Lời mở đầu
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của đời
sống, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy, mở rộng dân chủ,
tăng cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp
luật trước hết phải có những quy định chặt chẽ về bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền bào chữa.
Cho tới nay, Nhà nước ta đã ban hành 4 bản Hiến pháp và trong tất cả các
bản Hiến pháp đó đều có điều luật quy định về quyền bào chữa trong Tố tụng hình
sự (TTHS):
- Khoản 2 Điều 67 Hiến pháp năm 1946 quy định: “người bị cáo được
quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
- Khoản 2 Điều 161 Hiến pháp năm 1959 và khoản 2 Điều 133 Hiến pháp
năm 1980 quy định: “quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm”.
- Điều 132 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
“quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình.
Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa”.
Nguyên tắc Hiến định này đã được Bộ luật TTHS năm 2003 (BLTTHS) cụ
thể hóa tại Điều 11: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa.Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ
luật này”.
Như vậy, thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, báo có thể
do chính người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện hoặc nhờ người khác bào chữa.
Trong phạm vi bài viết của mình em chỉ đề cập đến vấn đề quyền bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện bởi người bào chữa mà cụ thể
là vấn đề “quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS, thực
tiễn thi hành và hướng hoàn thiện”.
Nội dung
I. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS
1. Khái niệm người bào chữa trong TTHS
Bào chữa là một trong những chức năng quan trọng không thể thiếu được
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (VAHS) nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy vậy trong thực tiễn, vì những lý do khác
nhau nên không phải bất cứ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nào cũng có khả năng
tự bào chữa một cách có hiệu quả. Do đó, pháp luật tạo điều kiện để họ thực hiện
quyền bào chữa của mình bằng việc có thể người khác bào chữa. Nhờ người khác
bào chữa là một hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo có hiệu quả và góp phần không nhỏ vào việc giúp Cơ quan tiến hành tố tụng
(CQTHTT) giải quyết vụ án được khách quan.
Tuy BLTTHS không nêu khái niệm cụ thể khái niệm người bào chữa, nhưng
căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 BLTTHS, thì: “Người bào chữa là
người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra
những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp
đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ”.
So với BLTTHS năm 1988 quy định về người bào chữa thì BLTTHS năm
2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo việc xét xử dân chủ, khách quan,
công bằng hơn theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về công
tác tư pháp và tập huấn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003, người bào chữa có
thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giam, bị can, bị cáo; bào
chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật
tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa
của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc
người giám hộ, anh chị em ruột v.v... của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải
là người đã thành niên, không bị tâm thần, có quốc tịch Việt Nam, cư trú tại Việt
Nam trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt
Nam ở nước ngoài.
- Bào chữa viên nhân dân:
Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Hoạt động bào chữa của bào chữa viên nhân
dân không phải là chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư.
2. Vai trò của người bào chữa
Khi tham gia tố tụng người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị tạm giữ, bị can hay bị cáo, mà họ còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị tạm giữ, bị can hay bị cáo thì phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật. Ngược
lại muốn góp phần bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở pháp
luật. Người bào chữa phải luôn chú ý cả hai nhiệm vụ trên. Nếu chỉ chú ý đến
nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thôi
thì rất dễ dẫn đến tình trạng ngụy biện. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến bảo vệ pháp
luật, pháp chế thì có thể biến mình thành người buộc tội người bị tạm giữ, bị can
hay bị cáo.
Như vậy, vai trò đặc trưng của người bào chữa trong TTHS là sự kết hợp
nhuần nhuyễn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo với việc bảo vệ chân lý, tôn trọng pháp luật và pháp chế.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định trường hợp những người không được bào
chữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì những người
không được bào chữa là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích
của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; Người tham gia trong vụ
án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Qua
đó, nhằm bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo.
Hơn thế nữa, luật TTHS còn quy định một người có thể bào chữa cho nhiều
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ
không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo (khoản 3 Điều 56 BLTTHS năm 2003). Nhưng trong thực tiễn
hiện nay có quan điểm cho rằng quy định trên của LTTHS năm 2003 là không hợp
lý và cần quy định “một người chỉ được bào chữa cho một người bị can, bị cáo
trong VAHS”. Nhưng theo em không thể đồng ý với quan điểm này, vì nó hạn chế
hiệu quả của việc bào chữa ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, pháp luật cũng nên
giới hạn số lượng người bào chữa cho một bị can, bị cáo trong VAHS tránh tình
trạng quá nhiều người bào chữa cho một bị can, bị cáo làm cho việc bào chữa
không được tập trung, tràn lan không cần thiết hoặc bào chữa lặp lại, mất thời gian
của HĐXX.
3. Quyền tố tụng của người bào chữa
Người bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều là người tham gia
TTHS. Mặc dù địa vị pháp lý của họ không như nhau, nhưng khi tham gia tố tụng
họ lại có mối quan hệ ràng buộc “tương đối” với nhau. Người bào chữa tham gia
TTHS với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo lại là đối tượng của TTHS (điều tra, truy tố,
xét xử). Họ là những người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội. Khi tham gia tố
tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình. Trường hợp bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người đại diện
hợp pháp của họ nhờ người khác bào chữa, thì người bào chữa có các quyền tố tụng
được pháp luật quy định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể ba
thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. Đó là:
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
- Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy
hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
- Trong trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can đây là một bước tiến mới, một biểu hiện dân chủ, tiến bộ trong pháp luật
TTHS Việt Nam nhằm mở rộng hơn nữa những biện pháp bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bào chữa có các quyền (khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003):
- Người bào chữa còn có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ,
hỏi cung bị can. Nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
có mặt trong các hoạt động điều tra khác. Xem các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình
bào chữa.
Đây là quyền của người bào chữa để trực tiếp nghe người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo khai báo, mặt khác trong quá trình hỏi cung nếu người bào chữa phát hiện ra
những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cần thiết cho việc bào
chữa như để minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì
người bào chữa đề nghị điều tra viên lưu ý với tình tiết đó. Người bào chữa có mặt
khi đó sẽ làm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo yên tâm hơn và khai báo chính xác sự
việc đồng thời ngăn ngừa việc vi phạm pháp luật của điều tra viên trong trường hợp
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị mớm cung, bức cung hay dùng nhục hình. Nếu
phát hiện điều tra viên có vi phạm pháp luật thì người bào chữa có quyền khiếu nại
đến cơ quan có thẩm quyền.
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của khoản 3 Điều 43 BLTTHS năm 2003.
Người bào chữa có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy những người
này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; gặp người bị tạm
giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy
định của pháp luật.
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất.
Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ
án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không
phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo
của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
Mặt khác, theo Điều 19 BLTTHS năm 2003 thì tại phiên tòa người bào chữa
còn có quyền bình đẳng với kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện
cho người bào chữa thực hiện quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Đây không chỉ là một quyền của người bào chữa mà còn là nguyên tắc cơ bản trong
luật tố tụng.
4. Nghĩa vụ của người bào chữa
Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa
có nghĩa vụ:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan
đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan
tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS năm
2003.
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ.
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình
đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
- Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án.
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc
bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào
mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 quy định thêm một số
quyền đồng thời cũng quy định thêm một số nghĩa vụ với người bào chữa, quy định
thêm về một số trách nhiệm của người bào chữa khi họ làm trái pháp luật.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ trên của LTTHS đối với người bào
chữa nếu được thực hiện đúng sẽ góp phần cùng với CQTHTT xác định sự thật vụ
án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
II. Thực tiễn thi hành và phương hướng hoàn thiện quy định về quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa theo BLTTHS năm 2003
1. Một số điểm tích cực và bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa theo BLTTHS năm 2003
Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa luật sư; đại diện hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân đều có các quyền
và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa. và thực tiễn thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa thể hiện một số điểm tích cực và bộc lộ
một số bất cập:
1. Thực tiễn tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong những năm
qua cho thấy, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ngày càng được
thực hiện tốt hơn và hiệu quả hơn so với những năm trước. Các CQTHTT đã tạo
điều kiện để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa cho họ thực hiện tốt
quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Không ít người bào chữa mà chủ
yếu là luật sư có phong cách bào chữa đầy cá tính, có lý lẽ, luận cứ bào chữa chặt
chẽ. Khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa đã thuyết phục được HĐXX bởi những
chứng cứ theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Những vụ án có
người bào chữa tham gia không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo mà còn giúp CQTHTT tránh được những thiếu sót, sai lầm trong
quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
góp phần bảo vệ và tăng cường pháp chế trong TTHS.
2. Đối với những trường hợp bào chữa chỉ định, Tòa án đã đảm bảo và yêu
cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, chất lượng bào chữa trong những trường hợp này chưa cao còn mang nặng
tính hình thức, yếu về trình độ, kém về nội dung. Bài bào chữa thường được viết
sẵn, có thể áp dụng cho nhiều vụ án chỉ chỉnh sửa đôi chút cho phù hợp. Do vậy,
những chứng cứ người bào chữa đưa ra rất chung chung và vô hình đã biến việc
bào chữa trở thành hình thức. Bởi lẽ, thực tế các luật sư có kinh nghiệm không
muốn bào chữa chỉ định mà các đoàn luất sư thường giao cho các luật sư trẻ hoặc
đang còn trog thời gian thực tập tham gia bào chữa đối với những vụ án mà người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về
thể chất hay tâm thần. Như vậy, trong khi pháp luật bắt buộc phải có sự giúp đỡ của
luật sư đối với những người không có hoặc hạn chế khả năng bào chữa hoặc người
mà có thể bị xử phạt với hình phạt nghiêm khắc nhất, thì trong thực tế họ lại nhận
được sự giúp đỡ của những luật sư khả năng, trình độ, kinh nghiệm hạn chế nhất.
Mâu thuẫn này giữa BLTTHS năm 2003 với thực tiễn cần phải được xem xét và
giải quyết thỏa đáng. Mặt khác, dường như các Cơ quan điều tra (CQĐT) cũng rất
hiếm khi yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị can từ khi có quyết định
khởi tố bị can cho trường hợp này.
3. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đứng ra bào
chữa trong trường hợp họ là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất
hay tâm thần thì cũng bộc lộ những điểm yếu kém. Người đại diện hợp pháp cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là người chưa thực sự am hiểu pháp luật, nên
họ thường không biết tận dụng hết quyền của mình được pháp luật cho phép như:
đọc hồ sơ, ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra v.v..Do đó,
trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi bào
chữa chỉ có thể khơi gợi ra những tình tiết về nhân thân giảm nhẹ TNHS của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà thôi.
4. Hình thức bào chữa nhờ người bào chữa luôn mang lại hiệu quả cao hơn
hình thức người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bào chữa vì nhiều lý do khác nhau
như: trình độ hiểu biết pháp luật, năng lực cũng như kinh nghiệm bào chữa, điều
kiện thực tế v.v...
5. Số lượng và chất lượng người bào chữa còn nhiều bất cập chưa đáp ứng
được tình hình hiện nay. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đên quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Số lượng vụ án có người bào chữa tham gia mới
tập trung chủ yếu tại các phiên tòa thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh. So
với tổng số vụ án đã được đưa ra xét xử thì số án có người bào chữa tham gia mới
chỉ chiếm tỷ lệ thấp. Điều này do “số lượng luật sư Việt Nam còn quá ít so với các
nước khác trong khu vực – nhận định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại buổi
đối thoại với các luật gia thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam sáng 8/12.
Tính đến nay, với hơn 5.800 luật sư đang hành nghề và hơn 2.200 đang thực
tập trên cả nước, đội ngũ luật sư đã và đang được đánh giá là có số lượng phát
triển vượt bậc chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm trở lại đây, với tốc độ phát triển đạt
250%.
Thủ tướng Dũng đưa ra nhận định này dựa trên so sánh giữa tỉ lệ luật sư
tính theo đầu người ở Việt Nam so với ở các nước khác: Việt Nam có 1 luật sư trên
16.000 người dân. Trong khi ở Mỹ, tỷ lệ này là 1/250, Nhật Bản là 1/400,
Singapore là 1/1.000, Thái Lan là 1/1.526”(1).
6. Tuy vậy, thực tiễn giải quyết các VAHS trong những năm qua cho thấy,
mặc dù pháp luật quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ nhưng quyền bào chữa
của bị can, bị cáo chưa được triệt để tôn trọng và chưa được CQTHTT tạo điều
kiện để bị can, bị cáo thực hiện. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bại can,
bị cáo; xử oan người vô tội, xét xử sai v.v..vẫn còn xảy ra là hậu quả của việc chưa
nhận thức đúng đắn ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện quyền bào chữa
của bị can, bị cáo. Một số NTTHT còn chưa nhận thức được việc bảo về quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân và minh oan cho người vô tội có ý nghĩa và tầm
___________________________
(1)Thứ Ba, 8/12/2009 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại buổi đối thoại với gần hơn
300 luật sự thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam sáng 8/12. Nguồn:
http://vneconomy.vn/2009120804344496P0C9920/thu-tuong-viet-nam-con-qua-it-luat-su.htm
quan trọng như việc xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội. Do vậy, trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử, họ thường chú ý tới khía cạnh không bỏ lọt tội phạm
hơn là khía cạnh không làm oan người vô tội và xem việc tham gia tố tụng của
người bào chữa NBC tại phiên tòa như một sự “trang trí” cho đúng thủ tục tố tụng
mà thôi. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, dẫn đến tình trạng oan sai trong tố tụng. Điều này là không thể chấp
nhận và nó dẫn đến việc nhân dân mất lòng tin với Nhà nước và pháp luật. Thực
hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo hiện nay không chỉ là mối quan tâm riêng
của bị can, bị cáo hay gia đình họ và những người làm công tác bảo vệ pháp luật
mà nó còn là sự quan tâm của toàn xã hội.
7. Hơn nữa, hiện nay do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta
còn nhiều mặt hạn chế nên khi nói đến người bào chữa là người ta chỉ nghĩ đến luật
sư còn những người khác không phải là luật sư thì không được coi là người bào
chữa (vì luật sư là trung tâm về hoạt động bào chữa). Chính sự hạn chế về hiểu biêt
pháp luật của người dân đã làm cho họ bị mất đi một phần quyền bào chữa. Ở đây,
luật sư chỉ là khái niệm nghề nghiệp, còn người bào chữa là khái niệm tố tụng.
8. Theo Pháp lệnh luật sư năm 2001 luật sư muốn tham gia tố tụng phải
thành lập văn phòng luật sư.
Điều 3 Pháp lệnh luật sư năm 2001, hình thức tổ chức hành nghề luật sư là
Văn phòng luật sư và Công ty luật hợp danh ngoài hai hình thức này không có một
tổ chức nào mà luật sư tham gia được hành nghề, kể cả đoàn luật sư, trung tâm tư
vấn pháp lý, trung tâm trợ giúp pháp luật v.v..
Theo quy định tại khoản 2 Điều 18 và khoản 2 Điều 19 Pháp lệnh luật sư, thì
chỉ có luật sư thuộc văn phòng luật sư mới thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực
tố tụng. Còn công ty luật hợp danh không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh
vực tố tụng. Theo điểm b khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh luật sư, thì chỉ có văn phòng
luật sư mới có nghĩa vụ cử luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án do CQTHTT
yêu cầu, theo sự phân công của đoàn luật sư.
Điểm này là bất hợp lý, vì pháp luật đã hạn chế đi quyền của các luật sư khi
thành lập công ty luật hợp danh. Khi đã hành nghề luật sư thì không kể là văn
phòng luật sư hay công ty luật hợp danh khi người bị tạm giam, bị can, bị cáo có
nhờ luật sư đó, hay được CQTHTT yêu cầu thì đều được tham gia tố tụng trong vụ
án. Như vậy sẽ góp phần bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giam, bị can, bị cáo và pháp chế trong TTHS.
9. Với người đại diện hợp pháp của người bị tạm giam, bị can, bị cáo nếu
không bào chữa cho những người đó thì họ cũng có những quyền như người tham
gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa.
Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo không khó, nhưng lại khó ở điểm: người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo đã thành niên nhưng không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà người
thân thích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy không phải là luật sư, bào chữa
viên nhân dân nhưng lại yêu cầu được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
vì họ là người có trình độ pháp lý, đã từng làm trong cơ quan tư pháp v.v.. Vậy
những người này có được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay không?
Hiện có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này, nhưng thực tiễn xét xử của
Tòa án đã công nhận và cấp giấy chứng nhận cho họ để họ thực hiện việc bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo quan điểm của mình, em cũng đồng tình
với cách giải quyết của Tòa án về cấn đề này. Bởi, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
sẽ cảm thấy gần gũi, yên tâm với những người thân thích của họ hơn là những
người bào chữa khác (luật sư, bào chữa viên nhân dân), qua đó người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo sẽ khai báo chính xác tình tiết vụ án hơn v.v..CQTHTT sẽ xác minh sự
thật vụ án được chính xác hơn, và việc xét xử được đúng người đúng tội. Mặt khác,
nó còn giảm chi phí thuê luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo v.v…
10. Thực tiễn về bào chữa viên nhân dân, thì hiện nay chưa có một quy định
cụ thể nào về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên
nhân dân không được tổ chức thành một hệ thống, điều kiện để trở thành bào chữa
viên nhân dân cũng không được quy định. Trong khi đó, trong xã hội có nhiều
người có đủ trình độ pháp lý, có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng họ chưa
được kết nạp vào Đoàn luật sư và họ lại được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhờ
bào chữa cho họ vậy họ có được Tòa án công nhận và cấp giấy chứng nhận không?
Theo quan điểm của mình, em cho Tòa án nên công nhận và cấp giấy chứng nhận
cho những người này (giải thích tương tự như đối với trường hợp người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Và thực tế, các Tòa án cũng vẫn
công nhận và cấp giấy chứng nhận cho những người này.
11. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, các CQTHTT đã tôn
trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa thực hiện các quyền của mình.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhất là đối với cơ quan điều tra đã đưa ra
những lý do để từ chối không cho người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị
can, thậm trí vụ án đã có kết luận điều tra, không thuộc trường hợp phải giữ bí mật
điều tra đối với tội đặc biệt xâm phạm an ninh quốc gia nhưng vẫn không cho
người bào chữa tham gia. Rất ít trường hợp cơ quan điều tra đồng ý để người bào
chữa có mặt khi hỏi cung bị can. Một số Tòa án còn không cho người bào chữa
photocopy các tài liệu có trong hồ sơ với lý do BLTTHS chỉ cho phép ghi chép chứ
không cho photocopy. Những tồn tại này đã được BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi,
bổ sung tương đối cụ thể về quyền của người bào chữa và nghĩa vụ của CQTHTT.
Các CQTHTT nghiêm chỉnh chấp hành các quy đinh này sẽ tạo điều kiện cho
người bào chữa thực hiện đầy đử quyền của họ khi tham gia tố tụng. Đây cũng là
điều kiện để nâng cao nghiệp vụ của NTHTT: buộc NTHTT phải cẩn thận hơn,
thực hiện đúng hơn các quy định của BLTTHS về hoạt động điều tra, tránh những
hậu quả đáng tiếc dẫn đến việc phải thay đổi NTHTT, hay bị kỷ luật do VPPL
trong hoạt động điều tra. Bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền của họ tức
là bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa – nguyên
tắc Hiến định và trở thành nguyên tắc cơ bản trong TTHS.
12. Trong giai đoạn xét xử, tại phiên tòa người bào chữa có quyền bình đẳng
với kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và
tranh luận trước tòa (Điều 19 BLTTHS) nhưng trong thực tiễn nó chưa được thực
hiện đầy đủ. Đây là biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc cơ bản của TTHS.
13. Ngoài ra, trong thực tiễn do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật quy định cho mình, nên người bào chữa không thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Có luật sư khi bào chữa đã không làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hay giảm nhẹ
trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà lại buộc tội người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Hơn nữa, có luật sư lại sử dụng mọi biện pháp, kể cả các biện pháp
mà pháp luật cấm để biện bạch, đổi trắng thay đen vì những khoản thù lao mà thân
chủ trả rất hậu hĩnh; có luật sư lợi dụng mối quan hệ với tòa án để tác động nhằm
giảm trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình bào chữa v.v.. Mặc
dù pháp luật quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật mà mình đã biết
được khi làm nhiệm vụ, nếu tiết lộ bí mật điều tra thì tùy theo trường hợp phải chịu
trách nhiệm theo các Điều 263, 264, 286, 287, 327, 328 BLHS, nhưng vẫn có
những trường hợp bí mật Nhà nước, bí mật điều tra, bí mật công tác, bí mật đời tư
mà người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín vẫn bị người bào chữa tiết lộ, thậm trí
dùng nó để gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình bào chữa.
14. Về vấn đề tòa án yêu cầu văn phòng luật sư cử người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực tế thì một số tòa án đã hiểu không đúng quy định
này, nên trong một số trường hợp lúng túng trong việc yêu cầu đoàn luật sư phân
công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo.
Ví dụ: Trong vụ án Năm Cam, TAND TPHCM yêu cầu đoàn luật sư TPHCM
phân cử người bào chữa cho bị cáo, mà trực tiếp cử luật sư không thuộc văn phòng
luật sư nào mà chỉ là thành viên của công ty luật hợp danh, nên TAND TPHCM
không chấp nhận đề luật sư này bào chữa cho Năm Cam(1).
Cũng có trường hợp tòa án không cần phải yêu cầu đoàn luật sư phân công
văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo, nhưng vẫn yêu cầu. Tuy vậy, có
thể nói việc cử người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa đã được
thực hiện nghiêm túc.
2. Phương hướng hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa
Thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có vai trò, ý
nghĩa rất quan trọng về mặt chính trị, xã hội cũng như pháp lý. Việc đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa là đòi hỏi khách
quan. Các giải pháp có thể là:
1. Kiện toàn lại hệ thống văn bản pháp luật có quy định những vấn đề liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
2. Mở rộng quyền hạn chế cho người bào chữa, tạo điều kiện cho họ có thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo đúng
pháp luật, đấu tranh bảo vệ sự công bằng, lẽ phải, thực hiện mục tiêu cao cả của
Đảng ta “xây dựng Nhà nước dân chủ, văn minh”, xây dựng nhiều thủ tục tố tụng
mang nhiều yếu tố tranh tụng như Nghị quyết số 08 ngày 02/012002 của Bộ chính
____________________________
http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Luat-su-Nguyen-Dang-Trung-duoc-bao-chua-cho-NamCam/10804020/218/
trị đã khẳng định.
3. Tăng cường đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng.
Nâng cao chất lượng chuyên môn và đào tạo nghề cho luật sư để tương xứng
với vị trí, vai trò của luật sư trong thời lỳ mới. Ngoài ra, người bào chữa (luật sư)
phải thường xuyên cập nhật kiến thức pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn thực hiện quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
một cách hiệu quả và đúng nghĩa của nó.
4. Trong quá trình giải quyết VAHS người bị tạm giữ, bị can, bị cáo do trình
độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế
5. Quan điểm của người bào chữa phải được ghi vào trong bản án. Cần quy
định bổ sung thêm khoản 4 Điều 199 BLTTHS: “ý kiến bào chữa của người bào
chữa phải được ghi vào trong bản án. Trường hợp không chấp nhận phải nêu rỗ lý
do”.
6. Người bào chữa cần phải được sao chép hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều
tra. Ngay kể cả hình thức photocopy thì các CQĐT cũng phải đồng ý cho người bào
chữa sao chép, không thể lấy lý do luật chỉ cho chép.
7. Ngoài việc trình bày lời bào chữa tại phiên tòa, người bào chữa phải nộp
lại bài bào chữa thể hiện quan điểm của mình về vụ án. Việc này không chỉ giúp
HĐXX mà còn giúp Tòa án cấp trên Giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới.
8. Nâng cao ý thức pháp luật, thay đổi nhận thức của nhân dân ta nói chung
và với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ rằng sự
tham gia của người bào chữa là tốn kém và không cần thiết. Nhận thức không đúng
về vị trí, vai tò của người bào chữa là rào cản, nên sự tham gia của người bào chữa
càng trở nên khó khăn.
9. Cần xóa bỏ quan niệm “án tại bỏ túi” một cách nghiêm túc. Do thực tế
quan niệm này đã tồn tại khá lâu, hằn sâu trong nhận thức không ít NTHTT làm
cho việc xử lý vụ án thiếu khách quan và có thể dẫn đến oan sai.
10. Chú trọng và nâng cao hơn nữa chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
11. Cần phải nghiên cứu chế độ trả thù là thỏa đáng với công sức mà người
bào chữa bỏ ra bào chữa trong vụ án. Có như vậy mới giúp người bào chữa mới tận
tâm, tận lực nghiên cứu vụ án để giảm trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo đúng pháp luật.
Kết luận
Với những quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong
BLTTHS năm 2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần làm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo dân chủ, công bằng
hơn.
Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc
giảm TNHS cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý các CQTHTT phải chung tay tạo
điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện được quyền và nghĩa vụ mà Luật
TTHS đã quy định cho người bào chữa. Qua đó góp phần bảo vệ Nhà nước, bảo vệ
pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2006;
2. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước CHXHCNVN, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội - 2004;
3. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác tư pháp và tập
huấn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;
4. Pháp lệnh luật sư năm 2001;
5. Nghị định 94/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh luật sư;
6. Phó giáo sư, Tiến sỹ. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học
BLTTHS, Nxb. Công an nhân dân;
7. Đinh Văn Quế, Tòa hình sự - TANDTC, Pháp luật hình sự thực tiễn xét
xử và án lệ, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội - 2005;
8. PGS.TS luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Thái Phúc, Tạp
chí KHPL số 4 (41)/2007, Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa
trong TTHS;
9. http://www.vnlawfind.com.vn/default.aspx?
tabid=192&ID=406&CateID=;
10.http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?
option=com_content&view=article&id=327:stgbbcnbcttths&catid=110:ct
c20074&Itemid=110;
11.http://www.lawvietnam.com.vn/index.php?
option=com_content&task=view&id=117&Itemid=33;
12.Hủy án vì thiếu luật sư: Có luật sư là có lợi cho cơ quan điều tra, Báo
Pháp luật TP. Hồ Chí Minh số 23/7/2007, tr 11.
Mục Lục
Trang
Lời mở đầu
Nội Dung
I. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của
BLTTHS
1
2
1. Khái niệm người bào chữa trong TTHS
2
2. Vai trò của người bào chữa
3
3. Quyền tố tụng của người bào chữa
4
4. Nghĩa vụ của người bào chữa
6
II. Thực tiễn thi hành và phương hướng hoàn thiện quy định về
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo BLTTHS năm 2003
7
1. Một số điểm tích cực và bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa theo BLTTHS năm 2003
7
2. Phương hướng hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa
13
Kết luận
15
- Xem thêm -