Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam...

Tài liệu Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

.PDF
101
439
61

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ NGÂN QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ NGÂN QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN NHO THÌN HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đào Thị Ngân MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG.............................................................................................7 1.1. Khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ................................................................................................................7 1.1.1. Tín ngưỡng ....................................................................................................7 1.1.2. Tôn giáo .........................................................................................................9 1.1.3. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ...............................................................17 1.2. Tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam.........................................................26 1.2.1. Tín ngưỡng Việt Nam .................................................................................27 1.2.2. Tôn giáo Việt Nam ......................................................................................28 Kết luận chương 1 ...................................................................................................34 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM ......................................................................................... 35 2.1. Quy định về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong Luật Nhân quyền quốc tế .............................................................................................35 2.1.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế .........................35 2.1.2. Nội hàm của quyền ......................................................................................40 2.2. Quy định về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong pháp luật Việt Nam .............................................................................................................48 2.2.1. Quy định trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước .......................48 2.2.2. Quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác ...............................51 2.2.3. Nội hàm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam ...............55 2.3. Đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với Luật Nhân quyền quốc tế về bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. ........61 2.4. Thực trạng thực thi bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam .............................................................................................................64 2.4.1. Thực trạng ...................................................................................................64 2.4.2. Thành tựu ....................................................................................................66 2.4.3. Hạn chế ........................................................................................................72 Kết luận chương 2 ...................................................................................................76 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG ....................................................................78 3.1. Quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo ..............................................................................................................78 3.2. Quan điểm chung hoàn thiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam....................................................................80 3.2.1. Quan điểm chung .........................................................................................80 3.2.2. Các kiến nghị cụ thể .....................................................................................81 Kết luận chương 3 ...................................................................................................89 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................93 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo có lịch sử phát triển lâu đời từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên; cho tới nay tôn giáo rất đa dạng về loại hình, đông đảo về số lượng tín đồ và có ảnh hưởng lớn tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở tất cả các quốc gia. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền con người cơ bản được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế quan trọng: Hiến chương Liên hợp Quốc năm 1945; Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 và các Công ước, Điều ước quốc tế về quyền con người khác. Việt Nam cũng đã gia nhập một số Công ước quan trọng có liên quan tới quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Những quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng có tính áp dụng phổ biến cho toàn thế giới có chứa đựng những yếu tố tiến bộ cần học hỏi để áp dụng trong tiến trình lập pháp, bên cạnh đó, những Điều ước, Công ước mà Việt Nam tham gia cũng cần được nội luật hóa vào pháp luật trong nước để đưa ra hành lang pháp lý ổn định áp dụng cho việc bảo đảm quyền con người. Việt Nam là quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo và đông tín đồ, chức sắc, các nhà tu hành. Bởi vậy, tôn giáo không còn là vấn đề nhỏ tập trung vào một nhóm thiểu số nữa mà đã là quan hệ xã hội phức tạp, cần có sự điều chỉnh toàn diện của pháp luật trong nước. Ngoài ra, trong quá trình phát triển của xã hội, sự nâng cao về nhận thức của người dân, sự hội nhập với quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không đơn giản chỉ là sự ghi nhận quyền trong các văn bản pháp luật, sự cho phép theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo mà còn cần thiết phải đưa ra những công cụ bảo đảm nhất định đối với quyền này, tôn trọng và đảm bảo cho các hoạt động của các tổ chức tôn giáo theo đúng khuôn khổ pháp luật. Thêm nữa trong bối Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc đảm bảo và đề cao những quyền cơ bản của con người là việc cấp thiết trong đó một trong những quyền cần đảm bảo trước hết là quyền tự 1 do tôn giáo, tin ngưỡng của người dân. Tuy nhiên, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trên thực tế việc đảm bảo quyền này dễ bị các phần tử chống phá nhà nước lợi dụng để thực hiện âm mưu phản động của mình. Bên cạnh đó, một số đối tượng cũng có thể lợi dụng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng vào những mục đích không tốt như là thực hành mê tín dị đoan. Do vậy, cần có sự hiểu biết đầy đủ và đúng đắn về quyền cơ bản này của công dân để có sự chủ động trong các công tác phòng, tránh tác động xấu từ việc thụ hưởng quyền này từ phía công dân tới công cuộc xây dựng và quản lý nhà nước. Việc nghiên cứu chủ động và đầy đủ về các quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo sẽ là công cụ hữu hiệu để ngăn cản sự lạm dụng quyền này từ những người có ý đồ không tốt, đồng thời là có cơ sở để xử lý các sai phạm có liên quan. Quan điểm thống nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ trước tới nay đều tôn trọng và đảm bảo quyền cho đồng bào có đạo. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách không tránh khỏi còn có những tồn tại, hạn chế cần được khắc phục. Có nhiều nguyên nhân nhưng phần lớn là do hệ thống pháp luật còn có những bất cập, có những quy định chưa rõ ràng gây ra hiểu sai và thực hiện sai; nhận thức của người dân và của những người trực tiếp làm công tác tôn giáo còn chưa cao; ý thức pháp luật của đồng bào theo đạo còn thấp và bị lợi dụng… Một vấn đề khác đó là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có những giới hạn quyền đã được quy định trong luật pháp quốc tế và cả luật pháp quốc gia. Mặc dù trong nhiều trường hợp giới hạn quyền là điều cần thiết song sự giới hạn đó tới đâu và như thế nào sao cho phù hợp và tránh được những sự lạm dụng quyền lực, hay bị ảnh hưởng bởi những định kiến khiến quyền này không được bảo đảm một cách thỏa đáng. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mục đích phân tích tính tương thích của pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế, đồng thời đưa ra được những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước phù hợp và tương thích với pháp luật quốc tế nâng cao hiệu quả hoạt 2 động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình hòa nhập, đầy biến động hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tuy không còn xa lạ bởi cũng đã có nhiều học giả, nhiều công trình, bài viết song tiếp cận quyền này trong khuôn khổ pháp luật quốc tế và quốc gia thì chưa có nhiều. Một số các công trình, bài nghiên cứu, bài viết, luận văn đã từng viết về vấn đề tôn giáo và nhân quyền:  Mối quan hệ giữa tôn giáo và nhân quyền (Khóa luận tốt nghiệp – Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012)  Tôn giáo và các tác động của nó lên ý thức pháp luật của tín đồ, liên hệ với thực tiễn Việt Nam (Khóa luận tốt nghiệp – Nguyễn Văn Vĩnh, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008)  Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Luận văn thạc sĩ – Nguyễn Thị Diệu Thúy, Mã số 603810) Ngoài một số luận văn, khóa luận nghiên cứu về vấn đề tôn giáo và nhân quyền thì cũng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:  Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực tiễn PGS.TS Đỗ Quang Hưng, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008  Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người do Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng đồng chủ biên, NXB Chính trị quốc gia,2009  Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân, Hỏi đáp về quyền con người, NXB Hồng Đức, 2011  Giới thiệu Công ước về quyền dân sự, chính trị 1966, Lã Khánh Tùng – Vũ Công Giao – Tường Duy Kiên, 2012 Bên cạnh đó là khối lượng lớn các bài viết trên báo và tạp chí về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam:  Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước của Đặng Tài Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005) 3  Tư tưởng “tôn giáo và xã hội xã hội chủ nghĩa cùng chung sống” của Bành Diệu (Nghiên cứu tôn giáo, số 9/2007)  Quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo qua cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết từ đổi mới đến nay (Nghiên cứ tôn giáo, số 1/2011) Tuy nhiên, các công trình trên mới tập trung nghiên cứu, phân tích về tình hình tôn giáo, các chính sách của Đảng, mà chưa có công trình nào nghiên cứu về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định tổng thể theo pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia như thế nào. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó tìm ra mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về lĩnh vực này cùng việc thực thi pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam trong thời gian qua, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để đảm bải tốt nhất cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Để hoàn thành mục đích đề ra, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau: Một là, phân tích khuôn khổ và nội hàm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Hai là, xác định mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ba là, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật trong lĩnh vực quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Bốn là, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, các quy định trong luật pháp quốc tế được hiểu là những quy định của Liên Hiệp quốc về quyền về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cụ thể là trong Công ước về quyền dân sự chính trị năm 1966 và hoạt động kiểm tra giám 4 sát, cùng các Bình luận, Khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước về vấn đề này. Từ đó, đối chiếu, so sánh với các quy định trong pháp luật Việt Nam, xem xét tình hình thực tế đang diễn ra ở Việt Nam để sửa đổi, bổ sung, khắc phục và hoàn thiện những vấn đề còn thiếu hoặc chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: - Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. - Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây cùng cơ sở lý luận và pháp luật thực định quốc tế cũng của Việt Nam về quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Tác giả luận văn vận dụng cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước cụ thể là Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Trong Chương 1, để làm sáng tỏ vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích để làm rõ và sâu sắc thêm khái niệm “tín ngưỡng” và “tôn giáo”; phương pháp lịch sử để thấy sự hình thành và phát triển của hiện tượng xã hội này trong lịch sử xã hội loài người. Tại Chương 2 của luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thống kê, so sánh, phân tích để làm rõ mức độ tương thích giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam. Chương 3 phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 6. Tính mới và những đóng góp của luận văn Nhân quyền là một lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam. Trước đây, khái niệm “quyền con người” được xem như là một vấn đề nhạy cảm, người ta thường cố 5 tránh sử dụng khái niệm này vì sợ nhắc tới vấn đề mang tính đòi hỏi tiêu cực. Hiện nay, trong tiến trình cải cách, mở cửa, hòa nhập cùng xu thế chung của thời đại, trong xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi về vấn đề này, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên vấn đề về việc bảo đảm quyền con người, cụ thể là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng chưa được tiếp cận một cách rộng rãi và cụ thể. Nói vậy không hẳn là chưa có sự nghiên cứu nào về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà trên thực tế cũng đã có nhiều người nghiên cứu vấn đề tôn giáo và nhân quyền, song cách tiếp cận thường là mối quan hệ giữa tôn giáo và nhân quyền hay những tác động qua lại giữa các tôn giáo và nhân quyền mà chưa có sự nghiên cứu sâu sắc về quyền tự do tôn giáo, tin ngưỡng trong hệ thống pháp luật. Luận văn này sẽ đưa ra những hiểu biết về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có tính hệ thống hơn. Luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật về quyền tự do tin ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật – ĐHQGHN và các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam. 7. Kết cấu luận văn Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương. Chương 1: Khái quát lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Chương 2: Quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 6 Chương 1 KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG 1.1. Khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo 1.1.1. Tín ngưỡng 1.1.1.1. Khái niệm Theo từ điển Oxford, tín ngưỡng - “belief” được định nghĩa là niềm tin, đức tin, sự tin tưởng vào một ai đó hoặc một cái gì đó hay là sự thừa nhận một cái gì đó là đúng là đang tồn tại mà không cần bất cứ bằng chứng nào. Theo một cách hiểu đơn giản nhất, tín ngưỡng là tin theo và tôn thờ lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc là sự vật, hiện tượng, con người có thật được thần bí hóa. Tín ngưỡng là niềm tin về những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con người chỉ cảm nhận được mà khó có thể nhận thức được. Khi nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hoặc một số dân tộc chứ không có tín ngưỡng mang tính quốc gia hay thế giới, tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ như tôn giáo mà mang tính dân tộc, dân gian. Tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa do con người quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành. Tín ngưỡng còn thể hiện giá trị cuộc sống, ý nghĩa cuộc sống bền vững, đôi khi được hiểu là tôn giáo hay nói chính xác hơn, tín ngưỡng khi phát triển đến một mức nào đó thì có thể trở thành tôn giáo. Theo Nguyễn Trần Bạt thì “tín ngưỡng là kết quả của tâm lý ngờ vực, trong đó lớn nhất và phổ biến nhất là ngờ vực ngay chính hiện tại, ngay chính những đại lượng vật lý” [4]. Tín ngưỡng theo ông là nơi con người nghỉ ngơi, giải trí. Hàng ngày, con người tiếp xúc với nhiều sự kiện, nhiều hiện tượng, sự vật. Tuy nhiên, với sự tò mò, thích khám phá con người không bao giờ dừng lại ở mức độ cảm nhận mà con người luôn đi tìm cho mình câu trả lời về các sự vật, sự kiện, hiện tượng đó. Qua đó con người thu được kiến thức, tư tưởng và tín ngưỡng. Cái mà con người 7 gọi là khoa học – một hệ thống tri thức khi con người đi tìm hiểu nguồn gốc của mọi việc đã giải thích cho con người về thế giới, về thực tại dường như là chưa đủ để con người hiểu hết được những gì đang diễn ra trong đời sống của mình nhất là trong vấn đề tâm linh. Sự hạn chế này khiến con người nảy sinh lòng tin dùng thế lực siêu nhiên, huyền bí để giải thích cho các vấn đề mà khoa học không thể lý giải nổi như sự hiện hữu của linh hồn, chiêm tinh, thế giới tồn tại bên ngoài thế giới đang sống và vì vậy, tín ngưỡng được hình thành. Như vậy, tín ngưỡng là một cách nhìn thực tế cuộc sống cộng đồng con người ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con người ấy tin theo tôn thờ lễ bái, cầu mong hiện thực cuộc sống, gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin linh thiêng ấy. Tôn giáo dân gian không hẳn là tôn giáo với những cách hiểu đầy đủ về giáo lý, giáo luật; các quy tắc của nó chủ yếu mới dừng lại ở sự sùng tín, nằm trong phong tục tập quán sinh hoạt cũng chưa được chính thức thừa nhận hay trở thành giáo luật. Các nhà nghiên cứu thường gọi chung đối tượng này là tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian hoặc đôi khi cũng dùng khái niệm tôn giáo dân gian. Khái niệm tín ngưỡng, vì vậy, rộng và dân dã hơn khái niệm tôn giáo, hay nói khác đi tôn giáo chỉ là một phần của tín ngưỡng mà thôi. Cơ sở của mọi tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái “siêu nhiên” hay gọi là “cái thiêng” cái đối lập với cái “trần tục”, cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất con người, nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm. Tùy theo hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà niềm tin vào cái thiêng thể hiện ra các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể khác nhau. Chẳng hạn như niềm tin vào Đức Chúa, Đức mẹ Đồng Trinh của Kito giáo; niềm tin vào Đức Phật của Phật giáo; niềm tin vào Thánh, Thần của tín ngưỡng Thành Hoàng, Đạo thờ Mẫu. Các hình thức tín 8 ngưỡng, tôn giáo này dù rộng hẹp khác nhau, dù phổ quát toàn thế giới hay là đặc thù cho mỗi dân tộc thì cũng đều là một thực thể biểu hiện niềm tin vào cái thiêng chung của con người. 1.1.2. Tôn giáo 1.1.2.1. Khái niệm Từ khi hình thành cho tới nay, tôn giáo được định nghĩa và tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau, bởi vậy có rất nhiều khái niệm về tôn giáo nhưng chúng bên cạnh việc thể hiện những nhận thức chung về tôn giáo thường được lồng ghép quan niệm riêng của cá nhân, hay nhóm người nhất định. Do đó, mặc dù tôn giáo có nhiều khái niệm song chưa có một khái niệm nào về tôn giáo được dùng chung trên toàn thế giới. Tôn giáo không phải là một thuật ngữ thuần Việt mà được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ tôn giáo khó có thể hàm chứa được tất cả nội dung đầy đủ từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây. Tôn giáo bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh là “religion” có tiếng gốc Latin là “legere” có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Vào đầu công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, đế chế Roma yêu cầu phải có một tôn giáo chung và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước đó cho nên lúc này khái niệm “religion” mới chỉ là riêng của đạo Kitô. Bởi lẽ, đương thời các đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự ra đời của đạo Tin Lành tách ra từ Công giáo trên diễn đàn khoa học và thần học châu Âu, religion mới trở thành thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ cùng một chúa. Với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm vi châu Âu, với sự tiếp xúc với các tôn giáo thuộc các nền văn minh khác Kitô giáo, biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion” được dùng nhằm chỉ các hình thức tôn giáo khác nhau trên thế giới. Thuật ngữ “religion” được dịch thành “Tông giáo” đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ XVIII và sau đó du nhập vào Trung Hoa, tuy nhiên thì ở đây thuật ngữ Tông giáo chỉ dùng cho đạo Phật. Thuật ngữ Tông giáo được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do kỵ húy của Thiệu Trị nên được gọi là “Tôn giáo”. 9 Như đã nói, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tôn giáo; song có thể liệt kê ra một số định nghĩa được nhiều người biết đến sau đây: - Theo C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim. Cũng như nó là tinh thần của trạng thái xã hội mà ở đó tình thần bị loại bỏ…Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân…” [5]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự nhân cách hóa giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được che chở, an ủi, dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Về bản chất sâu xa, theo các nhà triết học Mác xít cho rằng con người thực ra đang nghiêng mình trước bản chất của chính mình những lại thần thánh hóa nó như một bản chất xa lạ nào đó. Tôn giáo suy cho cùng là sự phản ánh về những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của con người nhưng họ tiếp nhận nó một cách hư ảo đồng thời cho rằng những lực lượng ở trần thế đó sức mạnh siêu trần thế. Tôn giáo là kết quả của nhận thức còn yếu kém của những con người lao động trong xã hội còn nhiều bất công. - Theo định nghĩa của giáo hội (thần học) thì tôn giáo là mối liên hệ của con người với Thượng đế, với Thần linh, với cái tuyệt đối, với một lực lượng nào đó, với sự siêu việt hóa. Nhà thần học và triết học Tin Lành giáo, R.Otto (1869 - 1937) cho rằng tôn giáo là “sự thế nghiệm cái thần thánh” [19]. - Theo các nhà tâm lý học, tôn giáo là “sự sáng tạo của các mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình; tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo” [44]. Một trong những người sáng lập ra tâm lý học tôn giáo là nhà triết học theo chủ nghĩa thực dụng người Mỹ, V.Jemes (1842-1910) giải thích tôn giáo nhờ xuất phát từ tâm lý cá thể: “Chúng ta thỏa thuận gọi tôn giáo là tổng thể những tình cảm, hành vi và kinh nghiệm của cá nhân riêng biệt vì nội dung của chúng quy định quan hệ với cái mà tôn giáo tôn sùng – Thượng đế” [45]. - Tác giả Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2000 cũng đã có 10 định nghĩa cho rằng: “Tôn giáo là hình thức xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu nhiên, cho rằng có lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng, tôn thờ” [28]. - Tác giả Mai Thanh Hải trong Từ điển Tôn giáo xuất bản năm 2001 đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo là một hình thái nhận thức xã hội, phản ánh hiện thực qua các khái niệm, hình ảnh mang tính chất ảo ảnh, ảo vọng. Nói chung nó là niềm tin vào thế lực siêu nhiên, vô hình mà con người cho là linh thiêng, được sùng bái và cầu khấn đề nhờ cậy, che chở hoặc ban phát điều tốt lành” [18]. Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tôn giáo nhưng có thể chia thành hai trường phái chính: - Thứ nhất, quan điểm phi mác xít cho rằng tôn giáo là cái thiêng liêng vĩnh hằng, gắn liền với con người và tồn tại cùng con người. - Thứ hai, quan điểm của Mác xít về vấn đề tôn giáo: Tôn giáo là mặt trời ảo tưởng quay xung quanh mặt trời hiện thực, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trạng thái thế giới không có tinh thần. Nhiều định nghĩa như vậy nhưng khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: Hiện hữu và phi hiện hữu, hữu hình và vô hình. Đồng thời tôn giáo không chỉ là sự bất lực của con người mà còn thể hiện niềm tin sâu sắc của họ về một cuộc sống lý tưởng khi theo một tôn giáo nào đó. Ngoài ra, tôn giáo được biết đến là hệ thống hoàn chỉnh các quan niệm, ý thức tín ngưỡng, thể hiện tập trung ở lòng tin, tình cảm tôn giáo, hành vi và hoạt động tôn giáo. Tôn giáo là hình thức tín ngưỡng có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và giáo hội, được tổ chức chặt chẽ. Tóm lại, tôn giáo được hiểu là niềm tin của con người vào các thế lực siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, nhằm lý giải những vấn đề trong đời sống, tuy nhiên, tùy vào tôn giáo, vào hoàn cảnh lịch sử, yếu tố văn hóa mà niềm tin đó được thể hiện đa dạng theo các cách riêng. 1.1.2.2. Bản chất, nguồn gốc ra đời của tôn giáo 11 Tôn giáo xuất hiện từ rất lâu và con người mặc nhiên chấp nhận nó. Người ta chỉ quan tâm nhiều tới tôn giáo, nghiên cứu nhiều hơn về lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo khi mà nó thực sự trở thành một vấn đề bức xúc và phức tạp. Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử. Trên những quan niệm của C.Mác và Ph. Ăngghen về tôn giáo, có thể nói rằng, tôn giáo là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần của con người trong xã hội, tôn giáo tạo cho con người có niềm tin vào thế giới vô hình nơi hư vô, nhưng con người vẫn sống trong cuộc sống hữu hình nơi trần thế, đồng thời tôn giáo quy định những luật lệ, nghi thức mang tính thiêng liêng để con người thực hành, tuân theo. Tôn giáo là một thực thể khách quan của loài người nhưng lại là một thực thể có nhiều quan niệm phức tạp cả về nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác động lên các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ. Với những thành tựu to lớn của ngành khảo cổ học, người ta chứng minh được sự tồn tại của con người cách đây hàng triệu năm. Tuy nhiên, với những hiện vật thu được người ta khẳng định có đến hàng triệu năm con người không hề biết tới tôn giáo. Bởi lẽ tôn giáo đòi hỏi tương ứng với nó là một trình độ nhận thức cao, nó là sản phẩm của tư duy trừu tượng trong đời sống xã hội ổn định. Hầu hết trong giới khoa học đều thống nhất rằng, chỉ khi con người hiện đại – người khôn ngoan hình thành và tổ chức thành xã hội, tôn giáo mới xuất hiện, thời kỳ này cách đây khoảng 95.000 – 35.000 năm. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu mới chỉ là các tín hiệu rất sơ khai, nguyên thủy. Đa số các nhà khoa học đều khẳng định tôn giáo ra đời khoảng 45.000 năm trước đây với những hình thức tôn giáo sơ khai như đạo Vật tổ, Ma thuật và Tang lễ. Đây là thời kỳ tương ứng với thời kỳ đồ đá cũ. Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, các hình thức tôn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa các nguồn lợi của con người trong sản xuất và cuộc sống: Thần Lúa, thần 12 Khoai, thần Sông…hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi, đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ. Khi đồ sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục đích phục vụ cho sự củng cố và phát triển của dân tộc. Tất cả các vị thần ấy còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại và khi dân tộc tiêu vong, các vị thần ấy cũng không còn nữa. Trong thời kỳ văn minh nông nghiệp, nhiều đế chế ra đời và thâu tóm vào mình nhiều quốc gia. Do nhu cầu một tôn giáo của đế chế, những tôn giáo như Phật, Nho, Kitô, Hồi đã xuất hiện từ trước trở thành tôn giáo của đế chế và được chấp nhận như một tôn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội dung của các tôn giáo mang tính phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, với nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ dàng thích nghi với các dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách nào, các tôn giáo đó đã được các quốc gia bị lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận và trên nền tảng của tôn giáo truyền thống, biến đổi thành tôn giáo riêng của quốc gia đó. Việc truyền giáo này diễn ra trong suốt thời kỳ văn minh công nghiệp và cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý rằng giữa tôn giáo khu vực hay tôn giáo thế giới vừa chung sống cạnh nhau, vừa tranh chấp xung đột nhau và không ít trường hợp với sự ủng hộ của các thế lực quân sự, chính trị, chiến tranh tôn giáo đã xảy ra. Những tôn giáo như Kitô, Hồi do tính cực đoan của mình nên ban đầu đi đến đâu cũng khó chung sống với các tôn giáo khác đã có mặt ở đó từ trước. Còn một số tôn giáo phương Đông như Nho, Phật thì khác, họ chấp nhận hòa đồng với các tôn giáo bản địa, có xu hướng trần tục nhiều hơn là thế giới bên kia. Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một xã hội công nghiệp, xã hội này đòi hỏi phải có một tôn giáo năng động và tự do hơn, khó chấp nhận một tổ chức, hay một giáo lý với những nghi thức cứng nhắc, phức tạp. Tình trạng độc tôn của một tôn giáo trong một quốc gia đã bắt đầu chấm dứt và chấp nhận sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây quan niệm và sau là chính sách tự do tôn giáo ra đời, phát triển nhanh hay chậm và thể hiện khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Những yếu 13 tố lỗi thời được hủy bỏ hoặc thay đổi, thay thế để thích nghi. Với xu thế quốc tế hóa ngày càng gia tăng, việc mỗi cá nhân chỉ biết đến tôn giáo của mình đã trở nên lạc hậu. Mỗi người đều cho rằng trên thế gian có nhiều thánh thần, có nhiều tôn giáo. Họ bắt đầu hoài nghi và lựa chọn, thần thánh được mang ra tranh luận, bàn cãi hay làm nảy sinh xu thế thế tục hóa tôn giáo và xu thế này ngày càng thắng thế. Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu khoa học và công nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên thế tục hóa kéo theo sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây xuất hiện các ý kiến khác nhau trong một tôn giáo và dẫn tới sự chia rẽ trong các tôn giáo một cách có tổ chức, bùng nổ các giáo phái và xuất hiện nhiều tôn giáo mới. Bản thân trong các tôn giáo khu vực và thế giới cũng có những biểu hiện khác trước: Số tín đồ ngày càng tăng nhưng số tín đồ thực tế giảm, nghĩa là người ta theo đạo nhưng không hành đạo, nhiều tín đồ bỏ đạo để theo các đạo mới. Trong nội bộ các tôn giáo có sự chia rẽ thành những giáo phái với những tính chất cấp tiến, ôn hòa hoặc cực đoan. Để giải thích cho sự ra đời của tôn giáo Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, trong xã hội nguyên thủy trình độ sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó và xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng. Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác nên họ quy tất cả về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã thần thánh hóa một số người thành những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động của người khác mà sinh ra tôn giáo. Như vậy, tôn giáo ra đời do sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội Mặt khác, triết học Mác cũng giải thích sự hình thành tôn giáo như là một sự 14 giải thích của những con người còn giới hạn chưa thể lý giải những điều xảy ra trong cuộc sống. Một cách khác nữa là tôn giáo ra đời như là một sự cứu vớt của con người trước những sợ hãi, lo âu về cái chết đối với sự khắc nghiệt của thế giới. 1.1.2.3. Một số hình thức tôn giáo Hiện nay có rất nhiều tôn giáo đang tồn tại, có tôn giáo thì số lượng tín đồ tương đối ít, có những tôn giáo được xem như quốc giáo và có những tôn giáo có thể được gọi như là tôn giáo của thế giới bởi số lượng người tin theo khá lớn. Trong tiến trình lịch sử của tôn giáo có thể liệt kê ra một số tôn giáo chính như sau: Trong thời kỳ chưa có giai cấp đã tồn tại các hình thức tôn giáo nguyên thủy hết sức sơ khai: Tô tem giáo, Ma thuật giáo, Bái vật giáo, Vật linh giáo. Trong thời kỳ xã hội có giai cấp khi nhận thức của con người đã lên một tầm cao mới các tôn giáo dân tộc và thế giới lần lượt xuất hiện. Tôn giáo dân tộc – mang tính chất quốc gia dân tộc thì có Anh giáo (Thanh giáo), các dòng khác nhau của Hồi giáo. Tôn giáo thế giới chỉ các tôn giáo vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia có thể kể đến một số tôn giáo tiêu biểu hiện nay trên thế giới như Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Do Thái giáo. Tiêu chí để xác định về mặt pháp lý của một tôn giáo là có hệ thống giáo lý, giáo luật và giáo lễ; đồng thời có tổ chức giáo hội gồm các nhà tu hành, người làm nghề tôn giáo, có các tín đồ tự nguyện tuân theo giáo lý, giáo luật và chịu sự quản lý, hướng dẫn về mặt tín ngưỡng của giáo hội. 1.1.2.4. Phân biệt tín ngưỡng và tôn giáo Hiện tại có nhiều ý kiến khác nhau khi sử dụng khái niệm “tôn giáo” và “tín ngưỡng” – hai cặp phạm trù luôn đi liền với nhau. Theo quan điểm truyền thống, người ta có ý thức phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng, thường coi tín ngưỡng ở trình độ thấp hơn so với tôn giáo. Loại quan điểm thứ hai đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo và đều gọi chung là tôn giáo, tuy có phân biệt tôn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo địa phương, tôn giáo thế giới. Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy sau khi nghiên cứu về 2 khái niệm này đó là tín ngưỡng chính là tiền đề của tôn giáo. Khi mới hình thành tín ngưỡng sẽ trải qua một 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan