Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12...

Tài liệu Rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12

.PDF
124
638
142

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐINH THỊ THANH THỦY RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG TƯỢNG TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12 LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI – 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐINH THỊ THANH THUỶ RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG TƯỢNG TRONG DẠY HOC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12 LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGHÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Trọng Hoàn HÀ NỘI – 2012 2 MỤC LỤC Lời cảm ơn.................................................................................................................. i Danh mục viết tắt ...................................................................................................... ii Danh mục các bảng .................................................................................................. iii Danh mục biểu đồ, đồ thị ......................................................................................... iv Mục lục ...................................................................................................................... v MỞ ĐẦU..................................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI........................12 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài....................................................................................12 1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận văn học......................................................................... 12 1.1.2. Hoạt động liên tưởng và tưởng tượng.......................................................... 15 1.1.3. Những điều cần chú ý trong việc hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình………………………………………………………………………….…24 1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.................................................................................30 1.2.1. Thực trạng rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong giờ dạy học tác phẩm thơ trữ tình ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay.........................................30 1.2.2. Thực trạng về hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ học tác phẩm thơ trữ tình ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay..........................33 Chƣơng 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LIÊN TƢỞNG, TƢỞNG TƢỢNG TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12………40 2.1. Cơ sở của việc đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12……………………………………….40 2.1.1. Đối tượng của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng trong giờ đọc văn……...40 2.1.2. Mục đích liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn……….…42 2.1.3. Phương thức liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn…….44 2.1.4. Cơ chế liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ đọc văn…............. 47 2.1.5. Giới hạn của liên tưởng, tưởng tượng và vấn đề định hướng thẩm mỹ cho học sinh…………………………………………………………………...……….49 v 2.2. Điều kiện để thực hiện một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12……………………………………….51 2.2.1. Chuẩn bị của giáo viên………………………………………………….….51 2.2.2. Chuẩn bị của học sinh…………………………………………………..…. 56 2.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12…………………………………………………………………59 2.3.1. Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh………...…………59 2.3.2. Xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo…………………........ 67 2.3.3. Đa dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh……………… 71 Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM………………………………...…….79 3.1. Các vấn đề chung…………………………………………………………..…79 3.1.1. Mục đích thực nghiệm………………………………………………….…..79 3.1.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm………………………………………....79 3.1.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm…………………………………....80 3.1.4. Chọn giáo viên dạy thực nghiệm………………………………………..….81 3.2. Tiến hành thực nghiệm…………………………………………………...…..82 3.2.1. Quy trình tiến hành thực nghiệm……………………………………...……82 3.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm…………………………………………..…..82 3.3. Kết quả thực nghiệm và xử lý kết quả thực nghiệm………………..……….103 3.3.1. Kết quả thực nghiệm……………………………………………………....103 3.3.2. Xử lý kết quả thực nghiệm…………………………………………….….104 3.4. Kết luận và đề xuất………………………………………………………….106 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ………………………….…………...…….108 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..110 PHỤ LỤC……………………………………………………………………… 112 vi DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐC Đối chứng GV Giáo viên HS Học sinh SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên THPT Trung học phổ thông TNVH Tiếp nhận văn học TN Thực nghiệm TPVH Tác phẩm văn học ii DANH MỤC CÁC BẢNG STT Tên bảng Trang Bảng 1.1 Thống kê kết quả khảo sát phiếu điều tra giáo viên 31 Bảng 1.2 Thống kê chất lượng khảo sát 34 Bảng 1.3 Thống kê kết quả khảo sát phiếu điều tra học sinh 35 Bảng 3.1 Phân công giáo viên dạy thực nghiệm và đối chứng 83 Bảng 3.2 Tổng hợp kết quả điểm kiểm tra 108 Bảng 3.3 Thống kê chất lượng kiểm tra 108 Bảng 3.4 Phân phối tần suất luỹ tích bài kiểm tra 109 Bảng 3.5 Giá trị của các tham số đặc trưng 111 iii DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ STT Tên biểu đồ, đồ thị Trang Biểu đồ 3.1 Thống kê chất lượng kiểm tra 109 Đồ thị 3.1. Đường luỹ tích bài kiểm tra 110 iv MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1. Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của lượng thông tin thách thức con người nhiều hơn so với thời đại trước. Con người muốn tồn tại, muốn hoà nhập, muốn tự khẳng định mình thì nhất định phải là những thành viên năng động, tích cực, sáng tạo, có óc quan sát nhạy bén, trí tuệ linh hoạt, có thái độ lựa chọn thông tin và hiểu thông tin một cách sáng tạo. Đáp ứng yêu cầu đó của xã hội, nhiệm vụ hiện đại hoá giáo dục được đặt ra như một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác phát triển giáo dục, trong đó đổi mới nội dung phương pháp dạy và học là vấn đề then chốt trong chiến lược như một lẽ tồn tại: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh viên đại học” (Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997, tr 4). Trên tinh thần đó, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX khi nói về giáo dục đào tạo đã nhấn mạnh “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn…”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia 2001, tr.108, 109). Như vậy trên con đường hội nhập với thế giới, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt chú trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, trong đó yêu cầu phải đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy là vấn đề then chốt. Gần đây nhất, trong lần thay sách giáo khoa Ngữ văn 2006 cấp THPT, 1 việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. 1.2. Môn Ngữ văn vừa nằm trong hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân văn, bộ môn thuộc lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ, vừa là một bộ môn có tính chất công cụ. Những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện chương trình Ngữ văn phổ thông đòi hỏi cần có phương pháp dạy học đặc thù, dạy học phải hướng vào hoạt động sáng tạo của HS - HS không còn là khách thể mà giữ vai trò chủ thể sáng tạo trong khám phá và chiếm lĩnh giá trị tác phẩm. Tiếp nhận TPVH trong nhà trường trở thành quá trình đồng sáng tạo. Trong quá trình tiếp nhận TPVH nói chung và tác phẩm thơ trữ tình nói riêng liên tưởng, tưởng tượng có vai trò quan trọng. “Liên tưởng là đầu mối của những rung động thẩm mĩ…” và “tưởng tượng như chiếc cầu nối giữa người đọc với người viết” [16, tr. 90]. Liên tưởng, tưởng tượng được xác định là năng lực quan trọng trong quá trình TNVH. Liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS góp phần chuyển hóa tác phẩm của tác giả thành tác phẩm trong hành trang tinh thần của HS. Trong dạy học TPVH, liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật được xem là những phương thức tư duy để phát triển và hoàn thiện tâm hồn, trí tuệ cũng như nhân cách HS. Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật cho HS để giúp các em tìm ra con đường đi đến kết luận. Thiết nghĩ, cần quan tâm đến năng lực liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS, từ đó tìm ra các biện pháp, phương pháp phù hợp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng để các em tự cảm thụ và khám phá TPVH là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. 1.3. Thực tế dạy và học TPVH nói chung, tác phẩm thơ trữ tình nói riêng trong 2 nhà trường THPT đã có nhiều đổi mới và bước đầu đạt được hiệu quả. Quan điểm dạy học hướng tới rèn luyện tư duy sáng tạo cho HS đang được quan tâm. Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cho HS khi tiếp nhận TPVH là một trong những con đường để đi tới cái đích đó. Song trong nhà trường THPT hiện nay, GV lại ít có điều kiện quan tâm đến hoạt động TNVH - liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS. Chưa kể vẫn còn một bộ phận GV chưa thực sự chú ý đến những phương diện có khả năng kích thích hứng thú nhận thức sáng tạo của HS. Về phía HS, năng lực cảm thụ về TPVH thông qua liên tưởng, tưởng tượng cũng rất khác nhau. Những bài viết thể hiện được sức liên tưởng, tưởng tượng sâu sắc không nhiều. Còn rất nhiều bài văn thường có những liên tưởng, tưởng tượng nông cạn, thậm chí còn sai lệch đáng lo ngại. Có thể nói hoạt động liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật chưa thực sự được quan tâm đúng mức, chưa trở thành kĩ năng đối với HS trong quá trình tư duy sáng tạo và tiếp nhận TPVH. Đây là một vấn đề quan trọng cần phải chú ý uốn nắn và điều chỉnh kịp thời để nâng cao chất lượng dạy và học TPVH. Đó là những lí do cơ bản để chúng tôi chọn “Rèn kĩ năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Lịch sử vấn đề Khoa học nghiên cứu phương pháp dạy học văn đã được hình thành trên cơ sở ứng dụng thành tựu của các khoa học liên ngành: Tâm lý học, Tâm lý học sáng tạo văn học nghệ thuật, Lịch sử văn học, Lý thuyết cảm thụ và tiếp nhận văn học, Tâm lý học hoạt động học tập của HS... Vấn đề liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật nói chung từng thu hút sự quan tâm không chỉ giới sáng tác mà còn là vấn đề hấp dẫn đối với các nhà khoa học sư phạm, bởi nó có mối quan hệ 3 đặc biệt sâu sắc với hoạt động học của HS trong nhà trường. Trong đó có thể kể đến những luận điểm nổi bật sau: Liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò quan trọng trong TNVH, có thể kể đến như: Cảm thụ và giảng dạy văn học của tác giả Phan Trọng luận NXB Giáo dục (1983); Dạy văn dạy cái hay cái đẹp của tác giả Nguyễn Duy Bình, NXB Giáo dục (1983); Giảng văn, nhiều tác giả, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh (1981)... Giáo sư Phan Trọng luận cho rằng: "Liên tưởng là đầu mối của những rung động thẩm mỹ... Liên tưởng không những là cần thiết để lĩnh hội được bề trong của hình tượng, mà còn giúp mở rộng và đào sâu sự sống chứa đựng trong đó", và "tưởng tượng như chiếc cầu nối người đọc với người viết. Tưởng tượng nâng tâm hồn, suy nghĩ người đọc đến gần với người viết. Thiếu năng lực tưởng tượng thì làm sao hiểu được ý tình nằm sâu kín trong giấy trắng mực đen, chữ viết. Đằng sau và bên dưới từng trang giấy, từng nét chữ, có tiếng nói, hơi thở, nhịp tim của nhà văn, có sức hoạt động của các nhân vật" [16, tr. 90- 95]. Năng lực đó có thể được xem như sự biểu hiện và dấu hiệu đặc trưng của cảm thụ văn học; nếu không có nó, việc lĩnh hội tác phẩm thực sự sẽ gặp phải những khó khăn. Vai trò của liên tưởng và tưởng tượng trong dạy học văn cũng được tác giả Nguyễn Duy Bình khẳng định: "Quá trình dạy tác phẩm văn học chỉ có thể thực hiện một cách có hiệu lực thật sự khi nào nội dung tác phẩm được tái hiện trong trí tưởng tượng và trở thành một sự kiện trong tâm hồn các em. Bởi vì, một khi các em chưa tái hiện được hình tượng trong tâm trí của mình thì tác phẩm vẫn là một hiện tượng xa lạ bên ngoài các em, các em chưa được tiếp xúc với nó, do đó khó mà hiểu được lời phân tích dẫn dắt của giáo viên" [2, tr. 39-40]. Ý kiến trên đây đặt liên tưởng, tưởng tượng như một điều kiện tiên quyết đối với quá trình tiếp nhận của bạn đọc nói chung và bạn đọc - HS trong giờ dạy học TPVH nói 4 riêng. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá tầm quan trọng của yếu tố chủ quan của liên tưởng và tưởng tượng. Liên tưởng, tưởng tượng từng được coi là những phẩm chất tâm lý trong cảm thụ - phân tích tác phẩm, tác giả Lâm Vinh nhận định: "Năng lực cảm thụ - phân tích tác phẩm văn chương lệ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các quá trình tâm lý, quá trình nhận thức, đặc biệt là quá trình của tư duy và ngôn ngữ, liên tưởng và tưởng tượng" [22, tr.150]. Liên tưởng và tưởng tượng vừa mang tính chất cảm tính vừa mang tính chất lý tính trong việc kiến tạo hành trình tác phẩm đến với người đọc: "Một hình tượng nghệ thuật khi đi đến với người đọc bao giờ cũng trải qua hai quá trình: khách quan và chủ quan. Quá trình khách quan là những biểu hiện khách quan của bản thân hình tượng khiến cho mọi độc giả đều tiếp nhận giống nhau... Mỗi người từ những kinh nghiệm riêng của mình mà thêu dệt thêm, làm phong phú thêm hình tượng trên, đó là tính chất chủ quan của tác động thẩm mỹ của hình tượng" [22, tr. 153]. Điều đó phần nào cho thấy sự phức tạp, phong phú và tính năng động của liên tưởng, tưởng tượng như thế nào. Đặc điểm này cũng hàm chứa hạn chế của tính chất chủ quan trong TNVH nói riêng và tiếp nhận nghệ thuật nói chung. Liên tưởng, tưởng tượng là một trong những đặc trưng xác nhận quá trình nhận thức cá nhân, có thể kể đến như: Xã hội - Văn học - Nhà trường của tác giả Phan Trọng Luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (1996); Văn học tầm nhìn biến đổi của tác giả Nguyễn Thanh Hùng, NXB Văn học (1994); Văn học và nhân cách của tác giả Nguyễn Thanh Hùng, NXB Văn học (1996); Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp dạy học văn PTTH”(1995)… Giáo sư Phan Trọng Luận đặc biệt nhấn mạnh: Liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật là một đặc trưng nhận thức mang dấu ấn cá nhân của bạn đọc, đó là một năng lực chủ quan. Vì vậy, liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật trong dạy học 5 văn được xem là những phương thức tư duy tự khám phá, tự tiếp cận và tự chiếm lĩnh kiến thức để phát triển và hoàn thiện tâm hồn, trí tuệ cũng như nhân cách HS. Còn giáo sư Nguyễn Thanh Hùng đã chỉ ra sự phân biệt cấp độ và yêu cầu của từng giai đoạn trong quá trình TNVH ở HS: "Sự phát triển của quá trình đọc được vận động trong hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giải thích nghệ thuật" [8, tr. 127]. Như vậy, chất lượng của quá trình "đọc" - cảm hiểu, giải mã, khám phá thế giới tác phẩm... hay nói cách khác là sự vận động của các giai đoạn tiếp nhận nêu trên thực ra phụ thuộc ở kết quả liên tưởng, tưởng tượng và giải thích nghệ thuật (trong đó: liên tưởng, tưởng tượng vừa như công cụ, vừa như phương thức của tư duy sáng tạo có vai trò định hướng). Mặt khác, đối với mối quan hệ tương tác giữa chủ thể và khách thể trong quá trình nhận thức và tư duy, "ngoài ngôn ngữ diễn đạt ra còn có kinh nghiệm, sức hình dung, sự liên tưởng, trí nhớ hoàn thiện, ký ức định hình, trí tưởng tượng phong phú và tư tưởng xác định sắc bén. Đó là ngôn ngữ thầm kín, là cận ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ góp phần không nhỏ vào quá trình lĩnh hội thế giới thực tại và văn học nghệ thuật" [9, tr. 349]. Đó là sự đồng điệu và giao cảm tinh tế giữa nhà văn và bạn đọc - HS thông qua những liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật. Tác giả Trương Dĩnh xuất phát từ phương diện tâm lý học nghệ thuật đã phân tích đặc thù của cấu trúc giao tiếp trong nhà trường và đi đến khái quát: phản ứng của sự tiếp nhận diễn ra một cách thầm lặng, riêng tư và là quá trình đồng sáng tạo. Chỉ ra tính chất đặc biệt của cuộc giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc trong nhà trường thông qua hai yếu tố trung gian là văn bản tác phẩm và sự tổ chức, hướng dẫn nhận thức của GV. Dường như dưới hình thức nào, hoạt động dạy học văn vẫn có những "cuộc giao tiếp im lặng" giữa bạn đọc và nhà văn, trong đó trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng có vai trò “chìa khóa” mở ra thế giới nghệ thuật phong phú mà nhà văn tạo dựng. 6 Liên tưởng, tưởng tượng trong mối quan hệ với hoạt động tích cực của bạn đọc - HS. Trong cuốn Phương pháp dạy học văn do Z. Ia. Rez chủ biên, NXB Giáo dục (1983) đã dưa ra quan điểm coi HS là một thành viên chính thức trực tiếp tham gia xây dựng nội dung kiến thức trong quá trình phân tích tác phẩm văn học, thông qua quá trình đồng thể nghiệm nghệ thuật góp phần hình thành phẩm chất của bạn đọc HS trong nhà trường. Trong báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học đổi mới Phương Pháp dạy học văn theo hướng “HS là trung tâm” Giáo sư Phan Trọng Luận kết luận: Tiêu chí cao nhất là tri thức, cảm xúc được hình thành bằng cách nào đó có phải tự HS chiếm lĩnh thông qua những việc làm, những thao tác để rồi tự HS thực sự tự phát triển (về mọi mặt kiến thức, tâm hồn, kỹ năng...). Đó là bản chất của đổi mới phương pháp dạy học văn, trong đó khả năng tư duy sáng tạo thể hiện bằng con đường liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật được xem như những hoạt động hướng nội, hoạt động bên trong của chủ thể HS. Vai trò của liên tưởng, tưởng tượng trong cấu trúc hoạt động TNVH của HS được đề cập tới trong cuốn Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (1996); Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương, NXB Giáo dục (1998). Giáo sư Phan Trọng Luận xác định vị trí, vai trò quan trọng của liên tưởng, tưởng tượng của HS qua mô hình về quá trình thâm nhập một tác phẩm văn học đọc âm vang (bình diện 1, hình ảnh bậc 1), đọc // hồi ức // liên tưởng (bình diện 2, hình ảnh bậc 2), đọc // tưởng tượng (bình diện 3, hình ảnh bậc 3), đọc // suy (bình diện 4, hình ảnh bậc 4) [15, tr. 143]. 7 Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh: “tác phẩm văn học vừa mang tính biểu đạt, vừa mang tính giao tiếp” [10, tr. 16]. Như vậy, bản thân tác phẩm bao hàm sự gợi ý, kích thích trí tưởng tướng sáng tạo của bạn đọc. Đề cập khả năng và vị trí của liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình TNVH, các nhà khoa học, nhà giáo, các tác giả nghiên cứu từ những bình diện và mục đích cụ thể khác nhau, các tác giả chủ yếu đặt vấn đề ứng dụng và khảo sát những biểu hiện của trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng của bạn đọc - HS. Trong cuốn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương của tác giả Nguyễn Trọng Hoàn, NXB Giáo dục (2001) đã tập trung nghiên cứu hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS trong giờ giảng văn, đặt nó trong một hệ thống lý luận bao gồm đối tượng, mục đích, cơ chế, phương thức thực hiện và biện pháp định hướng thẩm mỹ, khắc phục những hạn chế của liên tưởng, tưởng tượng. Từ việc xác định liên tưởng, tưởng tượng là những yếu tố then chốt để khai thác, chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật của TPNV tác giả đã đi vào nghiên cứu điều kiện xuất hiện, cơ chế vận hành, mối quan hệ giữa liên tưởng, tưởng tượng với các thao tác khác của tư duy sáng tạo và vị trí của nó trong từng giai đoạn nhận thức để làm nên tính đặc thù của hoạt động TNVH trong nhà trường. Hầu hết các công trình trên nghiên cứu về năng lực liên tưởng, tưởng tượng của HS trong phạm trù TNVH ở phạm vi rộng, bao quát. Từ nhu cầu thực tiễn, trên cơ sở tiếp cận và trân trọng kế thừa tư tưởng của những nhà nghiên cứu đi trước ở luận văn này chúng tôi đi sâu vào một vấn đề cụ thể đó là “Rèn kĩ năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12”. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng được lựa chọn nghiên cứu là năng lực liên tưởng, tưởng tưởng nghệ thuật của HS lớp 12 trong quá trình tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình trong 8 SGK lớp 12, chương trình chuẩn. Bao gồm hoạt động tổ chức hướng dẫn nhận thức của GV và hoạt động học của HS trên cùng một đối tượng thẩm mỹ là tác phẩm thơ trữ tình lớp 12. Đối tượng nghiên cứu là năng lực liên tưởng, tưởng tưởng nghệ thuật của HS lớp 12 trong quá trình tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình trong SGK lớp 12, chương trình chuẩn không thể tách rời và biệt lập với những nghiên cứu về vai trò của liên tưởng, tưởng tượng trong hoạt động tâm lý cũng như trong sáng tạo nghệ thuật. Bởi lẽ đó là tiền đề cho việc nghiên cứu năng lực liên tưởng, tưởng tưởng nghệ thuật của HS trong quá trình TNVH. Hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS không phải là hoạt động mang tính đơn nhất, biệt lập trong giờ dạy học TPVH. Vì vậy, nghiên cứu hoạt động này phải trên cơ sử nghiên cứu mối quan hệ với những hoạt động khác của HS như: đọc, kể, tóm tắt, phân tích, so sánh, …. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là 5 tác phẩm thơ trữ tình trong SGK lớp 12, chương trình chuẩn. - Bài 1: Tây Tiến (Quang Dũng) - Bài 2: Việt Bắc (Đoạn trích - Tố Hữu) - Bài 3: Đất Nước (Trích Trường ca mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm) - Bài 4: Sóng (Xuân Quỳnh) - Bài 5: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Tiến hành thực hiện đề tài chúng tôi mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phần thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. Thông qua những 9 liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS, GV tổ chức quá trình đống sáng tạo, tổ chức quá trình giao tiếp thẩm mỹ giữa nhà văn và bạn đọc - HS. Từ đó giúp GV có thêm một con đường để tổ chức cho HS cảm thụ, khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. Đồng thời, giúp HS hình thành kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng khi tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình nói riêng và TPVH nói chung. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình. - Đề xuất một số biện pháp để rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS thông qua các tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương trình chuẩn. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng phát huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của HS để khẳng định tính khả thi và hiệu quả của đề tài. 5. Giả thuyết khoa học Trong bối cảnh dạy học tác phẩm văn chương còn mang tính thụ động, nếu hình thành được kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật cho học sinh khi tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình sẽ phát huy được năng lực tự học, tư duy sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tác phẩm thơ trữ tình. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý luận: Hệ thống hoá, tổng hợp, vận dụng các kiến thức làm sáng rõ bản chất của của hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của HS trong hoạt động tâm lý cũng như trong sáng tạo nghệ thuật và quá trình TNVH - tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình. 10 Phương pháp khảo sát thực tế: Phương pháp khảo sát trực tiếp được tiến hành với hai đối tượng là GV và HS tại trường THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông, Hà Nội và trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh. Từ phương pháp này, chúng tôi sẽ có được những số liệu thực tế của vấn đề nghiên cứu (thông qua các phiếu điều tra trắc nghiệm và hệ thống câu hỏi kiểm tra tự luận). Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng những kết luận nghiên cứu lý luận, tiến hành thực nghiệm một số giờ học: bài Tây Tiến (Quang Dũng), Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)… tại trường THPT Trần Hưng Đạo, quận Hà Đông, Hà Nội và trường THPT Hàm Long, thành phố Bắc Ninh theo hướng nghiên cứu của đề tài. Các phương pháp trên không tồn tại độc lập mà luôn có sự đan xen, hỗ trợ nhau trong quá trình nghiên cứu tạo ra sự cộng hưởng về hiệu quả. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài Chương 2: Một số biện pháp rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình lớp 12 Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 11 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận văn học Theo giáo sư Nguyễn Thanh Hùng sáng tác văn học là một quá trình nên TNVH cũng là cả một quá trình. TNVH là một quá trình lâu dài, có nhiều cấp độ. Đó là quá trình tri giác ngôn ngữ, phân tích, cắt nghĩa, hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, tổng hợp, quá trình cụ thể hóa và khái quát hóa. TNVH là một quá trình tâm lí phức tạp vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. 1.1.1.1.Tính chủ quan trong tiếp nhận văn học Chủ quan trong tiếp nhận là một thuộc tính bởi vì quá trình tiếp nhận là quá trình diễn ra trong tư duy, tình cảm, tâm lí, sinh lí của con người, nó hoàn toàn phụ thuộc vào thị hiếu của bạn đọc. Vì vậy, trước một TPVH, một vấn đề, một sự kiện văn học... mỗi bạn đọc lại có cách tiếp nhận khác nhau. Sự TNVH ở mỗi bạn đọc nông sâu khác nhau, nó phụ thuộc vào tư chất cá nhân mỗi con người, vào đặc điểm tâm lý, khả năng phát triển, thiên hướng, đời sống nội tâm của người tiếp nhận, vào trình độ năng lực tiếp nhận, vốn sống, sự hiểu biết về văn học nghệ thuật và sự tác động nhất định của dư luận xã hội cũng như xu thế thời đại. Bởi thế, TNVH cũng đòi hỏi người đọc không chỉ có khả năng tâm lý sáng tạo mà còn những phẩm chất riêng. Ở cấp độ cá nhân, tiếp nhận văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp và trước hết bởi cấu tạo chức năng của các giác quan lành mạnh (con mắt, lỗ tai, sự trực cảm, tư duy...) và khả năng tri giác ngôn ngữ, lưu giữ hình ảnh, hình thành biểu tượng, liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, khái quát... Bên cạnh đó, với người đọc vấn đề tiếp nhận còn tùy thuộc hứng thú thẩm mỹ, ước mơ, khát vọng, thiên hướng và khả năng phát triển...trong bối cảnh riêng tư và những đòi hỏi bức xúc của nhu cầu khẳng định bản thân. 12 Sự năng động chủ quan và tính chất "tự do" của chủ thể tiếp nhận trong quá trình "đối thoại" với nhà văn thông qua tác phẩm vừa thể hiện xu hướng "đồng nhất thẩm mỹ" vừa tạo nên "khoảng cách thẩm mỹ". Đó là tính đặc thù đồng thời là quy luật của TNVH. Người đọc có thể đồng tình hay không đồng tình với cách đặt vấn đề cũng như sự lý giải (tư tưởng nghệ thuật) của nhà văn; người đọc cũng có thể liên tưởng, tưởng tượng hay suy tưởng, mở rộng không gian và thời gian của "thế giới mang nghĩa" mà nhà văn đề xuất, mô tả, gợi ý trong tác phẩm. Nhưng những tác động của tinh thần thời đại, sự mở rộng giao lưu văn hóa... sẽ tạo nên tích cực chủ quan của quá trình "đồng nhất thẩm mỹ", góp phần rút ngắn khoảng cách thẩm mỹ. Do vậy, giữa các công chúng bạn đọc luôn có khoảng cách trong tiếp nhận, thậm chí giữa các HS trong cùng lớp cũng có khoảng cách trong tiếp nhận. Người GV cần định hướng, điều chỉnh nhận thức tản mạn và phiến diện của HS; đồng thời tổ chức, động viên, kích thích quá trình tiếp nhận của HS, giới hạn và định hướng thẩm mỹ trong tiếp nhận dù biết giữa tác giả và bạn đọc HS có khoảng cách về tâm hồn, tư duy, tâm lí và “độ thị sai”. Thị sai biểu lộ ở những chủ thể cảm nhận khác nhau trước một hiện tượng văn học. Thị sai không phải là hiện tượng có ở những người chưa phát triển về văn học mà ngay cả những bạn đọc có thể nói là thiên tài văn học. Chẳng hạn, L.Tôn xtôi, nhà văn Nga vĩ đại tầm cỡ thế giới lại có nhận thức khác lạ về Sêchxpia. Với L.Tôn xtôi, Sêchxpia là nhà văn tồi, thiếu cái tối thiếu của một nhà văn (Về Sêchxpia, NXBXưtin, Matxcơva, 1905). Độ thị sai về đánh giá với TPVH luôn diễn ra trong TNVH. Độ chênh không chỉ diễn ra ở các thời điểm cách xa nhau do sự trưởng thành của bản thân chủ thể mà có khi vẫn xảy ra trong những thời điểm không cách xa nhau nhưng vì tâm trạng đổi khác. Không nên giải thích đơn thuần “độ thị sai” bằng nguyên nhân thời đại, giai cấp, lịch sử - xã hội. Đó còn do nguyên nhân khoảng cách giữa nhà văn với bạn đọc. Thế giới 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng