Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố t...

Tài liệu Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh long an

.PDF
72
290
143

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TIỆT QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TIỆT QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi. Những tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn vừ mang tính kế thừa các công trình khoa học trước đây nhưng đảm bảo chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác. Tác giả luận văn NGUYỄN VĂN TIỆT MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HƠP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 6 1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự ..................................................................... 6 1.2. Pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự ......................................................................................................... 19 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN ...................................................... 28 2.1. Sơ lược về tỉnh Long An và tình hình về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo tố tụng hình sự Việt Nam .................................................... 28 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2010 đến 2016 ....... 31 2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2010 đến 2016 ............................................................................................................. 44 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ.......................................................................................... 48 3.1. Giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đương sự, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự ......................................................................................................... 48 3.2. Giải pháp tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thống nhất trong cả nước đối với đương sự ............................... 55 3.3. Các giải pháp khác ............................................................................... 56 KẾT LUẬN .................................................................................................... 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 63 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Việc tham gia tố tụng của họ không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định đúng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và buộc người có hành vi tội phạm phải chịu trách nhiệm. Xác định đúng tư cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của những người này trong quá trình tiến hành tố tụng là một trong những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 qui định nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án là những người tham gia tố tụng nhưng không qui định rõ về quyền và lợi ích hợp pháp của họ và chế định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Ngoài ra Bộ luật tố tụng hình sự 1988 chưa xếp họ vào nhóm đương sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/12/2003 không định nghĩa thế nào là đương sự. Tuy nhiên tại điều 59 qui định người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, khoản 1 điều này qui định: “1. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”. Mặt khác bộ luật qui định về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh 1 và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể không được giải quyết đồng thời với vụ án hình sự. Nhưng họ được tham gia tố tụng và họ được quyền mời luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho họ trong tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tại điểm g, khoản 1, điều 4 đã đưa ra định nghĩa: “Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Như vậy đương sự trong luật mới không bao gồm bị hại nhưng chủ thể thực hiện chức năng này lại đồng nhất tại điều 84. Chủ thể thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự trong vụ án hình sự có thêm người đại diện nhưng không định nghĩa người đại diện như thế nào dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An là một đề tài có giá trị tham khảo nhất định đối với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế còn là một nhu cầu khách quan và cần thiết hiện nay. Với những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm Luận văn thạc sĩ Luật học. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về việc quy định và áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự như Luận văn thạc sỹ Luật học, các bài viết, công trình nghiên cứu phân tích, giải quyết và làm rõ được một số vấn đề lý luận về bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự như: khái niệm, ý nghĩa, các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự nhưng chưa có công trình nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án hình sự. Đây là một đề tài mới nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn thông qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng qui định về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An với mong muốn sẽ đóng góp một cách tiếp cận nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam tại một địa bàn cụ thể, từ đó góp phần nâng cao nhận thức về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói chung cũng như đề xuất các giải pháp mang tính cụ thể về vấn đề này. Trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu trên, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ như sau: Khái quát các vấn đề lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong trong tố tụng hình sự như: khái niệm, bản chất, đặc điểm, phân loại và những phát triển về lý luận và qui định về quyền và lợi ích hợp pháp của 3 đương sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2016. Đánh giá thực trạng áp dụng các qui định về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự từ thực tiễn tỉnh Long An trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2016. Đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng các quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2016, nghiên cứu đánh giá thực trạng áp dụng các qui định của pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự từ thực tiễn tỉnh Long An từ năm 2010 đến năm 2016. Trong đó, khái niệm đương sự được hiểu theo quan điểm của Bộ luật tố tụng hình sự mới 2015, bao gồm: Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận nhà nước và pháp luật. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê … 6. Ý nghĩa luận và thực tiễn của luận văn Tập hợp những nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng về ý nghĩa của việc quy định và áp dụng các quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự 4 theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An giai đoạn từ ngày 01/10/2010 đến ngày 31/10/2016. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cầu gổm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự từ thực tiễn tỉnh Long An. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HƠP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự - Khái niệm đương sự trong tố tụng hình sự: Theo Từ điển tiếng Việt, đương sự là “Người là đối tượng trong một sự việc nào đó được đưa ra giải quyết”. Như vậy, đương sự chỉ bao gồm những chủ thể tham gia vào vụ việc được giải quyết mà vụ việc đó có ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Khái niệm đương sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính tương đồng với khái niệm này. Riêng thuật ngữ đương sự trong Tố tụng hình sự lại được hiểu ở những phạm vi khác. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 qui định người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án là những người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/12/2003 không định nghĩa thế nào là đương sự. Tuy nhiên tại điều 59 qui định người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, khoản 1 điều này qui định: “1. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tại điểm g, khoản 1, điều 4 đã đưa ra định nghĩa: “Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Như 6 vậy đương sự trong tố tụng hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không bao gồm bị hại. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 qui định: “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.” (Khoản 1, điều 40); “Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.” (Khoản 1, điều 41); Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 không định nghĩa thế nào là “Người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án” nhưng vẫn đưa họ tham gia tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 vẫn giữ nguyên khái niệm nguyên đơn dân sự. Sửa đổi khái niệm bị đơn dân sự “Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng đã bổ sung “người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án” tham gia tố tụng tuy chưa định nghĩa thế nào là người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 qui định: “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại” (Khoản 1, điều 63). Như vậy nguyên đơn dân sự phải là chủ thể bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong vụ án dân sự người khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình là nguyên đơn dân sự. Nguyên đơn trong tố tụng dân sự không nhất thiết phải bị thiệt hại; thiệt hại không chỉ là thiệt hại về vật chất mà còn có những thiệt hại khác, và nhất thiết không phải là thiệt hại do tội phạm gây ra. Còn nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự là người bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại khác và thiệt hại đó gắn liện với hành vi tội phạm gây ra. Nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự có thể đồng thời là người bị hại trong vụ án hình sự nếu họ có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong trường 7 hợp này thì họ có cả quyền của người bị hại và quyền của nguyên đơn dân sự. Tuy nhiên, họ chỉ sử dụng quyền của người bị hại khi tham gia tố tụng là đủ, không cần thiết phải tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Trong một số trường hợp, người bị thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm do tội phạm gây ra nhưng hành vi đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi khác do cùng một chủ thể gây ra thì họ không phải là bị hại. Trường hợp này nếu họ có đơn yêu cầu bồi thường thì cơ quan tiến hành tố tụng xác định họ là nguyên đơn dân sự. Ví dụ một nhóm người xông vào quán đập phá làm hư hỏng tài sản, đánh người gây thương tích nhẹ nên thiệt hại không đủ định lượng truy tố tội “Huỷ hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” và tội “Cố ý gậy thương tích”. Nhóm người đó chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội “Gây rối trật tự công cộng”. Trong trường hợp này chủ tài sản bị hư hại và người bị thương tích không phải là bị hại. Nếu họ có đơn yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng xác định họ tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự. “Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại” (Khoản 1, điều 64). Bị đơn dân sự là cá nhân, tức là người có hành vi phạm tội gây ra thiệt hại về vật chất cho nguyên đơn dân sự. Nếu người có hành vi phạm tội gây ra thiệt hại về vật chất cho nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên thì bố, mẹ hoặc người đỡ đầu của người chưa thành niên đó là bị đơn dân sự. Như vậy, bị đơn dân sự là cá nhân có thể là bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo là người thành niên và việc phạm tội của họ không liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ do cơ quan, tổ chức giao cho; cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Cơ quan, tổ chức là bị đơn dân sự khi cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động của cơ quan, tổ chức này có hành vi phạm tội gây thiệt hại về vật chất cho nguyên 8 đơn dân sự. Ngoài ra, chủ nguồn nguy hiểm cao độ, bên bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng có thể trở thành bị đơn dân sự nếu nguyên đơn dân sự yêu cầu. Trong trường hợp bị hại, nguyên đơn dân sự có đơn yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại thì họ vừa là bị cáo vừa là bị đơn dân sự nhưng trong thực tiễn xét xử cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xác định tư cách tham gia tố tụng của họ là bị cáo mà không xác định họ vừa là bị cáo vừa là bị đơn dân sự. Tuy nhiên trong trường hợp này họ vẫn có quyền của bị đơn dân sự trong vụ án hình sự. “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự” (Khoản 1, điều 65). Người có quyền lợi liên quan đến vụ án hình sự chỉ có quyền lợi về vật chất do bị tội phạm xâm hại nhưng họ không có đơn yêu cầu. Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự chỉ có nghĩ vụ bồi thường về vật chất do bị tội phạm xâm hại nhưng họ không bị yêu cầu bồi thường. Đặc biệt trong một số trường hợp luật định họ còn phại bồi thường thay cho bị cáo nếu họ là cha, mẹ, người giám hộ cho bị cáo là người chưa thành niên, người bị hạn chế về thể chất, tinh thần. Như vậy, đương sự trong tố tụng hình sự bao gồm: Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. - Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự: Từ khái niệm đương sự trong tố tụng hình sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự cho nên đương sự trong tố tụng hình sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Quyền của họ là quyền dân sự bao gồm quyền về tài sản theo qui định của Bộ luật dân sự. Lợi ích của họ là lợi ích vật chất có được từ quyền về tài sản. Để được công nhận là nguyên đơn dân sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Cá nhân, cơ quan, tổ chức đã được 9 công nhận là nguyên đơn dân sự là người tham gia tố tụng hình sự. Nguyên đơn dân sự có các quyền: Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; Quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; Quyền tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên tòa; Quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Quyền tự khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại; Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Bị đơn dân sự có các quyền: Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự; Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án có liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại; Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Quyền tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi 10 ích hợp pháp của bị đơn; xem biên bản phiên tòa; Quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại; Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền: Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; Tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện các quyền của họ. Như vậy, quyền của đương sự trong tố tụng hình sự là quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và quyền bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra và lợi ích hợp pháp của đương sự là lợi ích phát sinh từ quyền của đương sự. 1.1.2. Bản chất quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự Từ phân tích quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nêu trên thì đương sự nhìn chung có một số quyền giống nhau như: Quyền được thông 11 báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; Quyền tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; Quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Tuỳ theo tư cách tham gia tố tụng mà các đương sự có những quyền và lợi ích khác nhau. Nguyên đơn dân sự còn được quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại. Bị đơn dân sự được quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự. Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Để trở thành nguyên đơn dân sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu bị thiệt hại nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại không có đơn yêu cầu bồi thường thì cũng không phải là nguyên đơn dân sự. Nếu cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức tuy có bị thiệt hại nhưng họ không có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại thì họ không thể tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể buộc họ phải tham gia tố tụng trong vụ án hình sự với tư cách nguyên đơn dân sự. Không có nguyên đơn dân sự thì sẽ không có bị đơn dân sự. Trong trường hợp này, tòa án phải tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến 12 trách nhiệm hình sự của bị cáo. Việc tham gia tố tụng đối với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự là quyền chứ không phải nghĩa vụ; nếu xét thấy sự có mặt tại phiên tòa của họ là cần thiết để xác định sự thật vụ án thì tòa án chỉ có thể triệu tập họ đến phiên tòa với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự là quyền dân sự nên mang bản chất dân sự mà cụ thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 1.1.3. Đặc điểm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự Đặc điểm thứ nhất: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự gắn liền với hành vi phạm tội. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự nên nó chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta là giải quyết vấn đề dân sự cùng với trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự, không tách riêng vấn đề dân sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự trừ trường hợp việc tách phần dân sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự. Mặt khác, do đây là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự nên nguyên tắc này chi phối toàn bộ quá trình tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án có vấn đề dân sự phát sinh do tội phạm gây ra. Vì vậy trong quá trình tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự còn phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tố chức. Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự vấn đề dân sự đã phải là một trong những nội dung cần phải thu thập chứng 13 cứ đề chứng minh làm rõ và thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Tòa án, với chức năng của mình trên cơ sở những chứng cứ đã thu thập được của Cơ quan điều tra và trong phạm vi quyết định truy tố của Viện kiểm sát tiến hành xét xử, ra phán quyết những vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự cùng với việc giải quyết những nội dung của trách nhiệm hình sự trong cùng một bản án. Trong vụ án hình sự, khi đã khởi tố vụ án mà có vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét giải quyết ngay mà không cần phải có thủ tục khởi kiện dân sự khác nữa. Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ được xem xét và giải quyết ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự mà không cần phải có bất kể thủ tục nào khác nữa, kể cả thủ tục phải có yêu cầu khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, chủ thể tham gia vào việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng hình sự giữa một bên là người phải bồi thường với tư cách tố tụng là bị can, bị cáo hoặc bị đơn dân sự với một bên là người được bồi thường với tư cách tố tụng là người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Qua đó, có thể thấy trong thủ tục tố tụng hình sự thì tư cách tố tụng của bị đơn có thể đồng thời là bị can, bị cáo. Việc đưa ra yêu cầu bồi thường được quy định tại các điều 63,64 và 65 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì đây là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hình sự nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nói riêng luôn gắn liền với việc khởi tố vụ án hình sự. Nói cách khác, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mang đặc điểm gắn liền với hành vi tội phạm. Đặc điểm thứ hai: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự là quyền về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 14 Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ có phạm vi áp dụng đối với những quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện do việc thực hiện tội phạm. Có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm gây thiệt hại cho các quan hệ dân sự, bao gồm thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì ngoài việc làm phát sinh trách nhiệm hình sự, còn làm phát sinh trách nhiệm dân sự của những người tham gia tố tụng nói chung và đương sự nói riêng. Những vấn đề có liên quan đến tiền và tài sản như: tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có, đòi lại tài sản, đòi bồi thường thiệt hại… Nói cách khác, đối với quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án hình sự chỉ được xác định trong phạm vi thiệt hại về tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mang đặc điểm là quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và quyền bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Đặc điểm thứ ba: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự là quyền tự thoả thuận, tự định đoạt. Trong vụ án hình sự, khi đã khởi tố vụ án mà có vấn đề thiệt hại liên quan đến việc thực hiện tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét giải quyết ngay mà không cần phải có thủ tục khởi kiện dân sự khác. Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ được xem xét và giải quyết ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không cần phải có bất kể thủ tục nào khác nữa, kể cả thủ tục phải có yêu cầu khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Như vậy quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nói riêng được đảm bảo trong tố tụng hình sự thông qua các điểm a, khoản 2, điều 63; điểm a, khoản 2, điều 64; và điểm a, khoản 2, điều 65; Bộ luật tố tụng hình sự. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan