ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM QUANG HÒA
QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
CỦA CÔNG DÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM QUANG HÒA
QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
CỦA CÔNG DÂN
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kim Thoa
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
KHÁI NIỆM THÔNG TIN VÀ NỘI DUNG CỦA QUYỀN
5
TIẾP CẬN THÔNG TIN
1.1.
Khái niệm thông tin
5
1.1.1. Khái niệm thông tin theo quy định của các nước trên thế giới
5
1.1.2. Phạm vi sử dụng thông tin theo quy định của một số nước trên
thế giới
9
1.1.3. Chủ thể có quyền tiếp cận thông tin
15
1.2.
25
Nội dung của quyền tiếp cận thông tin
1.2.1. Nội dung của quyền tiếp cận thông tin theo một số văn kiện
pháp lý quốc tế
25
1.2.2. Nội dung của quyền tiếp cận thông tin theo các văn kiện pháp
lý của Việt Nam
30
THỰC TRẠNG CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở
37
Chương 2:
NƯỚC TA
2.1.
Chính sách bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của Đảng ta
37
2.2.
Quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của Việt Nam
39
2.3.
Các quy định về thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin
49
2.4.
Thực trạng thực hiện quyền tiếp cận thông tin
56
2.4.1. Thực trạng tiếp cận thông tin hoạch định chính sách và xây
dựng pháp luật
57
2.4.2. Thực trạng tiếp cận thông tin trong việc giải quyết yêu cầu
của người dân
58
2.4.3. Thực trạng tiếp cận thông tin trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước
58
2.4.4. Thực trạng tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp
60
2.4.5. Thực trạng tiếp cận thông tin thông qua báo chí
61
2.5.
Một số hạn chế trong thực hiện quyền tiếp cận thông tin
62
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN
67
ĐẾN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CHO NGƯỜI DÂN
3.1.
Chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin
68
3.2.
Phạm vi nội dung thông tin được cung cấp
72
3.2.1. Theo nguyên tắc số 2 và 4
72
3.2.2. Những hạn chế tác động đến việc cung cấp thông tin
74
3.3.
Đảo đảm quyền được cung cấp thông tin của công dân
77
3.4.
Cơ chế bảo đảm liên quan đến trách nhiệm cung cấp của nhà
nước đối với quyền tiếp cận thông tin của công dân
80
KẾT LUẬN
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con
người. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992 đều qui định công dân có quyền
được thông tin. Nghĩa là công dân có quyền được biết những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, được thông tin những vấn đề cấp thiết, gắn
liền với cuộc sống hằng ngày. Quyền được thông tin của người dân phản ánh
bản chất xã hội ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi việc của Nhà
nước phải được cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Hiện nay, vấn đề tiếp cận thông tin đang được quy định tại nhiều văn
bản khác nhau. Tuy nhiên, các quy định này chưa toàn diện và không đầy đủ.
Còn nhiều nội dung chưa được quy định, nhất là về trình tự, thủ tục để cá
nhân, cơ quan, tổ chức tiếp cận thông tin. Vì vậy, công dân cũng không biết là
mình có quyền được tiếp cận thông tin hay không. Ngược lại, các cơ quan
nắm giữ thông tin cũng không có cơ sở để công bố thông tin, cung cấp thông
tin cho những người quan tâm. Do đó, để các quy định về tiếp cận thông tin
có thể điều chỉnh được trong các lĩnh vực khác nhau, bao quát hết được phạm
vi của các văn bản hiện hành đang điều chỉnh về vấn đề tiếp cận thông tin, thì
đòi hỏi phải có một văn bản có đủ hiệu lực pháp lý điều chỉnh các nội dung về
tiếp cận thông tin. Văn bản đó chỉ có thể là Luật Tiếp cận thông tin và luận
văn thạc sĩ này mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Người viết đã được tiếp cận một số Văn bản Quy phạm pháp luật và
các công trình khoa học về vấn đề quyền tiếp cận thông tin của người dân (có
thể là nội dung chính hoặc có đề cập đến) như:
- Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001;
1
- Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, trong Công ước
quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966 và các công ước khác của
Liên hợp quốc.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống
tham nhũng, lãng phí.
- Luật Báo chí năm 1989
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999
- Luật về Xuất bản năm 2004
- Luật về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng dân
dân, Ủy ban nhân dân năm 2004
- Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005
- Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005
- Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005
- Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007
- Dự thảo Luật tiếp cận thông tin - Do Bộ Tư pháp xây dựng.
- Các bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành.
3. Mục đích của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của
người dân;
2
- Phân tích thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về quyền tiếp
cận thông tin của người dân; chỉ ra những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp
luật này.
- Đề ra phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật về quyền
tiếp cận thông tin.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu lĩnh vực pháp luật về tiếp cận thông tin của
người dân (cá nhân) bao gồm:
- Hệ thống các văn bản quy pháp luật của Việt Nam và một số quốc
gia quy định về quyền tiếp cận thông tin của người dân;
- Phạm vi được quyền tiếp cận thông tin, thẩm quyền của việc cung
cấp thông tin;
- Trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan có thẩm quyền.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: Xem xét pháp luật về tiếp cận thông tin trong
lịch sử. Nhận định các quy định liên quan. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát
triển pháp luật cũng như nhu cầu về tiếp cận thông tin của công dân.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, phân tích và
tổng kết lại những kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát về quyền tiếp
cận thông tin của người dân từ đó đưa ra những nhận xét riêng của mình về
việc tiếp cận thông tin và chính thức thực hiện quyền đó.
- Phương pháp so sánh: So sánh về quyền tiếp cận thông tin của nước
ta với các nước trên thế giới.
- Các phương pháp thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê,
điều tra, khảo sát về thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân và nhu
cầu của người dân đối với quyền này để có những quy định phù hợp nhằm
đảm bảo quyền cho công dân.
3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu liên quan đến những
quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin cho người dân. Do đó,
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, học
viên, sinh viên. Đặc biệt luận văn chính là nguồn cung cấp thông tin cho các
cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc hoạch định và quyết định chính sách.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm thông tin và nội dung của quyền tiếp cận thông tin.
Chương 2: Thực trạng của quyền tiếp cận thông tin ở nước ta.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền
tiếp cận thông tin cho người dân.
4
Chương 1
KHÁI NIỆM THÔNG TIN VÀ NỘI DUNG
CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
1.1. KHÁI NIỆM THÔNG TIN
1.1.1. Khái niệm thông tin theo quy định của các nƣớc trên thế giới
- Về thuật ngữ thông tin, khái niệm tiếp cận thông tin
Luật của các nước sử dụng thuật ngữ khác nhau để ghi nhận quyền
tiếp cận thông tin công của cá nhân (right to access public information). Một
số nước sử dụng quyền được tiếp cận các hồ sơ, tài liệu chính thức hoặc các
files, dữ liệu văn bản, như Anbani, Bỉ, Colombo, Đan Mạch, Pháp, Hung Ga
ri, Nhật Bản. Một số nước khác sử dụng quyền được thông tin (right to
information), như Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ… Những quốc gia khác ban hành luật
tự do thông tin, như Vương Quốc Anh, Israel, Iceland, Latvia, Nauy, Mỹ,
Australia, Newzeland [67]…
Với tên gọi khác nhau nhưng trên thực tế, không có sự khác nhau lắm
về nội dung và phạm vi điều chỉnh của luật. Hầu hết luật các nước đều xác
định quyền được thông tin với nội hàm rộng bao gồm quyền của cá nhân,
công nhân được tiếp cận tất cả các thông tin đang được lưu giữ bởi cơ quan
công quyền (cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp). Thông tin lưu giữ bởi cơ
quan công quyền, gọi là "thông tin công". Một số nước như Thụy Điển, Anbani,
Kosovo, Newzeland... sử dụng thuật ngữ tiếp cận "tài liệu chính thức" không
bao gồm các tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc dự thảo không được
sử dụng để ban hành quyết định cuối cùng. Nhìn chung, quyền tiếp cận thông
tin chỉ áp dụng đối với thông tin có trong hồ sơ chính thức. Một khoảng trống
mà luật các nước không mấy quan tâm điều chỉnh là các thông tin cụ thể khác,
thông tin qua truyền miệng (như thông tin được thảo luận, kết luận trong các
cuộc họp) có thể được sử dụng để ban hành quyết định.
5
Chỉ một số nước đưa ra một định nghĩa chính thức hoặc giải thích thuật
ngữ quyền tiếp cận thông tin/quyền được thông tin. Chẳng hạn Luật về quyền
được thông tin của Ấn độ giải thích:
Quyền được thông tin có nghĩa là quyền được tiếp cận các
thông tin theo quy định tại Luật này, mà đang được quản lý hoặc
kiểm soát bởi bất kỳ nhà chức trách công cộng nào. Quyền này bao
gồm các quyền được: (a) Xem các tác phẩm, tư liệu, hồ sơ; (b) Ghi
chép, trích dẫn, sao chụp các tư liệu hoặc hồ sơ; (c) Có các bản sao
có chứng thực các tài liệu; (d) Thu thập thông tin dưới các dạng đĩa
mềm, thẻ nhớ, băng ghi âm, băng hình hoặc bất kỳ dạng thiết bị
điện tử nào khác hoặc thông qua các việc in ra các tài liệu ở những
nơi lưu trữ tư liệu bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác [67].
- Về lịch sử phát triển khái niệm quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản
của con người. Khái niệm này đã xuất hiện trong thời kỳ Ánh Sáng vào thế kỷ
18. Chính trong đạo Luật về Tự do báo chí của Thụy Điển được ban hành vào
năm 1766 đã thiết lập nguyên tắc các hồ sơ của Chính phủ không được thiếu
vắng, mà sẽ phải công khai cho công chúng và trao cho người dân quyền
được yêu cầu tiếp cận các văn bản của các cơ quan chính phủ. Bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng xác lập nguyên tắc:
Việc tự do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một trong những
quyền quý giá nhất của con người; mọi công dân có thể phát ngôn,
viết hay tiến hành in ấn một cách tự do, nhưng phải chịu trách
nhiệm về sự lạm dụng quyền tự do đó (Điều 11)...
Mọi công dân đều có quyền trực tiếp hoặc thông qua các
đại diện của mình được xem xét cần thiết của thuế công cộng, được
tự do thỏa thuận đóng góp, được theo dõi việc sử dụng và được ấn
6
định chỉ tiêu thuế, cách thức và thời hạn đóng góp; xã hội có quyền
bắt mọi công chức phải báo cáo về công việc quản lý của họ [26].
Các nguyên tắc này, một cách tương tự, cũng được quy định trong Tuyên
ngôn của Hà Lan năm 1795.
Như vậy, khái niệm tiếp cận thông tin đã được quy định khá sớm, và
đó là một trong những quyền cơ bản của con người, nếu so sánh với sự phát
triển các quyền và tự do khác của con người. Tuy nhiên, thời điểm đó, quyền
tiếp cận thông tin công mới chỉ được quy định trong phạm vi một vài quốc gia.
Quyền tiếp cận thông tin chỉ trở thành mối quan tâm trên phạm vi
quốc tế, sau khi Liên hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng
Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59(1), nơi quy định: "Tự do thông
tin là quyền con người cơ bản và… nền tảng của tất cả các tự do khác…".
Tiếp đó, bản Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người được thông
qua vào năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân,
trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các chính phủ trong
việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin tiếp
tục được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 và trong một số công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về
quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công
chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi
trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003…[68].
Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định
trong Công ước nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước nhân quyền Châu
Mỹ (ACHR), và trong Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho
khu vực Châu Á - Thái bình dương cũng đã quy định rõ về tiếp cận thông tin
bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp
nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với
pháp luật trong nước [67]… Hiện nay, các nước trên thế giới dù khác nhau về
7
thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hóa trong
pháp luật quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Tính đến tháng 9/2007 đã có khoảng 70 quốc gia ban hành luật bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin công. Ví dụ: Canađa ban hành năm 1983, Hunggari
năm 1992, Vương Quốc Anh năm 2000, Nam Phi năm 2000, Mỹ năm 1966,
Liên bang Nga năm 2006... Ở Châu Á, một số nước cũng đã ban hành luật về
tiếp cận thông tin như Thái Lan năm 1997, Hàn Quốc năm 1998, Nhật Bản
năm 2004, Ấn Độ năm 2005, Trung Quốc năm 2007…
- Các khía cạnh khác nhau của nội hàm khái niệm quyền tiếp cận
thông tin
+ Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin, chính là mọi cá nhân, công
dân được quyền tiếp cận hồ sơ, tài liệu của cơ quan nhà nước, hoặc các tổ
chức có chức năng thực hiện nhiệm vụ công (cơ quan công quyền). Điều này
phản ánh nguyên tắc cơ quan công quyền không được lưu giữ thông tin thay
mặt chính họ, mà là thay mặt, hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả
các thành viên trong xã hội. Do đó, cá nhân, công dân có quyền được tiếp cận
thông tin công, trừ khi những thông tin thuộc giới hạn không được phép tiếp
cận. Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân còn có ý nghĩa thứ hai, là quyền
chủ động được yêu cầu, và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước là phải công bố,
phổ biến rộng rãi các loại thông tin vì lợi ích của cộng đồng.
+ Quyền tiếp cận thông tin, bắt đầu xuất hiện đó là quyền được biết sự
thật. Nó phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mọi công dân biết sự
thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đến quản
lý tư pháp, quản lý hành chính của đất nước; về các vấn đề liên quan đến quốc
kế, dân sinh nói chung; về bảo vệ quyền và các tự do của mọi cá nhân, công
dân. Các thông tin này được xác định đó là thông tin công, được cơ quan công
quyền lưu giữ thay mặt nhân dân, do đó có trách nhiệm bảo quản, và tạo điều
kiện thuận lợi để cá nhân, công dân được quyền tiếp cận hồ sơ chứa đựng các
thông tin này.
8
1.1.2. Phạm vi sử dụng thông tin theo quy định của một số nƣớc
trên thế giới
Phạm vi của quyền tiếp cận thông tin được quy định trong luật tiếp cận
thông tin các nước là không hoàn toàn giống nhau. Nhìn chung, phạm vi của
quyền tiếp cận thông tin được quy định trong luật theo hai cách chính sau đây:
- Cách thứ nhất, luật liệt kê một loạt các loại thông tin cơ quan công
quyền có trách nhiệm phải công bố trong thời hạn luật định và sau đó là
những thông tin miễn trừ tiết lộ. Những nước theo cách này, như Ấn Độ, Liên
bang Nga, Trung Quốc….
Luật về quyền tiếp cận thông tin của Ấn Độ (Điều 4) quy định:
Các nhà chức trách công cộng phải lưu giữ hồ sơ và có
trách nhiệm công bố trong vòng 120 ngày đối với những loại thông
tin từ điểm (i) đến điểm (xvii). Những thông tin này, chủ yếu là liên
quan tới tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và nghĩa vụ, thủ
tục ra quyết định, quy tắc nội bộ, danh bạ điện thoại, ngân
sách…các chính sách, quyết định quan trọng có ảnh hưởng tới công
chúng…[67].
Bên cạnh đó, Luật quy định những thông tin mà nhà chức trách không
có nghĩa vụ cung cấp (Điều 8). Đó là các thông tin mà việc tiết lộ có thể gây
những tác động tiêu cực tới chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ấn Độ, cho
an ninh chiến lược hoặc các lợi ích kinh tế, khoa học, quan hệ với nhà nước
khác, hoặc khuyến khích tội phạm; thông tin về hoạt động của tòa án; thông
tin mà nếu tiết lộ có thể ảnh hưởng đến nghị viện, cơ quan lập pháp các bang;
thông tin về bí quyết thương mại, kinh doanh…
Tương tự Ấn Độ, Luật về Thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ
thông tin của Liên bang Nga cũng xác định các loại thông tin không được hạn
chế tiếp cận. Điều 8 quy định:
9
Không được hạn chế tiếp cận đối với: (1) Các văn bản pháp
luật liên quan đến quyền, tự do và nghĩa vụ của con người và công
dân và các văn bản pháp luật quy định địa vị pháp lý của các tổ
chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính
quyền địa phương; (2) Thông tin về trạng thái môi trường; (3) Thông
tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền
địa phương và thông tin về sử dụng ngân sách (trừ các tin tức về bí
mật quốc gia hoặc bí mật nghề nghiệp); (4) Thông tin được lưu trữ
trong các thư viện công cộng, bảo tàng, tài liệu lưu trữ và trong các
hệ thống thông tin của quốc gia, của các cơ quan nhà nước và của
các hệ thống thông tin khác mà chúng được thiết lập nhằm phục vụ
công dân (thể nhân) và tổ chức; (5) Các thông tin khác mà pháp
luật Liên bang không hạn chế tiếp cận [67].
Điều 9 Luật quy định mục đích hạn chế tiếp cận thông tin, nhằm bảo
vệ chế độ Hiến pháp, đạo đức, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người, bảo đảm nền quốc phòng đất nước và an ninh quốc gia; các thông tin
bắt buộc bảo mật, các thông tin mà pháp luật Liên bang hạn chế tiếp cận…
Pháp lệnh của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin
của chính quyền ngày 17/1/2007 cũng quy định phạm vi công bố thông tin.
Các cơ quan nhà nước phải công bố các thông tin của chính
quyền liên quan đến bất kỳ vấn đề nào quy định dưới đây: (1) Lợi
ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác; (2) Các
yêu cầu mở rộng kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng; (3)
Việc thành lập, nghĩa vụ hoặc các thủ tục hành chính của các cơ
quan nhà nước; (4) Các thông tin khác phải được công bố theo quy
định của các luật, văn bản pháp quy khác [12, Điều 9].
Điểm khác so với luật của một số các nước, pháp luật của Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa quy định danh mục các vấn đề mà chính quyền các cấp
(từ cấp xã đến cấp tỉnh) có trách nhiệm cung cấp thông tin cho nhân dân.
10
Điều 10 quy định:
Chính quyền nhân dân và các văn phòng ở cấp huyện hoặc
cao hơn phải căn cứ quy định ở Điều 8 Pháp lệnh này để quyết định
những thông tin của chính quyền nào cần phải công bố phù hợp với
chức trách, nhiệm vụ của cơ quan mình, trong đó phải chú ý đến các
dạng thông tin sau đây: (1) Các văn bản pháp quy, các quy tắc do cơ
quan nhà nước lập ra; (2) Các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội
của quốc gia, các dự án đặc biệt ở cấp quốc gia và khu vực cùng các
chính sách có liên quan; (3) Dữ liệu thống kê về sự phát triển kinh tế,
xã hội của quốc gia; (4) Các báo cáo về chi tiêu tài chính và kiểm
toán; (5) Thông tin về các chương trình, cơ sở và các tiêu chuẩn liên
quan đến các khoản lệ phí và chi phí cho hoạt động hành chính; (6)
Thông tin về các dự án, hồ sơ, tiêu chuẩn và việc thực hiện chính sách
chi trả tập trung của chính quyền; (7) Thông tin về các vấn đề liên
quan đến các phê duyệt hành chính, bao gồm cơ sở của những quyết
định phê duyệt đó, tình trạng, số lượng, thủ tục, giai đoạn và các hồ
sơ gồm tất cả tài liệu được cung cấp để xin phê duyệt phù hợp với các
yêu cầu hành chính; (8) Thông tin liên quan đến việc phê duyệt các dự
án xây dựng lớn và bối cảnh thực hiện; (9) Thông tin về các chính
sách và biện pháp liên quan đến việc xóa đói nghèo, giáo dục, y tế, trợ
cấp xã hội và việc làm...và bối cảnh thực hiện; (10) Thông tin về các
kế hoạch hành động trong trường hợp xảy ra tình huống khẩn cấp và
các trật tự công cộng, thông tin về việc cảnh báo sớm và các biện
pháp đối phó (11) Thông tin về thanh tra và giám sát việc bảo vệ môi
trường, sức khỏe công cộng, an toàn lao động, an toàn thực phẩm,
dược phẩm và chất lượng hàng hóa [12].
Điều 11 quy định:
Thông tin ưu tiên công bố do chính quyền nhân dân cấp tỉnh/
thành phố đưa ra cần bao gồm những dạng sau: (1) Thông tin liên quan
11
đến các dự án lớn về xây dựng, quản lý đô thị và nông thôn; (2) Thông
tin liên quan đến tình hình thực hiện các dự án công ích; (3) Thông tin
liên quan đến việc trưng dụng, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và việc
đền bù, phân phối tiền trợ cấp và những bối cảnh áp dụng; (4) Thông
tin liên quan đến quản lý, sử dụng và bối cảnh cần phân phát cứu trợ
khẩn cấp, công tác cứu trợ thảm họa, trợ cấp cho cựu chiến binh, trợ
cấp xã hội, những đóng góp thiện nguyện và các quỹ khác [12].
Điều 12 quy định:
Chính quyền nhân dân ở các xã, phường, thị trấn phải căn
cứ quy định ở Điều 9 Pháp lệnh này quyết định những thông tin cần
phải công bố trong phạm vi thẩm quyền của mình, trong đó phải
chú trọng đến những dạng thông tin sau: (1) Thông tin liên quan
đến tình hình thực hiện các chính sách quốc gia về việc làm ở khu
vực nông thôn; (2) Thông tin liên quan đến tình hình quản lý và sử
dụng ngân sách, các khoản chi tiêu và các quỹ đặc biệt; (3) Thông
tin về kế hoạch tổng thể về sử dụng đất ở địa phương, và tình hình
kiểm tra việc sử dụng...(4) Thông tin liên quan đến việc trưng dụng,
thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và việc đền bù, phân phối tiền trợ
cấp và những bối cảnh áp dụng; (5) Thông tin liên quan đến tình
hình thu nợ; (6) Thông tin liên quan đến quản lý, sử dụng và bối
cảnh cần phân phát cứu trợ khẩn cấp, công tác cứu trợ thảm họa,
trợ cấp cho cựu chiến binh, trợ cấp xã hội, những đóng góp từ thiện
và các quỹ khác; (7) Thông tin liên quan đến việc ký kết hợp đồng,
cho thuê hoặc đấu thầu của các doanh nghiệp tập thể hoặc các chủ
thể kinh tế khác ở cấp xã, phường, thị trấn; (8) Thông tin liên quan
đến tình hình thực hiện các chính sách sinh sản [12].
Pháp lệnh của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin
của chính quyền không liệt kê các dạng thông tin không được phép tiết lộ mà
chỉ quy định nguyên tắc chung tại Điều 8 là: "Các cơ quan nhà nước không
12
được gây tổn hại tới an ninh quốc gia, trật tự công cộng; an ninh kinh tế và
sự ổn định xã hội khi công bố thông tin của chính quyền" [12].
Và tại Điều 14 quy định: "Cơ quan nhà nước phải thiết lập một cơ chế
toàn diện để kiểm tra và bảo vệ bí mật thông tin của chính quyền trước khi
công bố" [12].
- Cách thứ hai, luật xác định và liệt kê những loại thông tin không
công khai, hạn chế, miễn trừ tiếp cận.
Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền năm 1996
của Hàn Quốc (Điều 7) liệt kê danh mục thông tin không công khai, từ mục 1 mục 8 [67], gồm những thông tin chứa đựng những bí mật hoặc được luật
khác quy định không thể công khai; thông tin nếu tiết lộ sẽ gây nguy hại lớn
đến quyền lợi quốc gia; đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người hoặc
lợi ích của cộng đồng; thông tin liên quan phòng chống, điều tra tội phạm,
khởi tố, thi hành án; kiểm toán, giám sát điều tra, hợp đồng đấu thầu, phát
triển khoa học, quản lý nhân sự; thông tin nhận dạng cá nhân; thông tin liên
quan tới bí mật thương mại của các công ty, hội đoàn hoặc cá nhân; hoặc
thông tin nếu công khai sẽ có nguy hại đến cá nhân…
Tương tự như Hàn Quốc, Luật tiếp cận thông tin của cơ quan hành
chính năm 1999 của Nhật Bản xác định trách nhiệm cung cấp các văn bản
hành chính khi có yêu cầu. Tuy nhiên, luật cũng liệt kê thông tin được cung
cấp liền ngay các thông tin ngoại trừ không cung cấp.
Điều 5 quy định nghĩa vụ cung cấp các văn bản hành chính, các thông
tin liên quan tới cá nhân (ngoại trừ thông tin mà việc công khai hóa có thể gây
ra những nguy cơ cho các quyền và lợi ích của cá nhân người có liên quan).
Hoặc, mục (2) những thông tin liên quan đến một tập đoàn hoặc các chủ thể
khác khác (ngoại trừ nhà nước, các cơ quan hành chính phối hợp...các cơ
quan công cộng địa phương và các cơ quan hành chính phối hợp địa phương)
hoặc thông tin liên quan đến nhiệm vụ của một cá nhân có trách nhiệm thực
13
thi nhiệm vụ đó, mà sẽ được nêu dưới đây. Tuy nhiên, ngoại trừ những thông
tin được xác định là cần thiết phải được đưa ra công khai nhằm bảo vệ cuộc
sống, sức khỏe, nghề nghiệp hoặc tài sản của một người. Hoặc, khi việc đưa
thông tin ra công khai dẫn đến nguy cơ cho các quyền, vị thế cạnh tranh hoặc
các lợi ích hợp pháp khác của tập đoàn...hoặc gây tổn hại cho cá nhân được
nói đến…
Khác với Hàn Quốc, Luật của Nhật Bản còn quy định việc cung cấp
một phần thông tin, nếu thông tin đó có thể tách ra khỏi văn bản một cách dễ
dàng và người đứng đầu cơ quan hành chính phải cung cấp cho người yêu cầu
các phần văn bản không chứa đựng các thông tin không công khai hoá. Và
điều này không áp dụng nếu như sau khi tách thông tin không công khai hóa,
các phần còn lại của văn bản chỉ chứa đựng những thông tin không có ý
nghĩa. Hoặc cung cấp văn bản khi cần thiết vì lý do lợi ích công cộng và
thông tin liên quan đến tình trạng của các văn bản hành chính.
Luật về tiếp cận các tài liệu hành chính công của Đan Mạch năm 1985
quy định quyền tiếp cận các tài liệu hành chính do cơ quan hành chính nắm
giữ sẽ phải cung cấp cho bất kỳ người nào, khi có yêu cầu, trừ các trường hợp
ngoại lệ đối với quyền tiếp cận. Những ngoại lệ được xác định tại phần III của
luật, như tài liệu nội bộ của viên chức, tài liệu về sự việc nội bộ sẽ được hiểu là:
(1) Các tài liệu được viên chức soạn thảo để dùng vào việc
riêng; (2) Thư tín giữa các phòng ban trong cùng một cấp; và (3)
Thư tín giữa một hội đồng chính phủ địa phương với các phòng ban
và cơ quan khác, hoặc giữa các hội đồng chính phủ địa phương với
nhau. Ngoài ra các điểm từ 8 - 14 còn quy định một loạt các loại
miễn trừ tiết lộ [2].
Tương tự, Luật về quyền tiếp cận tài liệu của cơ quan hành chính nhà
nước, gọi tắt là Luật tự do thông tin có hiệu lực năm 2009 của Na Uy, xác
định nguyên tắc chung là:
14
Các tài liệu công việc, chuyên san và các tài liệu đăng ký
dữ liệu tương tự của một cơ quan hành chính phải được công khai
trừ trường hợp một đạo luật hoặc quy định hướng dẫn có quy định
khác. Bất kỳ người nào đều có thể nộp đơn cho một cơ quan hành
chính đề nghị tiếp cận các tài liệu công việc, chuyên san và các tài
liệu đăng ký tương tự của cơ quan hành chính đó (Điều 3) [9].
Chương 3 quy định các trường hợp ngoại lệ của quyền tiếp cận tài liệu
tại các điều từ 13 đến 27: các thông tin có nghĩa vụ giữ bí mật, không được
phép tiếp cận; Tài liệu được soạn thảo trong quá trình chuẩn bị giải quyết một
công việc của cơ quan hành chính (tài liệu nội bộ); Các tài liệu gửi đến phục
vụ quá trình chuẩn bị công việc nội bộ; Tiếp cận tài liệu nội bộ của chính
quyền thành phố và chính quyền hạt; Các trường hợp ngoại lệ liên quan đến
các tài liệu nhất định của gia đình Hoàng gia; Các trường hợp ngoại lệ đối với
tài liệu tòa án; Các trường hợp ngoại lệ đối với các tài liệu được trao đổi trong
quá trình tham vấn với Quốc hội; Các trường hợp ngoại lệ liên quan đến lợi
ích chính sách đối ngoại của Na Uy; Các trường hợp ngoại lệ liên quan đến
lợi ích quốc phòng và an ninh; Các trường hợp ngoại lệ đối với một số vấn đề
về ngân sách; Các trường hợp ngoại lệ liên quan đến đường lối đàm phán của
Chính phủ; Các trường hợp ngoại lệ có liên quan đến các biện pháp kiểm soát
hoặc quản lí, các tài liệu liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật và các
thông tin có khả năng thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật; Các trường hợp
ngoại lệ liên quan đến việc bổ nhiệm; Các trường hợp ngoại lệ liên quan đến
điểm thi và bài kiểm tra; Cơ sở ban hành quy định hướng dẫn.
1.1.3. Chủ thể có quyền tiếp cận thông tin
Chủ thể mang quyền tiếp cận thông tin có thể được xác định trong các
văn kiện quốc tế (Công ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng, Công
ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết
định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998), trong
15
Hiến pháp hoặc trong các đạo luật về tiếp cận thông tin hay về công khai hoạt
động của chính quyền.
Pháp luật các nước
Tại các văn bản pháp luật quốc tế và một số quốc gia, chủ thể mang
quyền tiếp cận thông tin có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là
công dân, người không mang quốc tịch, người nước ngoài; cụ thể hơn, có thể
là trẻ em hay công chức nhà nước.
Với quan niệm tiếp cận thông tin là một quyền dân sự - chính trị, Hiến
pháp, Luật các nước sử dụng các công thức như "mọi người", "bất kể người
nào" hay "công chung", "người dân" để thể hiện tính phổ quát của quyền này.
Chủ thể có quyền tiếp cận thông tin có thể là công chúng nói chung.
Theo Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc
ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường (25/6/1998):
"…mỗi Bên tham gia Công ước sẽ bảo đảm các quyền được tiếp cận thông
tin, quyền của công chúng được tham gia vào các tiến trình ra quyết định
(Điều 1)".
Tại đây, "công chúng" được cắt nghĩa là một hoặc nhiều thể nhân hoặc
pháp nhân và theo luật hoặc thông lệ quốc gia, là các tổ chức, hiệp hội hoặc
nhóm của họ. "Trong phạm vi các điều khoản có liên quan đến Công ước này,
công chúng sẽ tiếp cận thông tin, có khả năng tham gia vào việc ra các quyết
định và tiếp cận bình đẳng đối với các vấn đề về môi trường mà không phân
biệt tư cách công dân, quốc tịch hay sinh quán…" (Khoản 9 Điều 3)".
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua vào tháng 10/2003 và có hiệu lực thi hành vào tháng
12/2005 nêu: Đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu quả.
Hiến pháp một số nước sử dụng cụm từ "mọi người" khi đề cập chủ
thể của quyền tiếp cận thông tin:
16
- Xem thêm -