Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân việt nam những vấn đề lý luận và...

Tài liệu Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

.PDF
81
194
148

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN THỊ DIỆU THÚY QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật Hiến pháp Mã số: 60 38 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Động HÀ NỘI - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Văn Động, giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội – người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo tham gia giảng dạy lớp Cao học Luật khóa XV, Khoa Sau đại học và Ban Giám hiệu trường Đại học Luật Hà Nội. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp cơ quan Ban Tôn giáo Chính phủ - những người đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có được kết quả như ngày hôm nay. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tác giả xin chân thành cảm ơn và tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của các thầy cô và toàn thể bạn đọc để luận văn đạt kết quả cao hơn. Hà Nội, ngày 19 tháng 01 năm 2010 Học viên Nguyễn Thị Diệu Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của 8 công dân Việt Nam 1.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản chính trị pháp lý 8 quốc tế 1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của 14 công dân Việt Nam 1.3. Những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do tín 23 ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam Chương 2: Thực trạng và những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín 29 ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 2.1. Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân 29 ở Việt Nam 2.2. Những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công 57 dân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hoá lâu đời và là một quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, dân tộc Việt Nam, từ Bắc đến Nam, từ các dân tộc thiểu số đến người Kinh đa số, trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam đều ít nhiều mang một niềm tin hoặc một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó. Sự khác biệt về tinh thần giữa người có đạo và người không có đạo, giữa các tôn giáo, tín ngưỡng không làm mất đi ý thức chung về một dân tộc Việt Nam, về một Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất mà biết bao thế hệ đã phải đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng và gìn giữ đến nay. Theo thống kê đến cuối năm 2008, cả nước có trên 20 triệu tín đồ (chiếm 25% dân số cả nước), với khoảng 80 ngàn chức sắc, trên 26 ngàn cơ sở thờ tự, trường lớp đào tạo chức sắc của các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo,... Trong quá khứ cũng như hiện tại, tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội của đất nước. Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, ngay từ hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà - Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 1992 tại Điều 70 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp 2 luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước". Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân luôn là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, không những được nêu rõ ở những quan điểm, chủ trương, các văn bản pháp lý mà còn được bảo đảm trên thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo vệ và phát triển quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân luôn được ưu tiên trong chính sách của Đảng và Nhà nước, trở thành một trong những vấn đề lớn thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng được tôn trọng và bảo đảm đầy đủ bởi Nhà nước và xã hội. Đâu đó vẫn còn hiện tượng hạn chế, thu hẹp thậm chí vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; chính sách của Đảng, Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn giáo chưa được cụ thể hoá kịp thời thành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền này; việc kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân còn chưa kịp thời, kiên quyết. Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, nhưng chủ yếu là do trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện về ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, chưa ý thức được sự cần thiết phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân đã được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu khoa học về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân ở Việt Nam chưa được thường xuyên quan tâm trong giới khoa học pháp lý mà hệ quả là, cho tới nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được một hệ thống các quan điểm lý luận khoa học hoàn chỉnh và đồng bộ về 3 quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; chưa kịp thời cung cấp cho Đảng, Nhà nước những luận cứ khoa học để hoạch định đúng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trên thực tế. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu khoa học về bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ khi Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhận thức một cách đầy đủ, khách quan hơn, việc quan tâm nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng được coi trọng và thúc đẩy. Đã có một số công trình nghiên cứu như: - Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, tập thể tác giả, chủ biên: GS. TS. Hoàng Văn Hảo - TS. Chu Hồng Thanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, 288 trang. Sách đề cập đến những vấn đề lý luận về quyền con người về dân sự và chính trị; phân tích quyền con người về dân sự và chính trị trong các Hiến pháp Việt Nam và việc thực hiện quyền đó trên thực tế Việt Nam. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, vì vậy cuốn sách này là nguồn tư liệu quý để tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. - Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người, tập thể tác giả, Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị 4 quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002, 240 trang. Nội dung cuốn sách đề cập đến những vấn đề cơ bản liên quan trực tiếp đến Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá(1966); đồng thời đề cập đến việc áp dụng các nguyên tắc và quy định trong ba văn kiện đó trong thực tiễn ở Việt Nam và trên thế giới. Cuốn sách này là một tư liệu quan trọng, liên quan trực tiếp đến đề tài Luận văn, giúp tác giả củng cố những kiến thức lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. - Bộ Tư pháp, Việt Nam với vấn đề quyền con người, chịu trách nhiệm xuất bản PGS. TS. Hoàng Thế Liên, Hà Nội, 2005, 368 trang. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả những kiến thức lý luận và nhận thức đúng đắn, toàn diện về vấn đề quyền con người trên bình diện quốc tế và quốc gia, những thành tựu cũng như những bài học kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phục vụ cho các hoạt động bảo vệ quyền con người. - Một số công trình khoa học của PGS. TS. Nguyễn Văn Động về quyền công dân ở Việt Nam có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, đã giúp tác giả cả về phương pháp nghiên cứu, học thuật và nội dung nghiên cứu. Đó là các công trình: Các quyền hiến định về xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, 203 trang; Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Khoa học xã hội, 2005, 253 trang; Các quyền hiến định về chính trị của công dân Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, 183 trang. - Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, NXb. Quân đội nhân dân, Hà 5 Nội, 2005, 218 trang. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả những thông tin khái quát, ngắn gọn và dễ hiểu một số vấn đề cơ bản về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. - Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (sách trắng), Hà Nội, 2009, 85 trang. Cuốn sách này đã giúp cho tác giả hiểu rõ, đầy đủ và toàn diện hơn về tình hình tôn giáo và chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo. - Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực tiễn, PGS.TS Đỗ Quang Hưng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, 447 trang. Sách đã hệ thống lại những nét chủ yếu của vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước; quá trình Đảng, Nhà nước ta xây dựng, phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách tôn giáo qua các giai đoạn lịch sử, chủ yếu sau cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, giúp tác giả có cái nhìn toàn diện, hệ thống về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ lịch sử. 3. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu của luận văn Luận văn có những nhiệm vụ, mục tiêu sau đây: - Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam gồm: khái niệm, đặc điểm và những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân ở Việt Nam được nêu rõ trong quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và thành tựu bảo đảm quyền này trên thực tế. 6 - Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra những giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong điều kiện đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam quy định trong Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ; quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu quan điểm của luật pháp quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vấn đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để có cơ sở đối chiếu, so sánh pháp luật bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế; đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận đúng đắn, khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vấn đề bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, luận văn còn được xây dựng trên cơ sở vận dụng các phương pháp cơ bản như phân tích - tổng hợp, xã hội học, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. 6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của 7 công dân Việt Nam; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; quá trình hình thành và phát triển của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam, tiến trình luật pháp tôn giáo ở Việt Nam đặc biệt từ năm 1990 đến nay. Luận văn cũng nêu lên những thành tựu bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trên thực tế; đồng thời nêu ra một số giải pháp cơ bản tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu gồm 2 chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam. - Chương 2: Thực trạng và những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM 1.1. QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO TRONG CÁC VĂN BẢN CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ QUỐC TẾ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền này trong pháp luật. Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ra đời khá sớm trong lịch sử. Trong lịch sử loài người thời kỳ cổ đại, trung đại hay các chế độ quân chủ phong kiến đều dựa trên một tôn giáo chính thống làm nền tảng ổn định xã hội. Ngay sau khi các cuộc cách mạng tư sản thành công, các chế độ dân chủ (tư sản) cộng hoà ra đời, tình trạng đó cơ bản chưa thay đổi, dù quyền lực thần quyền đã bị hạn chế. Trong khi đó, các vấn đề khủng bố, bạo lực, kết tội tôn giáo hoặc chiến tranh sắc tộc tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra. Nhu cầu lớn đầu tiên trong quyền tự do tôn giáo với rất nhiều quốc gia là nhu cầu mỗi công dân có thể đi theo một tín ngưỡng riêng hay cải đạo mà không sợ bị chính phủ phạt tội hoặc các “tôn giáo chính thống” trả thù. Quan niệm về tự do tôn giáo được hình thành ở châu Âu với các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locke, đã đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích 9 phát triển tôn giáo mà cơ bản là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính mình và cách tốt nhất là hãy để con người tự lựa chọn tôn giáo cho mình. Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần dần trở nên hoàn thiện hơn. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đề cập đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, song cũng chưa nói rõ về tự do tôn giáo: “Mỗi người đều được phát biểu tư tưởng tự do, về tôn giáo cũng vậy, miễn là những tư tưởng phát biểu đó không làm tổn thương đến nền trật tự công cộng đã được pháp luật ấn định phân minh” [24, tr. 114]. Năm 1905, Luật Phân ly nổi tiếng của nước Pháp thật sự nói về tự do lương tâm và tự do thờ cúng. Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc gia riêng lẻ. Trên bình diện quốc tế, mãi đến ngày 10-12-1948, khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền thì tự do tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế. Trên phạm vi quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người được ghi nhận trong một số văn bản chính trị - pháp lý của Liên hợp quốc bao gồm các văn bản mang tính chất tuyên ngôn như Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948; các văn bản mang tính chất pháp lý như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, trong đó, Hiến chương của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn nhân quyền là những văn bản không có tính ràng buộc pháp lý, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nguyên tắc và định hướng đạo lý, chính trị của quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Công ước là văn bản có tính ràng buộc pháp lý, bao gồm các nội dung cụ thể 10 về quyền con người và các quốc gia chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với những văn kiện này. Nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế bao gồm tự do có, theo hoặc thay đổi một tôn giáo hay tín ngưỡng do mình lựa chọn; tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc không công khai dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. - Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, tại phần mở đầu, đã tuyên bố: “Khẳng định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ,...” [24, tr. 128]. Khoản 3, Điều 1 (Chương I) đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” [24, tr. 132]. Điều 55, Mục c (Chương IX, Hợp tác quốc tế về kinh tế và xã hội) ghi nhận Liên hợp quốc khuyến khích: “Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo” [24, tr. 138]. - Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (được thông qua và tuyên bố theo Nghị quyết số 217A ngày 10-12-1948 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc) gồm Lời nói đầu và 30 điều. Lần đầu tiên, Đại hội đồng Liên hợp quốc có một văn bản chính thức về nhân quyền, tạo cơ sở để Liên hợp quốc cụ thể hoá thành các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên công ước trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người nói chung, các quyền về dân sự, chính trị nói riêng trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 18 của Tuyên ngôn định nghĩa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn 11 giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo và niềm tin, cũng như quyền tự do biểu hiện tôn giáo hay niềm tin của mình, một mình hay cùng chung nhau, ở nơi công cộng hay ở nơi riêng tư, bằng thuyết giảng, tục lệ, thờ cúng và làm các nghi lễ” [24, tr. 152]. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã kế thừa và phát triển tư tưởng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Điểm phát triển ở đây là Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền quy định về quyền này cụ thể và chặt chẽ hơn. Để thực hiện được các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị, xã hội trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Tuyên ngôn đã xác định các bảo đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và về các quyền” (Điều 1); “Mỗi người đều được hưởng tất cả các quyền và tất cả các tự do đã được tuyên bố trong bản Tuyên ngôn này, không hề có sự phân biệt nào, nhất là sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay mọi ý kiến khác,…” (Điều 2) [24, tr.146]; “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ ngang nhau, không phân biệt. Mọi người đều có quyền được bảo vệ ngang nhau chống lại mọi sự phân biệt đối xử vi phạm bản Tuyên ngôn này và chống lại mọi điều gây ra sự phân biệt đối xử ấy” (Điều 7) [24, tr. 148]. Bên cạnh đó, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã đề cập đến những giới hạn trong việc thực hiện quyền này tại Điều 29 như sau: “1. Cá nhân phải có những bổn phận đối với cộng đồng, chỉ trong đó nhân cách của mình mới có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Trong việc thực hiện các quyền và hưởng thụ các tự do của mình, mọi người chỉ bị giới hạn bằng luật pháp nào nhằm bảo đảm thừa nhận và tôn trọng các quyền và các tự do của người khác và nhằm thoả mãn những yêu cầu đúng đắn của đạo đức, 12 trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Không một trường hợp nào, các quyền và tự do ấy có thể được thực hiện trái với những mục đích và những nguyên tắc của Liên hợp quốc” [24, tr. 158]. - Tuyên bố của Liên hợp quốc năm 1981 về hạn chế tất cả các hình thức bạo lực và phân biệt vì tôn giáo hoặc tín ngưỡng ra đời thì vấn đề tự do tôn giáo mới được trình bày hoàn chỉnh hơn. Gần 30 năm qua, văn bản này có tầm quan trọng hàng đầu trong các công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Nội dung cơ bản của văn kiện này như sau: Thờ cúng và gia nhập các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, xây dựng và duy trì các cơ sở tôn giáo (Điều 6.a); thành lập và duy trì các tổ chức từ thiện vì con người và xã hội (Điều 6.b); có quyền được yêu cầu, sử dụng đối với những hoạt động có sử dụng phương tiện cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng (Điều 6.c); sáng tác, ban hành hay phổ biến những ấn phẩm cần thiết trong phạm vi sinh hoạt tôn giáo (Điều 6.d); thuyết giảng giáo lý ở những địa ở những địa điểm phù hợp với mục đích ấy (Điều 6.e); đi xin hoặc tiếp nhận những nguồn tài trợ về tài chính từ các cá nhân và các tổ chức (Điều 6.f); được phép nghỉ hay tổ chức kỷ niệm những ngày lễ theo giáo lý (Điều 6.h); được phép thiết lập và duy trì mối liên lạc với các cá nhân và cộng đồng có quan hệ tôn giáo ở cấp quốc gia hay quốc tế (Điều 6.i). Tuyên bố này của Liên hợp quốc đã đề cập cả ba vấn đề còn tranh cãi hiện nay về quyền tự do tôn giáo. Thứ nhất, vấn đề định nghĩa thuật ngữ “tôn giáo”. Thứ hai, quyền “đổi đạo” có cần được bảo vệ. Thứ ba, có thể coi tuyên bố này có giá trị pháp lý quốc tế. - Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (được thông qua và để ngỏ cho các nước ký kết, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 2200, ngày 16-12-1966, có hiệu lực từ ngày 23-3-1976). Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định với bốn nội 13 dung cụ thể, trong đó nội dung thứ nhất gần giống với Điều 18 của bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền. Nhưng nội dung thứ nhất của khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được ghi nhận chuẩn xác hơn tại Khoản 1, Điều 18:“Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo” [24, tr. 242]. Ngoài ra, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được bổ sung thêm ba nội dung, làm cho quan niệm về quyền này rõ ràng và đầy đủ hơn, đó là: không một ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng (Khoản 2, Điều 18); quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác (Khoản 3, Điều 18); các quốc gia thành viên Công ước này cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ và trong trường hợp có thể áp dụng được, quyền tự do của những người đỡ đầu hợp pháp trong việc giáo dục tôn giáo và luân lý cho con cái họ (Khoản 4, Điều 18) [24, tr. 242 - 244]. Bốn nội dung của khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện tại Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị gắn kết với nhau trong mối tương quan mật thiết, vừa nói lên được tính phổ quát của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa “để ngỏ” cho những quốc gia với những đặc thù riêng có thể thực hiện được. Vì vậy, tính khả thi trong hiện thực của nó rất cao. 14 Cho đến nay, nhìn tổng quát, đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo các văn bản quốc tế đã quy định: tuyên bố sự tồn tại quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện công khai một mình hay trong cộng đồng; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý quốc tế cũng khẳng định quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo không phải là một quyền tuyệt đối, mà là một quyền có hạn chế. Các quốc gia có thể hạn chế quyền tự do này nếu đó là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khoẻ đạo đức của cộng đồng, hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác khỏi bị xâm hại. Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị vào ngày 24-9-1982. Đây là một trong 12 công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và cam kết thực hiện. Điều đó chứng tỏ rằng Đảng và Nhà nước ta đánh giá rất cao tính khách quan, khoa học và nhân đạo thể hiện trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. 1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia, tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc bí mật thực hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm này thường được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do không theo một tôn giáo nào. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo 15 được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" [20, tr. 147]. Điều 1 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 cũng đã khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy” [2, tr. 7]. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hiểu là một trong những quyền cơ bản của công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện trên những mặt chủ yếu sau: Một là, công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Đây là đặc trưng nổi bật trong nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam, theo đó, mọi người dân đều có quyền lựa chọn theo một tôn giáo cụ thể nào đó, có quyền thay đổi tôn giáo và cũng có quyền không theo một tôn giáo nào. Công dân có quyền tự do hoạt động tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với đất nước, với dân tộc, với cộng đồng thờ cúng thần thánh, những biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá và đạo đức xã hội của dân tộc. Các tổ chức tôn giáo, tín đồ và chức sắc tôn giáo có quyền sinh hoạt tôn giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi của tôn giáo mà mình theo. Khoản 1, Điều 9 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [2, tr. 12]. 16 Công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải theo đúng quy định của pháp luật; không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động của tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân; không có nghĩa là lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng. Đây là một quyền cơ bản của con người, cần phải được tôn trọng và bảo vệ không chỉ trong Hiến pháp, pháp luật mà cả trong thực tiễn cuộc sống. Hai là, người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau; không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Không ai có quyền bắt người khác phải từ bỏ tín ngưỡng, tôn giáo mà họ đang theo, hoặc bắt người khác phải theo một tôn giáo nào đó. Tín đồ và chức sắc các tôn giáo không tuyên truyền lôi kéo, công kích, chống đối lẫn nhau. Mọi người đều phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác, tôn trọng quyền theo tôn giáo và quyền không theo một tôn giáo nào của người khác; nghiêm cấm mọi biểu hiện lôi kéo áp đặt, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Khoản 2, Điều 9 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật” [2, tr. 12]. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không phân biệt đối xử với một tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng tôn giáo đều bình đẳng như nhau trước pháp luật, đều có nghĩa 17 vụ, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ba là, Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được Nhà nước bảo đảm bằng pháp luật. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân là vi phạm pháp luật, phải bị xử lý bằng pháp luật. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, hoạt động mê tín dị đoan,... phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến các mối quan hệ xã hội, nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vì vậy, Điều 8 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt, khẳng định: “Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng; tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân” [2, tr. 11]; mặt khác cũng quy định phạm vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái pháp luật, chính sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác” [2, tr. 11].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất