đó đánh giá tầm quan trọng của việc nghiên cứu đề tài này. Phần nội dung của luận văn được triển khai trong 3 chương, trong đó mỗi chương được chúng tôi trình bày các phương diện khác nhau của đề tài. Cụ thể: Chương 1: Tập trung trình bày cơ sở lí luận về so sánh, thao tác lập luận so sánh trong văn nghị luận và những vấn đề cơ bản nhất của thao tác lập luận so sánh trong văn nghị luận. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Chương 2: căn cứ vào cơ sở lí luận về thao tác lập luận so sánh đã được trình bày ở chương 1, triển khai nội dung rèn luyện về thao tác lập luận so sánh trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11. Qua đó chúng tôi xây dựng quy trình về dạy học thao tác này qua bài học cụ thể về thao tác lập luận so sánh trong SGK Ngữ văn 11. Chương 3: sau khi đã trình bày những vấn đề cơ bản của việc tổ chức dạy học về thao tác lập luận so sánh, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm thao tác lập luận so sánh và bài luyện tập thao tác lập luận so sánh trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11. Thông qua việc tổ chức thực nghiệm, chúng tôi đánh giá việc triển khai dạy học, thái độ học tập và nhận thức của học sinh, đồng thời cũng đánh giá việc sử dụng thao tác lập luận của học sinh khi các em tạo lập văn bản nghị luận. Tiếp nối phần nội dung là phần kết luận của luận văn. Đây chính là nội dung cuối cùng của luận văn. Trong phần này, chúng tôi khái quát lại hệ thống vấn đề đã được triển khai trong các phần trên và qua đó chúng tôi trình bày một số đề xuất cho việc dạy thao tác lập luận so sánh ở sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 SO SÁNH VÀ THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH TRONG VĂN NGHỊ LUẬN 1.1. SO SÁNH VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT THAO TÁC CỦA TƯ DUY 1.1.1. Khái niệm về thao tác Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì thao tác được định nghĩa như sau:“thực hiện những động tác nhất định để làm một việc gì đó trong sản xuất” [30, tr.917]. Trong tâm lí học, thao tác được xem là hệ thống những hành động trong tư duy. Thao tác chính là cốt lõi của các cách thức hành động bị quy định và phụ thuộc chặt chẽ bởi phương tiện, điều kiện cụ thể. Thao tác là một yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động của con người. Nó nảy sinh từ nhu cầu hành động của con người. Nhu cầu ấy chi phối tới việc xác định hành động nhu thế nào để đạt được những mục đích cụ thể, hành động đó nhằm đạt được những nhiệm vụ gì. Thao tác là cách để làm nên nội dung hành động. Vì vậy, nó là yếu tố có tính chất cơ động, kĩ thuật, có thể lắp ghép trong các chuỗi hành động miễn sao nó phù hợp với mục đích thực hiện hành động đó. 1.1.2. Khái niệm chung về tư duy Trong thực tiễn cuộc sống, có rất nhiều cái mà ta chưa biết, chưa hiểu. Song để làm chủ được thực tiễn, con người cần phải hiểu thấu đáo những cái chưa biết đó, phải vạch ra cái bản chất, mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật của chúng. Quá trình đó gọi là tư duy. “Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan mà trước đó ta chưa biết” [49, tr.106]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Như vậy, tư duy chính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí. Thuộc mức độ nhận thức cao- nhận thức lí tính, tư duy có những đặc điểm cơ bản: tính “có vấn đề” của tư duy, tính gián tiếp của tư duy, tính trừu tượng hoá và khái quát hoá, tư duy có quan hệ chặt chẽ tới ngôn ngữ và có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính. Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đấy nảy sinh trong nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Từ khi chủ thể gặp “tình huống có vấn đề”, nhận thức được vấn đề đến khi giả quyết được vấn đề là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn. Nhà tâm lí học K.K. Platônôp đã tóm tắt các giai đoạn của một quá trình tư duy bằng sơ đồ dưới đây: Nhận thức vấn đề Xuât hiện các liên tưởng Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết Kiểm tra giả thuyết Chính xác hoá Khẳng định Giải quyết vấn đề Phủ định Hành động tư duy mới Đây chính là logic của tư duy. Số lượng các giai đoạn có thể không cần đầy đủ trong những trường hợp nhất định, nhưng thứ tự các giai đoạn phải tuân thủ theo sơ đồ trên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Tính giai đoạn của tư duy chỉ phản ánh được mặt bên ngoài, cấu trúc bên ngoài của tư duy, còn nội dung bên trong mỗi giai đoạn của quá trình tư duy lại là một quá trình phức tạp, diễn ra trên cơ sở của các thao tác tư duy đặc biệt. Xét về bản chất, tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ để giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ được đặt ra. Cá nhân có tư duy hay không chính là ở chỗ họ có tiến hành các thao tác tư duy trong đầu mình hay không. Các thao tác tư duy cơ bản để nhận thức thế giới là: phân tích- tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hoá. Trong đó, các thao tác tư duy có mối liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau theo một hướng nhất định, do nhiệm vụ tư duy quy định. 1.1.3. Quan niệm về so sánh trong tư duy lôgic So sánh vốn là một thao tác cơ bản của tư duy logic. Để tìm hiểu về đối tượng nào đó, xây dựng khái niệm về đối tượng, tìm hiểu đặc điểm và giá trị của nó thì ta cần phải so sánh. Đó là thao tác trong tư tưởng đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác để thấy sự tương đồng và sự khác biệt giữa chúng. Thường là đối chiếu một vật không biết hoặc ít biết với một sự vật quen thuộc, cốt làm cho ý nghĩa của chúng rõ ràng hơn, dễ nhận biết hơn. Đây là thao tác thúc đẩy quá trình vận động của tư duy để tìm ra cái mới. Nói cách khác, so sánh thực ra là phân tích (phân tích bằng cách đặt sóng đôi) hai đối tượng, hai vấn đề trên cơ sở sự giống và khác nhau giữa chúng. Ví dụ trong hoá học có so sánh hai loại khí oxi và nitơ, trong sinh học so sánh cây một lá mầm và cây hai lá mầm, trong cuộc sống có so sánh người tốt- xấu, cao thấp, gầy béo… So sánh các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan để tìm hiểu sâu sắc xem chúng có điểm tương đồng nào đó nhằm tìm ra cái chung và cái riêng của các sự vật, hiện tượng, tức là người ta đem sự vật này ra đặt sóng đôi với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 sự vật khác, đối chiếu chúng với nhau, phân tích kĩ từng sự vật, hiện tượng, tìm hiểu, khám phá chúng, dùng trí óc để tìm hiểu xem các sự vật, hiện tượng đem ra so sánh có điểm chung nào đấy về thuộc tính bên ngoài hay về bản chất bên trong. Muốn như vậy thì phải tiến hành phân tích, chia nhỏ đối tượng đem ra so sánh, nghiên cứu chúng trong sự thống nhất hoàn chỉnh các dấu hiệu có quan hệ qua lại với nhau, tìm các mối liên hệ và sự phụ thuộc của chúng, tìm sự giống nhau và khác biệt của các mối quan hệ, từ đó đưa ra kết luận về điểm tương đồng và dị biệt của các dấu hiệu được so sánh. Xuất phát từ những nghiên cứu dựa trên cơ sở tính khoa học, lôgic học đã đưa một định nghĩa khái quát về so sánh như sau: “So sánh là thao tác lôgic nhờ đó nêu lên được dấu hiệu của đối tượng bằng cách chỉ ra dấu hiệu tương tự với dấu hiệu ấy trong dấu hiệu khác đã biết là đối tượng đặc trưng nhất” [14, tr40]. Với quan niệm như vậy, so sánh có nghĩa là quá trình chia tách các đối tượng, đặt chúng song song, nghiên cứu kĩ chúng, trên cơ sở dấu hiệu đặc trưng đã biết của sự vật, hiện tượng, tìm dấu hiệu tương tự với nó ở sự vật, hiện tượng khác, từ đó tìm ra cái chung, cái riêng của các sự vật, hiện tượng được so sánh. Như vậy, cấu trúc của so sánh theo so sánh lôgic thường có hai vế “cái so sánh” và “cái được so sánh”, có “từ” chỉ quan hệ so sánh. Ngoài ra, trong so sánh lôgic còn có các tiêu chí so sánh. Trong so sánh lôgic “cái so sánh” là sự vật, hiện tượng nào đấy có những dấu hiệu đặc trưng đã biết được đưa ra để làm chuẩn, “cái được so sánh” là sự vật, hiện tượng chưa biết được đem ra để đối chiếu với những sự vật, hiện tượng đã biết có những dấu hiệu đó, từ đó tìm ra điểm chung và điểm riêng, “từ” dùng để so sánh thể hiện quan hệ so sánh thường được diễn đạt bằng các từ: như, giống như, bằng, hơn, kém… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Ví dụ câu: “Mặt con tròn giống như mặt mẹ”. Ở ví dụ này so sánh theo lôgic có “sự vật được so sánh” là “mặt con”, “sự vật so sánh” là “mặt mẹ”, “từ chỉ quan hệ so sánh”: “như”, tiêu chí được đem ra so sánh là hình dáng khuôn mặt “tròn”. Cách so sánh như thế giúp người ta hình dung dễ dàng khuôn mặt con “tròn” giống với khuôn mặt của mẹ. Theo lôgic học, muốn so sánh được chính xác và tránh khập khiễng thì trong quá trình so sánh phải dựa trên cùng một tiêu chí, chung một bình diện thì so sánh mới cụ thể và mới rút ra kết luận được. Ví dụ, trong hóa học khi so sánh hai loại khí phải lấy tiêu chí phản ứng với chất nào, tác dụng của nó ra sao, trong sinh học so sánh cây một lá mầm với cây hai lá mầm phải dựa trên tiêu chí sự sinh trưởng phát triển trong một môi trường nhất định, sự hấp thu ánh sáng mặt trời… Như vậy, so sánh trong lôgic có tác động rất lớn tới nhận thức của con người, nó giúp người ta hình dung ra sự vật một cách dễ dàng hơn bằng việc lấy một sự vật làm tiêu chí rồi từ đó so với sự vật khác. Nói khác đi, so sánh theo lôgic làm mới tư duy, làm cho tư duy có hình ảnh. 1.2. SO SÁNH VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT THAO TÁC LẬP LUẬN 1.2.1. Thao tác lập luận Lập luận là trình bày hệ thống lí lẽ và luận chứng của mình một cách chặt chẽ, rành mạch, gẫy gọn theo một trật tự hợp lí, đúng với quy luật lôgic nhằm khẳng định hoặc bênh vực một ý kiến, làm sáng tỏ vấn đề mà người nói, người viết cho là đúng đắn. Hay nói một cách khác, lập luận là quá trình liên kết, xâu chuỗi luận điểm, luận cứ nhằm làm rõ luận đề theo một chính kiến, một quan niệm nhất định để người đọc hiểu, tin ở những kết luận mà người viết muốn dẫn người đọc đến. Lập luận là sản phẩm của tư duy lôgic, do vậy lập luận phải có lí lẽ, bằng chứng thuyết phục, lại phải biết trình bày, dẫn dắt sao cho lập luận chặt chẽ, thuyết phục, mặt khác lập luận phải có đích, đích Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 của lập luận là tìm ra những chân lí mới, rút những tri thức này từ những tri thức khác, là con đường đi đến nhận thức chân lí một cách khoa học. Lập luận trong văn nghị luận ngoài có các yếu tố luận điểm, luận cứ, luận chứng, còn có cách lập luận, phương pháp lập luận. Trong đó luận điểm chính là ý kiến xác định của người viết về vấn đề đặt ra. Luận cứ là các tài liệu dùng làm cơ sở cho việc thuyết minh cho luận điểm. Còn luận chứng là sự phối hợp, tổ chức các lí lẽ và dẫn chứng để thuyết minh cho luận điểm, thực chất đây chính là cách đưa luận cứ vào quỹ đạo lôgic để tạo thành sức thuyết phục của luận điểm. Để lập luận, người ta phải sử dụng các thao tác lập luận. Đặc điểm của thao tác này là người viết sử dụng ngôn ngữ để nêu sự thực, trình bày lí lẽ và qua đó đánh giá sự đúng- sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các kiến giải, phát biểu ý kiến, thể hiện rõ lập trường quan điểm của bản thân. Việc trình bày lí lẽ được người viết thể hiện thông qua cac phương thức tư duy lôgic như khái niệm, phán đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt được mục đích khiến người đọc tin theo. Vậy thao tác lập luận chính là thao tác được sử dụng để thực hiện một hành động lập luận. Nói cách khác, thao tác lập luận là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động lập luận. Khi lập luận người ta có thể dùng nhiều thao tác: chứng minh, giải thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Các thao tác này học sinh được học cặn kẽ trong nhà trường từ cấp THCS đến cấp THPT. 1.2.2. Thao tác lập luận so sánh Trong viết văn nghị luận, người ta thường hay sử dụng thao tác lập luận so sánh để làm sáng rõ, vững chắc thêm luận điểm của mình. Để hướng tới kết luận (tức là một luận điểm nào đấy trong bài văn nghị luận: một ý kiến, một nhận định về đối tượng nghị luận), người ta thường so sánh với một hoặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 nhiều đối tượng khác trên cơ sở một nét tương đồng nào đấy. Thông qua so sánh, những đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt của đối tượng nghị luận với đối tượng so sánh được thể hiện bằng sự phân tích, lí giải. Kết quả là, người đọc, người nghe nắm được, hiểu và công nhận tính đúng đắn của ý kiến, nhận định ( kết luận của lập luận) mà người viết, người nói hướng tới. Trong văn nghị luận thường có hai cách lập luận so sánh là: so sánh tương đồng và so sánh tương phản. Lập luận bằng cách so sánh tương đồng là cách lập trình bày hệ thống lí lẽ chặt chẽ, rành mạch bằng cách đối chiếu đối tượng đem ra bàn luận này bên đối tượng khác, vấn đề này bên vấn đề khác trên cơ sở có chung một số nét đồng nhất hay tương tự mà người đọc đã hoặc dễ chấp nhận để làm nổi bật vấn đề cần lập luận, làm cho ý nghĩa của nó thêm bộc lộ rõ nét. Lập luận bằng so sánh tương đồng không có sự đối lập giữa các ý, trái lại các ý nâng đỡ nhau, thuyết minh làm sáng rõ nghĩa cho nhau. Ví dụ: “Nếu ví dư luận của giới văn học như một dòng nước thì Vũ Trọng Phụng như một vật nổi trong một dòng xoáy của nó. Vật nổi này cứ nổi dập dềnh, có khi chìm sâu xuống tưởng như mất tăm, ấy thế mà cuối cùng lại hiện lên, từ tốn, lặng lẽ theo đúng quy luật Acsimet”. So sánh tương đồng ở đây đã nêu bật thân phận đầy long đong, sóng gió của sự nghiệp văn chương Vũ Trọng Phụng như một vật nổi trong dòng nước xoáy. Lập luận so sánh dựa trên sự tương đồng giữa hai đối tượng: Tình trạng trôi nổi, dập dềnh và số phận thăng trầm lận đận của nhà văn. Cách so sánh này giúp tác giả thuyết minh sáng tỏ và gợi cảm cái nét bản chất của đối tượng và nhấn mạnh, tô đậm ý kiến nhận định của mình về nhà văn hiện thực Vũ Trọng Phụng. Lập luận bằng cách so sánh tương phản (đối lập) là cách lập luận theo kiểu đối chiếu đối tượng này với đối tượng khác trong sự tương phản lẫn nhau để nhằm khẳng định một trong hai đối tượng mà lập luận hướng tới. Chẳng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 hạn: “Các cụ ưa chuộng những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt…Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như là một việc tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, các tình gần gụi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu”. Cách so sánh bằng lập luận dựa trên sự đối chiếu các mặt trái ngược nhau giữa quan điểm “thơ cũ” và “thơ mới”, tác giả nhằm bênh vực cho “thơ mới” diễn đạt những tình cảm mới mang màu sắc của thời đại. Như vậy, mục đích của so sánh là làm sáng rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác. So sánh giúp cho người viết văn nghị luận triển khai và phát triển luận điểm một cách thuận lợi và nổi bật, so sánh đúng còn làm cho bài văn nghị luận thêm sáng rõ, cụ thể, sinh động và giàu sức thuyết phục. Thao tác lập luận so sánh trong văn nghị luận về cơ bản gần giống với thao tác so sánh trong lôgic, tức là đem đối chiếu trong tư tưởng hai hay nhiều sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng để thấy được sự giống nhau và khác nhau giữa chúng. Và như vậy thao tác lập luận so sánh cũng có “cái được đem ra so sánh”, “cái so sánh”, tiêu chí so sánh, quan trọng hơn đó là sự tác động vào nhận thức của con người. Song thao tác lập luận so sánh thiên về mặt lập luận nhằm làm cho người đọc, người nghe hiểu sâu sắc hơn về đối tượng bàn luận, dẫn đến một kết luận, một nhận định nào đấy, tin và tán đồng với kết luận đưa ra. Nói cách khác so sánh trong lập luận cần phải đi đôi với nhận xét, đánh giá thì sự so sánh đó mới trở nên sâu sắc. Ngược lại, nhận xét, đánh giá phải dựa trên sự so sánh thì nhận xét đó mới có cơ sở, có sức thuyết phục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan