Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị luận cho học sinh trung học phổ thông...

Tài liệu Rèn luyện kỹ năng lập luận trong văn nghị luận cho học sinh trung học phổ thông

.PDF
148
565
131

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Hà Thị Mỹ Trinh RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Hà Thị Mỹ Trinh RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: LL&PPDH môn Văn Mã số: 601410 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THANH BÌNH Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình từ nhiều phía. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn TS. TRẦN THANH BÌNH đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong và ngoài Trường Đại học Sư Phạm TP. HCM đã hết lòng giảng dạy chúng tôi suốt khóa học. Xin cảm ơn Ban giám hiệu trường ĐH Sư Phạm TP. HCM, phòng Sau đại học, các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã đạo điều kiện tốt nhất để tôi thực hiện luận văn. Xin cảm ơn Ban giám hiệu và các thầy cô giáo tại các trường THPT Marie Curie (Q3), THPT Nguyễn Khuyến (Q5), THPT Lương Văn Can (Q8), TH Thực hành ĐH Sư Phạm (Q5), THPT Thái Bình (Gò Vấp) và trường THPT Nguyễn Thái Học (tỉnh Khánh Hòa, nơi tôi đang công tác) đã tạo điều kiện để tôi thực nghiệm khảo sát trong quá trình làm luận văn. Và cuối cùng, xin cảm ơn gia đình đã luôn động viên, quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất để tôi yên tâm học tập và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC Lời cảm ơn ...................................................................................................... 1 Mục lục ........................................................................................................... 2 Danh mục các chữ viết tắt .............................................................................. 4 Danh mục các bảng ........................................................................................ 5 MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 6 CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG DẠY – HỌC KỸ NĂNG LẬP LUẬN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY.............................................................................. 17 1.1. Khảo sát thực trạng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay........... 17 1.2. Thực nghiệm khảo sát và kết quả thu được........................................... 20 1.3. Kết luận về thực trạng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay ...... 35 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ THUYẾT LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN .............................................................................................. 37 2.1. Khái quát về văn nghị luận .................................................................... 37 2.2. Lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn bậc THPT ............. 42 2.3. Nhận xét về lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn hiện nay.. 51 2.4. Lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học...................................... 54 2.5. Sự bổ sung của Ngữ dụng học vào việc đổi mới lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn hiện nay .......................................................... 58 CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN VÀ THỰC NGHIỆM BƯỚC ĐẦU Ở TRƯỜNG THPT ... 69 3.1. Rèn KNLL qua việc sử dụng hợp lí hệ thống bài tập của SGK trong các giờ học Làm văn..................................................................................... 69 3.1.1. Vai trò của hệ thống bài tập rèn luyện KNLL trong SGK ............ 69 3.1.2. Các dạng bài tập rèn luyện KNLL của SGK................................. 70 3.1.3. Tình hình sử dụng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK .... 77 3.1.4. Biện pháp sử dụng hiệu quả hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của SGK .................................................................................................. 78 3.2. Rèn KNLL qua việc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung ...................... 80 3.2.1. Sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung ............. 80 3.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập bổ sung ............................ 82 3.2.3. Hệ thống bài tập bổ sung rèn luyện KNLL cho HS THPT ........... 83 3.3. Rèn KNLL qua các hoạt động khác (ngoài phân môn Làm văn) ....... 105 3.3.1. Rèn KNLL qua việc tích hợp với các giờ Đọc – hiểu văn bản nghị luận và giờ Tiếng Việt................................................................... 106 3.3.2. Rèn KNLL qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khoá ............. 111 3.3.3. Rèn KNLL qua việc theo dõi quá trình tự học của HS ............... 116 3.4. Thực nghiệm bước đầu ở trường THPT .............................................. 116 KẾT LUẬN ................................................................................................ 125 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .......................................... 127 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 128 PHỤ LỤC ................................................................................................... 137 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GV Giáo viên HS Học sinh THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông KNLL Kỹ năng lập luận SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên NLXH Nghị luận xã hội NLVH Nghị luận văn học N Tổng số bài làm n1 Số bài làm đạt yêu cầu n2 Số bài làm không đạt yêu cầu n Số bài làm (mắc lỗi về lập luận) % Tỉ lệ phần trăm T Thời điểm đánh giá T1 Trước khi thực nghiệm T2 Sau khi thực nghiệm DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1 Kết quả bài làm đạt và không đạt yêu cầu Bảng 1.2 Kết quả các loại lỗi về lập luận Bảng 1.3 Về chương trình Làm văn nghị luận ở trường THPT Bảng 1.4 Về tình hình giảng dạy KNLL của GV hiện nay Bảng 1.5 Về tình hình học tập và rèn luyện KNLL của HS THPT hiện nay (Khảo sát GV) Bảng 1.6 Về tình hình học tập và rèn luyện KNLL của HS THPT hiện nay (Khảo sát HS) Bảng 1.7 Về năng lực lập luận của HS THPT hiện nay Bảng 2.1 Các thao tác lập luận trong chương trình Làm văn bậc THPT Bảng 2.2 Những kiểu quan hệ logic trong lập luận nhân - quả Bảng 2.3 Các dạng câu hỏi trong lập luận vấn đáp Bảng 2.4 Hệ thống lí lẽ của lập luận Bảng 3.1 Kết quả bài làm đạt và không đạt yêu cầu Bảng 3.2 Tổng hợp kết quả bài làm trước và sau khi thực nghiệm Bảng 3.3 Kết quả các loại lỗi về lập luận Bảng 3.4 Tổng hợp kết quả các loại lỗi về lập luận trước và sau khi thực nghiệm MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn nghị luận là loại văn được đặc trưng bởi tính lập luận, giúp người viết bộc lộ chủ kiến của mình bằng “chiến lược trình bày” sao cho các ý tưởng – luận điểm về một vấn đề nào đó trong văn chương hoặc trong cuộc sống được chặt chẽ, thuyết phục. Tuy nhiên, trong thực tế làm văn của học sinh (HS) hiện nay, lỗi về lập luận vẫn là một loại lỗi thường gặp nhất và kỹ năng lập luận (KNLL) vẫn là kỹ năng yếu nhất của HS. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng trước hết là do nội dung chương trình và do cách dạy của giáo viên (GV) còn có chỗ chưa thật sự hợp lý và khoa học. 1.2. Dạy KNLL trong văn nghị luận là dạy cho HS cách lập luận ở mức độ cao hơn các loại văn khác: HS vừa phải biết lựa chọn ý tưởng, biết suy luận đúng hướng vừa phải biết diễn đạt ngôn từ mang tính thẩm mỹ - biểu cảm… Để đạt được trình độ này, trước hết các em phải được luyện tập và thực hành về lập luận ở mức độ đơn giản hơn, thường xuyên hơn, đó là lập luận trong giao tiếp thực tiễn hàng ngày. Rất tiếc là lâu nay, trong dạy học làm văn ở phổ thông, GV thường chỉ quan tâm truyền giảng những khái niệm, quy tắc khô khan, trừu tượng, ít chú ý đến hoạt động thực hành. Nếu có thì cũng chưa chú trọng đến khả năng ứng dụng thực tiễn, chưa tuân theo nguyên tắc hệ thống khi luyện tập (đi từ dễ đến khó) phù hợp với năng lực của HS. 1.3. Thực nghiệm khảo sát ở trường Trung học phổ thông (THPT) cũng cho thấy: - So với các kiểu văn bản khác, văn nghị luận chiếm phần lớn thời lượng chương trình, đóng vai trò chủ đạo trong tất cả kì thi quan trọng, nhưng tình trạng dạy học kiểu bài này còn hết sức qua loa, chiếu lệ. - Lý thuyết về KNLL trong chương trình Làm văn hiện nay vẫn còn một số hạn chế; từ lý thuyết đến thực hành là một khoảng cách khá xa; HS chưa có ý thức rèn luyện KNLL, mà GV cũng chưa có những biện pháp cụ thể để theo dõi, nhắc nhở quá trình rèn luyện của các em. - Hệ thống bài tập rèn luyện KNLL của sách giáo khoa (SGK) còn ít và chỉ mới dừng lại ở những dạng chung chung, trong khi đó, đối tượng HS lại rất đa dạng với trình độ và năng lực khác nhau. Muốn rèn luyện KNLL cho HS, cần thiết phải xây dựng một hệ thống bài tập phong phú với quy trình rèn luyện cụ thể hơn. 1.4. Trong Ngữ dụng học, lý thuyết lập luận đã được các nhà ngôn ngữ học xem xét khá kĩ ở nhiều phương diện: vai trò của lập luận, cấu trúc một lập luận, cách tổ chức một lập luận, cách sử dụng các tác tử - kết tử lập luận, v.v… Vậy mà cho đến nay, lý thuyết đó vẫn chưa được thể hiện cụ thể ở phân môn Làm văn trên cả hai phương diện lý thuyết cũng như thực hành. Điều này thôi thúc tác giả luận văn nghiên cứu những tài liệu về lý thuyết lập luận, làm cơ sở để xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL trong văn nghị luận cho HS THPT, bổ sung những vấn đề mà lâu nay vẫn còn thiếu sót trong dạy học KNLL nhằm nâng cao chất lượng dạy học Làm văn ở trường THPT hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Văn nghị luận là một thể loại có truyền thống lâu đời. Với lập luận chặt chẽ và sắc sảo, văn nghị luận đã có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử dựng nước và giữ nước. Chẳng hạn: Chiếu dời đô (1010) của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn độc lập (1945) của Hồ Chí Minh, v.v… Vì vậy, trong nhà trường phổ thông, tất cả những tài liệu dạy - học phân môn Làm văn đều chú trọng đến kiểu bài làm văn nghị luận. Trước cải cách giáo dục, Văn học – Tiếng Việt – Làm văn được tách thành ba phân môn riêng biệt, mỗi phân môn ứng với một bộ sách riêng. Phân môn Làm văn bao gồm sách giáo khoa (SGK), sách giáo viên (SGV) và sách Dàn bài Làm văn. Chương trình Làm văn bậc THPT lúc bấy tập trung chủ yếu vào kiểu bài văn nghị luận và rèn cho HS những kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận nói chung. Chẳng hạn: - Làm văn 10 do Trần Thanh Đạm chủ biên (2000) trình bày những vấn đề Đại cương về văn nghị luận, Cách làm bài văn nghị luận, Nghị luận xã hội, Nghị luận văn học, Tóm tắt văn bản nghị luận. - Làm văn 11 do Phan Trọng Luận chủ biên (2000) giúp HS biết Cách triển khai và trình bày ý trong đoạn văn, bài văn nghị luận; Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự; Phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình; và Bình giảng văn học. - Làm văn 12 do Trần Đình Sử chủ biên (2000) tập trung rèn luyện cho HS những kỹ năng làm văn nghị luận như: Lập ý và lập dàn bài trong văn nghị luận; Lập luận trong văn nghị luận; Mở bài, kết bài và chuyển đoạn trong văn nghị luận; Chọn và trình bày dẫn chứng trong văn nghị luận; Hành văn trong văn nghị luận; Kỹ năng làm bài phân tích văn học, Bình giảng văn học, Bình luận văn học và Bình luận xã hội. Sau cải cách giáo dục, ba phân môn Văn học – Tiếng Việt – Làm văn lại được viết chung trong một bộ sách (có tên là sách Ngữ văn) theo quan điểm tích hợp. SGK và SGV Ngữ văn từ lớp 10 đến lớp 12 (ở cả hai ban cơ bản và nâng cao) đều do Phan Trọng Luận tổng chủ biên (2006, 2007, 2008). Trong bộ sách này, phân môn Làm văn tập trung vào ba loại văn bản: tự sự, thuyết minh và nghị luận trên cơ sở kế thừa và phát huy những kỹ năng mà HS đã được học ở bậc Trung học cơ sở (THCS). So với chương trình trước cải cách thì chương trình sau cải cách có sự chú ý nhiều hơn đến việc rèn luyện KNLL trong văn nghị luận cho HS, từ kiến thức khái quát về lập luận trong văn nghị luận đến các thao tác lập luận cụ thể được sử dụng trong văn nghị luận. Tuy nhiên, những kiến thức này cũng chỉ mới dừng lại ở khái niệm và cách lập luận một cách chung chung, chưa đưa ra những dấu hiệu ngôn ngữ cụ thể giúp HS rèn luyện và phát triển KNLL. 2.2. Ngoài những tài liệu dạy học trong nhà trường phổ thông thì những công trình nghiên cứu, những tài liệu tham khảo ở phân môn Làm văn cũng khá phong phú, có thể kể như: Làm văn (2 tập) của Đình Cao – Lê A (1991), Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS và hệ cao đẳng Sư phạm) của Lê A – Nguyễn Trí (2001), Rèn luyện kỹ năng làm văn của Bảo Quyến (2003), Làm văn nghị luận: lý thuyết và thực hành của Hà Thúc Hoan (2006), Tài liệu bồi dưỡng GV của Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Làm văn của nhóm tác giả Đỗ Ngọc Thống – Nguyễn Thanh Thi – Phạm Minh Diệu (2007), v.v… Những công trình nghiên cứu này ít nhiều đã có sự quan tâm đến tầm quan trọng của KNLL, cũng như việc rèn luyện KNLL trong văn nghị luận cho HS THPT. Cụ thể là: - Đình Cao – Lê A, trong Làm văn (tập 1), đã dành chương IV để viết về KNLL. Ở chương này, tác giả nêu lên bốn vấn đề: I. Tầm quan trọng của lập luận, II. KNLL, III. Một số phương pháp lập luận thường dùng trong văn nghị luận, IV. Những điểm cần lưu ý khi lập luận. Tương ứng với Làm văn (tập 1) trình bày lý thuyết thì trong cuốn Làm văn (tập 2) tác giả đã xây dựng hệ thống bài tập thực hành (chương IV với tiêu đề: Rèn luyện KNLL và trình bày dẫn chứng). - Lê A – Nguyễn Trí (2001), trong Làm văn (Giáo trình đào tạo GV THCS và hệ cao đẳng Sư phạm) cũng đã chú ý đến cách xây dựng lập luận như một phương pháp làm bài văn nghị luận. Theo PGS. Lê A, có bốn bước để xây dựng lập luận là: xác định kết luận của lập luận, xây dựng luận cứ cho lập luận, sử dụng các phương tiện liên kết lập luận và cách luận chứng. - Còn nhóm tác giả Đỗ Ngọc Thống – Nguyễn Thanh Thi – Phạm Minh Diệu (2007), trong Làm văn, khi trình bày những vấn đề xung quanh kiểu bài văn nghị luận, đã lưu ý đến bốn đặc điểm của văn nghị luận: 1. Các thao tác lập luận và sự kết hợp của chúng trong văn bản nghị luận; 2. Luận điểm của bài văn nghị luận; 3. Lập luận trong bài văn nghị luận và 4. Ngôn ngữ của văn bản nghị luận. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên đây phần lớn nghiêng về trình bày lý thuyết, rất ít công trình đi sâu xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL cho HS. Cuốn Làm văn (tập 2) của Đình Cao – Lê A tuy có chú ý đến bài tập nhưng những dạng bài tập này còn rất chung chung, số lượng bài tập còn rất ít (chỉ 10 bài) và chưa chú ý đến các dạng bài tập cụ thể nhằm rèn luyện KNLL cho HS. Vì vậy, trên thực tế thì cho đến nay, HS vẫn chưa có được một hệ thống bài tập đa dạng, phong phú, phù hợp với năng lực nhằm giúp các em rèn luyện và phát huy KNLL, vốn là một kỹ năng rất quan trọng của văn nghị luận, quyết định đến sự hay – dở, thành – bại của một bài văn. 2.3. Ở góc độ Ngữ dụng học, lý thuyết lập luận lại được xem xét khá kĩ. Ngay từ thời cổ đại, từ thế kỉ thứ V trước công nguyên, sự lập luận đã được chú ý nghiên cứu. Buổi đầu, sự lập luận được coi là một lĩnh vực thuộc phạm vi thuật hùng biện – một “nghệ thuật nói năng”. Nó được trình bày trong Tu từ học (Rhetoric) của Aristote. Tiếp sau đó, sự lập luận cũng được trình bày trong các phép suy luận logic, trong thuật ngụy biện hay trong những cuộc nghị luận, tranh cãi ở tòa án. Nửa sau thế kỉ XX, lý thuyết lập luận được quan tâm trở lại. Mở đầu cho thời kì này là “Khảo luận về sự lập luận – Tu từ học mới” của Perelman và Olbrechts – Tyteca (1958). Trong số những công trình mở đầu cho giai đoạn trở lại này, có công trình của S. Toulmin (1958); sau đó là Grize (1982). Nhưng công trình của hai tác giả Pháp J. Anscombre và O. Ducrot (1983) đã đưa ra một kiến giải mới, căn bản và độc đáo về lý thuyết lập luận trong ngôn ngữ học. Hướng nghiên cứu này đã gặt hái được nhiều kết quả thú vị, bất ngờ và hiện nay được nhiều người quan tâm, đó là bản chất ngữ dụng của lập luận. Năm 1985, Trung tâm châu Âu về nghiên cứu lập luận (Centre européen pour l’Étude de l’Argumentation) đã được thành lập và đã tổ chức những hội thảo chuyên về lập luận. Ở Việt Nam, trong cuốn Ngữ dụng học, tập 1 (1998), GS. TS Nguyễn Đức Dân đã phát thảo những nét căn bản nhất về lý thuyết lập luận nói chung và sự lập luận trong ngôn ngữ tự nhiên nói riêng, đặc biệt là chú ý tới các tín hiệu ngôn ngữ trong sự lập luận. GS. TS Đỗ Hữu Châu, trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 (Ngữ dụng học) (2006), cũng dành riêng một chương (chương IV) để trình bày về lý thuyết lập luận: Lập luận là gì, Bản chất ngữ dụng của lập luận, Lập luận và một hành động ở lời nói, Đặc tính của quan hệ lập luận, Lẽ thường (topos) cơ sở của lập luận, Việc xác lập các lẽ thường, v.v… Những thành quả nghiên cứu trên đây của Ngữ dụng học thật sự có đóng góp rất to lớn cho bộ môn Ngữ văn, trong đó có phân môn Làm văn và đặc biệt là việc rèn luyện KNLL cho HS. Song, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu thiết lập và cụ thể hóa mối quan hệ này. Vấn đề rèn luyện KNLL cho HS THPT từ góc độ Ngữ dụng học vẫn còn để ngỏ, con đường nghiên cứu vẫn còn thiếu những dấu chân đi. 2.4. Như vậy, qua những khảo sát ban đầu về các tài liệu dạy học cũng như các công trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây: - Thứ nhất: mặc dù văn nghị luận có lịch sử lâu đời và có vai trò rất quan trọng trong đời sống, nhưng nếu chỉ tính riêng những bài nghiên cứu, những tài liệu dạy học liên quan đến vấn đề rèn luyện KNLL trong văn nghị luận thì lại không phong phú. - Thứ hai: KNLL trong văn nghị luận là một kỹ năng rất cơ bản, quan trọng đối với HS. Song, do nhiều nguyên nhân, kiến thức về lý thuyết và thực hành kỹ năng này chỉ mới được trình bày một cách chung chung, chưa chỉ ra được bản chất của lập luận và những dấu hiệu hình thức giúp HS rèn luyện KNLL một cách dễ dàng hơn. Hệ thống bài tập rèn luyện KNLL vẫn còn hạn chế, chưa chú ý đến sự đa dạng và phù hợp với từng đối tượng HS. - Thứ ba: cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học với lập luận trong văn nghị luận (thuộc phân môn Làm văn), dẫn đến những thiếu sót trong dạy học kỹ năng này ở trường THPT, làm cho chất lượng bài làm văn nghị luận của HS chưa cao và hiệu quả của việc dạy - học Làm văn vẫn còn thấp. Vì vậy, hướng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu những vấn đề về lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học nhằm bổ sung, hoàn thiện lý thuyết về KNLL trong văn nghị luận; đồng thời xây dựng hệ thống bài tập bổ sung nhằm rèn luyện và phát triển KNLL cho HS THPT. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát thực trạng dạy và học KNLL ở trường THPT hiện nay qua việc kiểm tra, đánh giá chất lượng bài văn nghị luận của HS kết hợp với việc thu thập ý kiến của GV và HS về tình hình dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay; xử lí số liệu, rút ra kết luận về thực trạng, đồng thời chỉ ra nguyên nhân và hướng giải quyết. - Mô tả khái quát những vấn đề xung quanh lý thuyết về KNLL trong văn nghị luận ở phân môn Làm văn, và lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học trên cơ sở phân tích, tổng hợp và so sánh những kiến thức đó với nhau. - Dựa vào các kết quả có được từ hai bước trên, luận văn sẽ đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm rèn luyện KNLL trong văn nghị luận cho HS THPT. - Tiến hành thực nghiệm, lấy ý kiến của GV và HS để kiểm tra hiệu quả của những biện pháp mà luận văn đã đề xuất. 4. Đối tượng nghiên cứu - Các công trình nghiên cứu có liên quan tới dạy - học Làm văn nói chung, vấn đề lập luận trong văn nghị luận nói riêng và các vấn đề xung quanh lý thuyết lập luận của Ngữ dụng học. - Luận văn cũng tập trung khảo sát và nghiên cứu những bài làm văn nghị luận của HS để tìm ra những lỗi về lập luận mà các em thường mắc phải trong quá trình tạo lập văn bản nghị luận; nghiên cứu tình hình dạy và học KNLL ở trường THPT hiện nay bằng cách khảo sát lấy ý kiến của GV và HS. 5. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ xem xét các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn bậc THPT. Để viết được bài văn nghị luận có chất lượng, HS cần phải rèn luyện nhiều kỹ năng, nhưng luận văn chỉ tập trung vào KNLL. Muốn vậy, luận văn phải dựa trên cơ sở lý luận vững chắc của bộ môn và các khoa học liên ngành. Rèn luyện KNLL trong văn nghị luận cần xuất phát từ những căn cứ khoa học, tránh kinh nghiệm chủ nghĩa, suy diễn chủ quan và phù hợp với mục tiêu cần đạt của chương trình Làm văn ở trường THPT. 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp những phương pháp nghiên cứu sau: 6.1. Phương pháp điều tra xã hội học Chúng tôi đã thực hiện phương pháp này bằng cách khảo sát chất lượng bài làm văn của HS và phát phiếu thăm dò ý kiến của GV – HS về tình hình dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay. Thống kê, xử lí các số liệu thu được làm cơ sở để rút ra những nhận xét đúng đắn, khách quan về thực trạng dạy – học KNLL cũng như năng lực lập luận của HS THPT hiện nay. Từ đó đề xuất những hướng rèn luyện và phát triển KNLL cho HS. 6.2. Phương pháp hệ thống Phương pháp này cho phép chúng tôi xem xét KNLL một cách toàn diện từ góc độ lý thuyết đến thực hành luyện tập, từ các thao tác lập luận đến mối quan hệ của các thao tác và sự vận dụng kết hợp các thao tác đó trong bài văn nghị luận. Phương pháp này còn thể hiện trong luận văn ở việc xây dựng các dạng bài tập rèn luyện KNLL từ các cấp độ: lập luận trong câu, lập luận trong đoạn và lập luận trong cả bài văn nghị luận. Phương pháp này cũng giúp chúng tôi xem xét chất lượng bài văn nghị luận của HS trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với hiệu quả dạy học của các giờ lý thuyết, thực hành KNLL (trên lớp) và quá trình tự rèn luyện (ở nhà) của HS. 6.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp Chúng tôi dùng phương pháp này để phân tích – tổng hợp những đóng góp của các công trình nghiên cứu từ trước đến nay trong dạy học Làm văn nói chung và dạy học KNLL nói riêng, từ đó tìm ra những ưu điểm và hạn chế. Phương pháp này còn được dùng để phân tích – tổng hợp những số liệu thu thập được trong quá trình khảo sát, thực nghiệm nhằm đưa ra những kết luận đúng đắn, khách quan về thực tế dạy học KNLL và những biện pháp mà luận văn đề xuất. 6.4. Phương pháp so sánh – đối chiếu Phương pháp này được dùng để: - So sánh – đối chiếu ý kiến của GV và HS ở phần khảo sát thực trạng dạy học KNLL để có cái nhìn khách quan, toàn diện về thực trạng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay. - So sánh – đối chiếu lý thuyết lập luận ở phân môn Làm văn với lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học, đưa ra những nhận xét về nhưng ưu điểm và hạn chế của lý thuyết lập luận ở phân môn Làm văn, từ đó đề xuất hướng bổ sung và hoàn thiện KNLL trên cả hai phương diện: lý thuyết và thực hành. - So sánh – đối chiếu chất lượng bài làm của HS trước và sau khi ứng dụng những biện pháp rèn luyện KNLL mà luận văn đề xuất. 6.5. Phương pháp thực nghiệm Chúng tôi đã tiến hành phương pháp này bằng cách cho HS thực hành một số bài tập mà luận văn đề xuất nhằm rèn luyện KNLL. Sau đó cho HS làm bài tập kiểm tra, chấm bài và đánh giá chất lượng bài làm của HS nhằm kiểm tra tính hiệu quả, khả thi của hệ thống bài tập mà luận văn đã đề xuất. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 7.1. Ý nghĩa khoa học - Trên cơ sở phân tích những hạn chế trong hệ thống lý thuyết về KNLL của SGK Ngữ văn hiện nay, luận văn đưa ra một hướng nhìn mới trong việc rèn luyện và phát triển năng lực lập luận của HS từ góc độ Ngữ dụng học. - Một lần nữa, nhấn mạnh tính thực hành của phân môn Làm văn và quan điểm tích hợp ba phân môn Văn học – Tiếng Việt – Làm văn trong dạy – học Ngữ văn ở trường THPT. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn - Giúp GV và HS nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc dạy học và rèn luyện KNLL trong văn nghị luận ở trường THPT, từ đó có ý thức đổi mới các hoạt động dạy và học, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Làm văn hiện nay. - Cung cấp cho GV và HS những kiến thức bổ ích trong quá trình dạy và học KNLL, giúp GV nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và giúp HS làm bài văn nghị luận với chất lượng cao hơn. - Là tư liệu tham khảo cho sinh viên Ngữ văn trong quá trình học tập ở trường ĐH Sư phạm; là cơ hội để tác giả luận văn có thể tìm hiểu, nghiên cứu và trau dồi chuyên môn nghiệp vụ của mình. 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1 trình bày thực trạng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay Chương 2 trình bày một số vấn đề xung quanh lý thuyết lập luận trong văn nghị luận. Ở chương này, luận văn nhấn mạnh đến hai vấn đề: - Thứ nhất, lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn bậc THPT và những nhận xét về ưu điểm cũng như hạn chế của lý thuyết này. - Thứ hai, những kiến thức cơ bản của lý thuyết lập luận dưới góc độ Ngữ dụng học và Sự bổ sung của Ngữ dụng học vào việc đổi mới lý thuyết lập luận trong chương trình Làm văn bậc THPT. Chương 3 trình bày những biện pháp rèn luyện KNLL trong văn nghị luận và thực nghiệm bước đầu ở trường THPT. Ở chương này, tác giả luận văn đề cập đến nhiều biện pháp, nhưng trọng tâm là ở việc xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện KNLL cho HS trên cơ sở lý thuyết lập luận đã trình bày ở chương 2. CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG DẠY – HỌC KỸ NĂNG LẬP LUẬN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY 1.1. Khảo sát thực trạng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay Phương pháp giảng dạy là một bộ môn phục vụ đắc lực cho những người làm công tác giáo dục ở các cấp, những đề tài về phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn phải là những đề tài gắn liền với thực tiễn và xuất phát từ cơ sở thực tiễn nhằm góp phần thiết thực vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn. Ở luận văn “Rèn luyện KNLL trong văn nghị luận cho HS THPT”, chúng tôi xác định chương “Thực trạng dạy – học KNLL trong văn nghị luận ở trường THPT” là một trong các chương quan trọng, là cơ sở vững chắc giúp chúng tôi đưa ra những biện pháp giải quyết vấn đề một cách khả thi nhất. Vì vậy, chúng tôi hết sức thận trọng trong quá trình khảo sát, thu thập và xử lí số liệu, đảm bảo tính khoa học, chuẩn xác, phản ánh trung thực và toàn diện thực trạng dạy – học KNLL ở trường THPT hiện nay. Xuất phát từ tinh thần trên, chúng tôi đã xây dựng phần khảo sát thực trạng dạy – học KNLL với những nội dung sau đây: 1.1.1. Mục đích khảo sát: Thông qua các phép đo để xác định thực trạng dạy – học KNLL và năng lực lập luận của HS ở trường THPT hiện nay. 1.1.2. Đối tượng khảo sát: HS khối lớp 10 THPT. Sở dĩ chúng tôi chọn đối tượng HS lớp 10 để tiến hành khảo sát vì những lí do sau: Thứ nhất, lớp 10 là lớp chuyển tiếp từ bậc THCS sang bậc THPT, ở chương trình Làm văn bậc THCS, các em đã được học những kiến thức và kỹ năng cơ bản nhất để tạo lập văn bản nghị luận. Chọn lớp 10, chúng tôi muốn khảo sát hiệu quả của quá trình dạy – học phân môn Làm văn, nhất là tình hình dạy – học KNLL ở trường THCS để kịp thời đưa ra những biện pháp thiết thực nhằm rèn luyện kỹ năng này cho HS. Thứ hai, muốn nâng cao KNLL trong văn nghị luận cho HS, chúng ta cần phải tiến hành các biện pháp rèn luyện trong một thời gian dài, có quá trình, thường xuyên và liên tục. Việc khảo sát tình hình dạy – học cũng như năng lực lập luận ở đối tượng lớp 10 là điều kiện tốt để chúng ta nhìn nhận được thực tế dạy – học và năng lực lập luận của các em, từ đó kịp thời chấn chỉnh và rèn luyện trong suốt ba năm học ở trường THPT. Thứ ba, chương trình Làm văn bậc THPT hiện nay đã bắt đầu có sự quan tâm đến việc rèn luyện KNLL cho HS. Từ lớp 10 đến lớp 12 đều có những bài học về KNLL, nhất là ở lớp 11, chương trình Làm văn tập trung vào rèn luyện các thao tác lập luận (như phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận) và việc vận dụng kết hợp các thao tác lập luận cho HS. Vì vậy, ngay từ lớp 10, nếu HS được trang bị những phương pháp học tập và rèn luyện KNLL môt cách khoa học, hợp lí thì quá trình học tập phân môn Làm văn trong chương trình THPT sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 1.1.3. Phạm vi khảo sát Để có cái nhìn bao quát, chính xác và khách quan, chúng tôi tiến hành khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và địa bàn tỉnh Khánh Hòa (nơi tác giả luận văn trực tiếp giảng dạy) với mẫu khảo sát đa dạng là: HS lớp 10 ở những trình độ khác nhau từ giỏi, khá đến trung bình, yếu, kém. 1.1.4. Cách thức khảo sát Chúng tôi tiến hành hai phép đo như sau: 1.1.4.1. Phép đo 1: Khảo sát chất lượng bài làm của HS Cho một đề văn nghị luận và yêu cầu HS làm bài trong thời gian 90 phút. GV xây dựng đáp án và biểu điểm, sau đó chấm bài và thống kê kết quả thu được. 1.1.4.2. Phép đo 2: Khảo sát ý kiến của GV và HS Xây dựng các phiếu khảo sát để thăm dò ý kiến của GV và HS về tình hình dạy - học KNLL trong văn nghị luận ở trường THPT hiện nay, sau đó
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan