Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự...

Tài liệu Quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

.PDF
84
206
73

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ DIỆP QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Mai Hà nội, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn “Quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được ai công bố dưới bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Diệp MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1. Một số vấn đề lý luận vê quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......................................................................... 8 1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................................................................................................... 8 1.2. Ý nghĩa của quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................................................................................................... 18 1.3. Khái quát về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................................................................................................... 20 1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................................................................... 25 Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt nam về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực trạng thực hiện ........................................................................................................................... 28 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt nam về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................................... 28 2.2. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................................................................................ 42 Chương 3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......................................................................... 56 3.1. Các giải pháp về pháp luật.......................................................................................... 56 3.2. Các giải pháp về yếu tố con người ............................................................................. 62 3.3. Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan ........................................................... 65 3.4. Nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự ....................................................................................................................... 67 3.5. Tăng cường cơ chế giám sát và xử lý vi phạm ........................................................... 68 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 74 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TTHS : Tố tụng hình sự THTT : Tiến hành tố tụng VKSND : Viện kiểm sát nhân dân TAND : Tòa án nhân dân KSV : Kiểm sát viên ĐTV : Điều tra viên DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang 2.1 Số liệu thống kế số lượng vụ án có sự tham gia của Luật sư 47 bào chữa qua các năm 2010 – 2016 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là vấn đề không những bảo đảm quyền bào chữa – một trong những quyền quan trọng nhất của người bị buộc tội mà còn là vấn đề nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, ở nước ta, với mô hình tố tụng pha trộn ( kết hợp tranh tụng thiên về thẩm vấn) như hiện nay thì giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn mang tính quyết định việc giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra là cơ sở tiên quyết đồng thời cũng là những căn cứ mang tính quyết định đến quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, vấn đề quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luôn là một nội dung được nhiều người quan tâm nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và bảo vệ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp vẫn là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những nội dung đó là nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ Luật sư, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu: “…Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư…”. Trên tinh thần đó, Luật Luật sư năm 2012 đã có những sửa đổi, bổ sung chặt chẽ hơn việc tổ chức và hoạt động của Luật sư cũng như các tổ chức hành nghề luật sư. Mới đây, BLTTHS năm 2015 được sửa đổi một cách toàn diện theo hướng quy định rõ hơn về nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục tố tụng của các chủ thể THTT và chủ thể tham gia TTHS. Trong đó có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa” (Điều 16); quy định về quyền vào nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong TTHS, cũng như các quy định bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong TTHS (từ Điều 72 – Điều 82). 1 Mặc dù pháp luật thời gian qua đã có nhiều sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi quyền, nâng cao vị thế của Luật sư bào chữa. Tuy nhiên, hiện tại BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018, do đó vẫn cần có thời gian để kiểm nghiệm. Trong khi đó, trên thực tiễn việc thực thi quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa, đặc biệt là ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự vẫn bộc lộ rất nhiều điểm bất cập cần được nghiên cứu làm sáng tỏ hướng tới việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa ở giai đoạn mang tính quyết định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ thực tiễn hành nghề của bản thân tác giả cũng như một số đồng nghiệp khác, tác giả thấy rằng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự chưa hiệu quả. Tình trạng người có thẩm quyền THTT chưa thực sự tôn trọng và chưa tạo điều kiện cho Luật sư bào chữa thực hiện các quyền của người bào chữa còn nhiều. Bên cạnh đó, tuy không nhiều nhưng vẫn có tình trạng Luật sư trong quá trình hành nghề chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, “…một số ít Luật sư chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của sứ mệnh mà mình đang thực hiện, chưa quan tâm đến việc thường xuyên nâng cao chất lượng hành nghề, cá biệt vẫn còn có Luật sư vì chạy theo lợi ích vật chất vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng đạo đức nghề nghiệp” [29, tr.13]. Từ những lý do trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ đó đề xuất những giải pháp bảo đảm thực hiện tốtvấn đề này là rất cần thiết, góp phần bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ sự công bằng của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa đã được nhiều nhà luật học quan tâm, nghiên cứu hoặc đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể: 2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo các công trình khoa học mang tính lý luận sau: 2 -. Nguyễn Hòa Bình - Chủ biên (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. - Phạm Hồng Hải (1999), Vị trí của Luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử, Tạp chí Luật học, số 4. - TS. Luật sư Phan Trung Hoài (2015), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Đức Mai (2009), Đặc điểm mô hình tố tụng tranh tụng và hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23, Hà Nội. - Hoàng Thị Sơn (2000), Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 5, Hà nội. - Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. - Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2.2. Tình hình nghiên cứu thực tiễn Những công trình khoa học mang tính thực tiễn nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã được tác giả tham khảo gồm: - Phan Trung Hoài (2005), Bút ký luật sư – Tập 1, NXB Tư pháp, Hà Nội. - Hoàng Thị Sơn (2002), Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 4, Hà nội. - Hà Sơn (2017), Bị đuổi đánh va chạm giao thông, thợ hồ 9X được chuyển tội danh, Báo Pháp luật Việt Nam, số 205 (6.823), ngày 24/7/2017, Hà Nội. 2.3. Các tác giả chọn đề tài Luận văn có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Bùi Phương Lan (2015), Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội 3 - Lại Xuân Cường (2013), Người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Vũ Ngọc Hà (2013), Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật – ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Nguyễn Thị Thu Hiền (2013), Quyền bào chữa của người chưa thành niên phạm tội theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quân 1, Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Ngọc Thanh Phương (2013), Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thục tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Thị Hạnh Quyên (2013), Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia hà nội, Hà Nội. - Trần Thị Minh Nguyệt (2013), Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa luật – Đại học quốc gia hà nội, Hà Nội. - Nguyễn Văn Phương (2014), Vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt nam, Luật án tiến sĩ Luật học, Hà nội. - Hồ văn Sơn (2012), Địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Lê Thanh Thuận (2013), Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau, Luận văn Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội. - Phan Quốc Việt (2015), Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật, Trường đại học quốc gia Hà nội, Hà Nội. 4 Những công trình nghiên cứu này, về cơ bản đã đề cập đến vị trí, vai trò và hoạt động của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở phạm vi cả nước, do đó các tác giả chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tiếp thu, kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, kết hợp với việc tiếp tục nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn hành nghề Luật sư của mình, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Từ những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, Luận văn đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn: Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: + Xây dựng khái niệm khoa học về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; làm rõ ý nghĩa của việc quy định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; + Phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, so sánh với BLTTHS năm 2003; + Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ đó đưa ra giải pháp để bảo đảm thực hiện tốt quyền và và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn có 3 đối tượng nghiên cứu và tương ứng với mỗi đối tượng nghiên cứu là phạm vi nghiên cứu của từng đối tượng. Cụ thể: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Phần này tập trung nghiên cứu: Khái niệm, ý nghĩa và khái quát quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa ở mô hình tố tụng tranh tụng và thẩm vấn; những điều kiện bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra. - Nghiên cứu pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Phần này tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 và so sánh với quy định của BLTTHS 2003. - Nghiên cứu về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Phần này tập trung nghiên cứu thực trạng trên phạm vi toàn quốc từ năm 2010 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng; duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các quan điểm của Đảng, Nhà nước về quyền con người, về Nhà nước và pháp luật và cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. - Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, và phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở phân tích những quan điểm lý luận về Người bào chữa, Luật sư bào chữa theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, qua đó xây dựng quan điểm khoa học về Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; Phân tích đánh giá thực trạng về tổ chức, hoạt động và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Phân tích, đánh giá những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc này và từ đó đề xuất các giải pháp để bảo đảm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong 6 giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Bên cạnh đó, Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các nhà trường. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn, ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm có 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực trạng thực hiện. Chương 3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Luật sư bào chữa Trong thực tế, không ít người vẫn nhầm lẫn giữa Luật sư và Luật gia, hoặc có sự đồng nhất giữa Luật sư, Luật sư và người bào chữa, thậm chí đồng nhất Luật sư, Luật gia và người bào chữa. Từ đó, có quan điểm cho rằng “Luật sư là Luật gia được đào tạo thêm về kỹ năng hành nghề, được gia nhập đoàn Luật sư, qua đó được công nhận là Luật sư để hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp luật hoặc một trong hai lĩnh vực này” [21, tr.2]. Quan điểm khác có cách hiểu đơn giản hơn là: “Luật sư là người chuyên dựa vào pháp luật để bào chữa cho đương sự trước Tòa án” [54, tr.570], hoặc “Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên nghiệp và làm việc trong đoàn Luật sư” [62, tr.129]. Chúng tôi cho rằng, các quan điểm trên chỉ là cách hiểu đơn giản và chưa đầy đủ, không dựa trên các tiêu chí, điều kiện cụ thể nào theo quy định của pháp luật để phân biệt giữa Luật sư với Luật gia, hoặc với người bào chữa. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này, một mặt là do hệ thống luật pháp nói chung và các nghề nghiệp về tư pháp ở Việt Nam nói riêng chưa phát triển; một mặt là do quá trình dịch các thuật ngữ có liên quan đến ngôn ngữ nước ngoài chưa chuẩn xác, chưa có sự thống nhất [21. tr.2]. Phần nữa là do người dân chưa tiếp cận nhiều với các dịch vụ pháp lý. Để làm rõ khái niệm Luật sư, đồng thời phân biệt Luật sư với Luật gia hay với người bào chữa từ đó đưa ra khái niệm về Luật sư bào chữa cần phải dựa trên các quy định của pháp luật ở nước ta. Để có cách nhìn rõ hơn và phân biệt được Luật sư, Luật gia, Người bào chữa ta có thể nhìn vào mô hình sau: 8 Luật sư Người bào chữa Luật gia Mô hình về sự tương quan giữa Luật sư – Luật gia – Người bào chữa * Luật gia Theo quy định của Điều lệ Hội Luật gia Việt Nam thì công dân Việt Nam có phầm chất đạo đức tốt, đã hoặc đang làm công tác pháp luật trong các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức văn hóa, tổ chức giáo dục, đơn vị vũ trang nhân dân, tự nguyện hoạt động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân, góp phần xây dựng nền khoa học pháp lý, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Công dân Việt Nam có đủ điều kiện, tiêu chuẩn này nếu làm đơn xin gia nhập Hội, và được Hội xét kết nạp thì trở thành thành viên Hội Luật gia; công dân Việt Nam không có điều kiện hoặc không đủ điều tiêu chuẩn trở thành hội viên chính thức của Hội, tán thành Điều lệ Hội, có công đóng góp cho Hội và tự nguyện xin vào Hội có thể được công nhận là Hội viên danh dự. Trên thực tế, có rất nhiều Luật sư đăng ký gia nhập Hội Luật gia Việt nam. * Luật sư Hiện nay ở nước ta, một người muốn trở thành Luật sư thì trước hết phải có sức khỏe tốt, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, tham gia và tốt nghiệp khóa đào tạo nghề luật sư, trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, vượt qua kỳ thi chuyển Luật sư chính thức để có Chứng chỉ hành nghề Luật sư, đăng ký gia nhập một đoàn luật sư để có thẻ Luật sư. 9 Như vậy, tiêu chuẩn và điều kiện trở thành Luật sư cơ bản khác hẳn so với Luật gia. Điểm khác biệt giữa Luật sư và Luật gia là để trở thành Luật sư nhất thiết phải có bằng cử nhân Luật, phải trải qua khóa đào tạo nghề Luật sư, trải qua thời gian tập sự và vượt qua kỳ thi lấy chứng chỉ hành nghề, trong khi đó Luật gia không cần những điều kiện này mà chỉ cần am hiểu về pháp luật. Từ những tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật để một người có thể trở thành Luật sư, Nhà nước ta đòi hỏi rất cao và rất chặt chẽ đối với đội ngũ Luật sư, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng tới công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng những người làm công tác tư pháp và bổ trợ tư pháp. Cũng như các tiêu chuẩn, điều kiện yêu cầu để được bổ nhiệm chức danh Kiểm sát viên và Thẩm phán được quy định trong Luật tổ chức Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, thì các quy định về tiêu chuẩn để được công nhận chức danh Luật sư và được hành nghề Luật sư cũng được Luật Luật sư quy định rất chặt chẽ. Một người được hành nghề luật sư phải đáp ứng đủ hai điều kiện: được Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư do mình lựa chọn. Điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư là yêu cầu chuyên môn (có Bằng Cử nhân Luật, đã tốt nghiệp khóa đào tạo nghề, đã hoàn thành thời gian tập sự hành nghề luật sư và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư). Điều kiện hành nghề luật sư quy định tại Luật Luật sư năm 2006 và Luật được sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Luật sư năm 2012. Quy định này phù hợp với thông lệ nghề nghiệp được pháp luật về luật sư nhiều nước trên thế giới quy định [21, tr.13]. Từ những so sánh, phân tích nêu trên, chúng tôi khái niệm về Luật sư như sau: “Luật sư là một chức danh thuộc lĩnh vực tư pháp, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật để tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, hoặc đại diện ngoài tố tụng cho cá nhân, tổ chức và các dịch vụ pháp lý khác”. * Người bào chữa Có quan điểm cho rằng: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ đúng pháp luật” [10, tr.7]. Chúng tôi cho rằng, quan điểm này chưa chính xác, chưa khái quát được địa vi pháp lý và chức năng của người bào chữa; chưa phân biệt 10 được người bào chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự. Quan điểm khác cho rằng: “Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ” [10, tr.7]. Quan điểm này, mặc dù đã phân biệt được chức năng của người bào chữa, nhưng lại quá thiên về việc xác định tính vật chất của tình tiết xác định vô tội, xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội mà quên đi vai trò của bào chữa. Người bào chữa trong vụ án hình sự không chỉ là người đưa ra các tình tiết xác địnhngười bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền và lợi ích của họ, mà còn là người bảo vệ sự công bằng của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; không thể vì bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội mà làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác. Người bào chữa thông qua các quyền và nghĩa vụ của mình để bào chữa cho người bị buộc tội, nhưng cũng thông qua quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ sự công bằng của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ sự chưa thống nhất quan điểm về khái niệm người bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm về Người bào chữa, theo đó: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký” (khoản 1 Điều 72). Như vậy, Luật sư hoặc những người khác có thể trở thành người bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự khi được người bị buộc tội nhờ, pháp luật TTHS gọi chung họ là “người bào chữa”. Theo quy định của pháp luật TTHS nước ta thì người bào chữa, gồm: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân (Điều 56 BLTTHS năm 2003). BLTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các quy định về người bào chữa, theo đó, người bào chữa gồm: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân và Trợ giúp viên 11 pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý (Điều 72 BLTTHS năm 2015). Như vậy, chúng ta có thể thấy chủ thể có thể trở thành người bào chữa cho người bị buộc tội quy định trong BLTTHS năm 2015 đã được mở rộng hơn so với BLTTHS trước đó. Tuy nhiên, với những tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình chặt chẽ để trở thành Luật sư, hoạt động của Luật sư trên thực tế có hiệu quả và chất lượng hơn so với những người bào chữa khác. Điều đó được ghi nhận không những trong thực tiễn mà ngay cả khi làm Luật các nhà Luật học vẫn luôn đặt Luật sư ở một vị trí, địa vị pháp lý quan trọng, đầu tiên với tư cách là “bên gỡ tội” cho người bị buộc tội.. Luật sư bào chữa ngoài những đặc điểm và vai trò chung như người bào chữa khác thì có những đặc điểm và vai trò như sau: Đặc điểm của Luật sư bào chữa: - Luật sư bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa, hoặc được cơ quan có thẩm quyền THTTyêu cầu để bào chữa. Luật sư cũng như những chủ thể khác là người bào chữa, đó là Luật sư chỉ trở thành người bào chữa khi có đủ các điều kiện quy định của pháp luật và được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc được cơ quan có thẩm quyền THTTyêu cầu để bào chữa. - Luật sư bào chữa cũng như những chủ thể khác là người bào chữa khi được người bị buộc tội nhờ bào chữa, hoặc được cơ quan có thẩm quyền THTT yêu cầu bào chữa phải đến cơ quan có thẩm quyền THTT đăng ký việc bào chữa và phải được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. - Luật sư bào chữa khác với những chủ thể khác là người bào chữa, đó là người có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện và kỹ năng nghề nghiệp theo quy định của Luật Luật sư. Khi tham gia tố tụng, Luật sư bào chữa vận dụng các kỹ năng nghề nghiệp để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội cũng như giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. - Luật sư bào chữa có địa vị pháp lý, có quyền và nghĩa vụ riêng biệt, không phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội. 12 - Luật sư bào chữa tham gia TTHS không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, mà hoạt động của người bào chữa trong quá trình TTHS là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Từ phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm về Luật sư bào chữa như sau: “Luật sư bào chữa là Luật sư được người bị buộc tội nhờ hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ sự công bằng của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” Vai trò của Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự: Quá trình Luật sư bào chữa tham gia TTHS, với tư cách là một người hành nghề luật sư chuyên nghiệp, am tường luật pháp và với kỹ năng nghề nghiệp của mình Luật sư sẽ giúp cho người bị buộc có được niềm tin nội tâm rằng vụ án sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, công tâm, khách quan; những vấn đề liên quan đến tội trạng của mình sẽ được minh oan hoặc giảm nhẹ nhất có thể; với tư cách là một bên gỡ tội, thông qua các quyền năng pháp lý của mình Luật sư tham gia TTHS góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật; loại bỏ sự chuyên quyền của người THTT, tránh sự xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đồng thời chứng minh cho sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội; sự có mặt của Luật sư bào chữa trong các giai đoạnTTHS, đặc biệt là giai đoạn điều tra sẽ góp phần cho việc hỏi cung được đầy đủ, trung thực, tránh được tình trạng mớm cung, bức cung, dùng nhục hình đối với người bị buộc tội; cùng với quá trình giải quyết vụ án hình sự, hoạt động của Luật sư bào chữa trong các giai đoạn tố tụng sẽ giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền THTT thấy được ngay sự thiếu sót, vi phạm cần phải bổ sung, khắc phục kịp thời; Luật sư bào chữa, thông qua hoạt động bào chữa của mình, giúp cho các cơ quan, người có thẩm quyền THTT nắm chắc bản chất của vụ án, tội phạm, người phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân của tội phạm để đưa ra các quyết định tố tụng (kết luận điều tra, cáo trạng, bản án hoặc quyết của Tòa án….) có căn cứ, đúng pháp luật, đủ tính răn đe nhưng cũng phải đáp ứng yêu cầu của việc giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, với nghĩa vụ của mình, Luật sư 13 bào chữa tham gia TTHS, cùng với các cơ quan, người có thẩm quyền THTT góp phần bảo vệ sự công bằng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng niềm tin của công dân vào sự nghiêm minh của pháp luật. Từ đó, nâng ý thức chấp hành pháp luật, tham gia tích cực và hiệu quả trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. 1.1.2. Quyền và nghĩa vụ tố tụngcủa Luật sư bào chữa Theo Từ điển Tiếng Việt thì “quyền” được hiểu là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi; ở một nghĩa khác thì “quyền” được hiểu là những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm. Còn “nghĩa vụ” là việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác [54, tr.786, 656]. Khi tham gia TTHS với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội Luật sư phải tuân thủ các quy định của pháp luật về TTHS cũng như các quy định của Luật Luật sư. Điều 27 Luật Luật sư quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”. Và, ở đây Luật sư có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về TTHS; các quyền và nghĩa vụ này không phải là sự thỏa thuận giữa Luật sư và người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, hoặc bị cáo (hoặc với người đại diện hoặc với người thân thích của người bị buộc tội), mà là các quyền và nghĩa vụ do Nhà nước quy định trong BLTTHS sự đối với người bào chữa nói chung, trong đó có Luật sư. Trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật về TTHS quy định cho mình, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người bị buộc tội và góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Mối quan hệ giữa Luật sư bào chữa và người được bào chữa (người bị buộc tội) chỉ xuất hiện khi người bị buộc tội nhờ Luật sư bào chữa cho họ và được cơ quan THTT thông báo tiếp nhận việc bào chữa (chấp nhận việc bào chữa) hoặc người bị buộc tội thuộc trường hợp cơ quan tiến hành yêu cầu người bào chữa và được người này đồng ý. Theo đó, cả hai trường hợp này, ý chí của người bị buộc tội luôn là yếu tố quyết định có hay không sự tham gia của Luật sư bào chữa trong TTHS. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải, thì bản thân người bào chữa không có lợi ích liên quan tới vụ án hình 14 sự, sự tham gia của họ trong tố tụng dù dưới hình thức được mời hay được cử thì cũng vẫn nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Chính vì vậy, có thể khẳng định thực hiện công việc bào chữa cho người bị buộc tội là trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa [15, tr.13]. Mục tiêu của sự tham gia của Luật sư bào chữa trong TTHS là nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội khỏi sự vi phạm có thể xảy ra từ phía những người THTT và những người tham gia tố tụng khác. Chính vì vậy, Luật sư phải trong phạm vi quyền hạn pháp luật TTHS cho phép, cũng như phát huy trách nhiệm và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thực hiện hành vi tố tụng của mình để bào chữa cho người bị buộc tội một cách hiệu quả nhất. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi có thể khái quát quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa trong TTHS là những việc mà pháp luật TTHS cho phép Luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội được phép làm hoặc đòi hỏi phải làm. Theo đó, Luật sư trong phạm vi quyền hạn pháp luật TTHS cho phép, phát huy trách nhiệm và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thực hiện hành vi tố tụng của mình để bào chữa cho người bị buộc tội một cách hiệu quả nhất; bảo đảm tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, đồng thời góp phần bảo đảm sự công bằng của pháp luật và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.1.3. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự Khái niệm giai đoạn điều tra: Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền THTT ra quyết định khởi tố vụ án đến khi CQĐT kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra và quyết định đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Với mục tiêu là phát hiện chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm nhưng cũng không được làm oan người vô tội, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có thể nói là gia đoạn quan trọng nhất, đặc biệt là với mô hình tố tụng pha trộn thiên về thẩm vấn như hiện nay. Kết quả của hoạt động điều tra nếu không dẫn đến việc đình chỉ điều tra vụ án thìlà căn cứ cốt yếu để xét xử của Tòa án. Mọi quyết định của Tòa án về tội phạm và người phạm tội đều phải dựa vào tính đúng đắn của các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Chính vì tầm quan trọng của giai đoạn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan