Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền tham gia chính trị ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quyền tham gia chính trị ở việt nam hiện nay

.PDF
110
433
134

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN CÔNG KHANH QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chƣơng trin ̀ h đào ta ̣o thí điể m LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Công Khanh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ ....... 8 1.1. Chính trị và hệ thống chính trị ......................................................... 8 1.1.1. Chính trị................................................................................................ 8 1.1.2. Hệ thống chính trị ................................................................................. 9 1.1.3. Các yếu tố cấu thành của Hệ thống chính trị ..................................... 11 1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị..................................... 12 1.1.5. Hệ thống chính trị ở Việt Nam ........................................................... 14 1.2. Quyền tham gia chính trị ................................................................. 18 1.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 18 1.2.2. Quyền tham gia chính trị theo quy định của luật quốc tế .................. 21 1.2.3. Chủ thể của Quyền tham gia chính trị................................................ 21 1.2.4. Các yếu tố cấu thành Quyền tham gia chính trị ................................. 23 1.3. Ý nghĩa của Quyền tham gia chính trị và Các yếu tố ảnh hƣởng đến Quyền tham gia chính trị ................................................ 28 1.3.1. Vị trí, vai trò của Quyền tham gia chính trị ....................................... 28 1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện Quyền tham gia chính trị ........ 30 1.4. Quan điểm của Đảng, nhà nƣớc Việt Nam về Quyền tham gia chính trị ....................................................................................... 34 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 39 Chƣơng 2: QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP LUẬT VÀ TRONG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .... 40 2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị .... 40 2.1.1. Các quyền tham gia trực tiếp.............................................................. 40 2.1.2. Quyền bầu cử, ứng cử ........................................................................ 46 2.1.3. Quyền giám sát ................................................................................... 52 2.2. Việc thực hiện quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.... 55 2.2.1. Quyền tham gia quản lý nhà nước một cách trực tiếp ....................... 55 2.2.2. Quyền bầu cử, ứng cử ........................................................................ 59 2.2.3. Các quyền giám sát ............................................................................ 65 Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 73 Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......74 3.1. Một số phƣơng hƣớng bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 74 3.1.1. Thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về quyền tham gia chính trị ............................................... 74 3.1.2. Tuyên truyền, nâng cao nhận nhận thức của nhân dân ...................... 75 3.1.3. Tích cực, chủ động trong đối thoại, hợp tác quốc tế về lĩnh vực quyền con người ................................................................................. 76 3.2. Một số giải pháp bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay .................................................................................... 77 3.2.1. Về xây dựng và thực thi pháp luật ..................................................... 77 3.2.2. Tăng cường hiệu quả hoạt động của xã hội dân sự, đặc biệt là các tổ chức chính trị - xã hội .............................................................. 89 3.2.3. Bảo đảm các quyền chính trị cơ bản .................................................. 91 3.2.4. Tăng cường dân chủ cơ sở ................................................................. 92 3.2.5. Thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia ............................................ 95 Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 97 KẾT LUẬN .................................................................................................... 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT UDHR Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền, 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) ICCPR Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị, 1966 (International Convenant on Civil and Political Rights) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là những giá trị tốt đẹp, kết tinh từ nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới, bảo đảm quyền con người là mục tiêu mà toàn nhân loại đang hướng đến nhằm xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, mọi người dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, màu da, giới tính, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội… được thực sự bình đẳng, tự do, hạnh phúc. Cùng với sự ra đời của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICCSCR) năm 1966, Quyền con người chính thức được pháp điển hóa và trở thành hệ thống tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia. Nếu việc tôn trọng và Bảo đảm quyền con người là thước đo đánh giá sự phát triển, tiến bộ của mỗi quốc gia, thì quá trình thúc đẩy và bảo vệ những quyền đó lại là những nghĩa vụ đặc biệt của tất cả các thành phần, các tầng lớp, các dân tộc trên thế giới. Trong những năm gần đây, khi xã hội ngày càng phát triển, cùng với những thành tựu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đời sống cũng như nhận thức của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đảng và nhà nước ngày càng quan tâm hơn đến bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Đến nay,Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016. Ở cấp độ quốc gia, từ Hiến pháp 2013, quyền con người, quyền công dân trở thành chế định trong Hiến pháp, được bảo đảm thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Điều này, thể hiện sự coi trọng của Đảng, nhà nước đối với các hoạt động bảo đảm, thực thi quyền con người ở Việt Nam, phù 1 hợp với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân, thực hiện đúng phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mà Đảng đã đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI: Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm quyền công dân; chống tệ quan liêu cửa quyền, ức hiếp quần chúng trong bộ máy lãnh đạo và quản lý các cấp. Thực hiện có nền nếp khẩu hiệu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tất cả vì dân và do dân. Động viên và tổ chức quần chúng tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tham gia các hoạt động cải cách kinh tế [4]. Trong số các Quyền con người, Quyền tham gia chính trị nằm trong nhóm quyền dân sự, chính trị, được quy định tại Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền 1948 (UDHR), sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 21 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR). Quyền tham gia chính trị có thể hiểu là quyền của người dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước. Cơ sở của Quyền tham gia chính trị của công dân trước hết xuất phát từ bản chất nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ. Bảo đảm quyền tham gia chính trị, quyền tham gia quản lý nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp của nhân dân cũng chính là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách là lực lượng quan trọng quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn xác định muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phát huy trí tuệ tập thể, sức mạnh toàn dân, tăng cường sự tham gia đóng góp của người dân vào mọi hoạt động của đời sống chính trị. Tuy nhiên, đến nay, những quy định của Pháp luật về quyền con người nói chung và quyền tham gia chính trị của công dân nói riêng đang trong quá 2 trình xây dựng, hoàn thiện nên còn nhiều hạn chế như: Quyền trưng cầu dân ý đã được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng chưa được luật hóa để triển khai thực hiện trên thực tế; hoặc Quyền khiếu nại tố cáo dù đã được quy định tương đối hoàn chỉnh song công tác tổ chức thực hiện vẫn mang tính hình thức… Điều này dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai các chính sách thực thi và bảo đảm quyền con người nói chung và quyền tham gia chính trị nói riêng. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền giáo dục về quyền con người, quyền công dân chưa thực sự hiệu quả dẫn đến tình trạng đại đa số người dân và một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức, những người trực tiếp xây dựng và thực thi pháp luật cũng chưa nhận thức được đầy đủ về quyền tham gia chính trị của công dân, chưa ý thức được vai trò của làm chủ của nhân dân. Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, nhằm góp phần tích cực vào việc đề xuất những phương hướng, giải pháp trong hoạch định và thực thi chính sách pháp luật, góp phần thúc đẩy và bảo đảm thực thi quyền tham gia chính trị ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, các đề tài liên quan đến quyền tham gia chính trị được nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng được chú trọng, chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ, của dân, do dân, vì dân thì các công trình nghiên cứu quyền tham gia chính trị của công dân ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát về các quyền cụ thể như quyền trưng cầu ý dân, bầu cử ứng cử, khiếu nại tố cáo... Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ 3 thể, toàn diện, đi sâu về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam dưới góc nhìn từ chính sách đến thực tiễn thi hành. Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên cứu về Quyền tham gia chính trị, tiêu biểu như sau: Phạm Hồng Thái (2012) “Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân trong Hiến pháp 1992 và những vấn đề cần sửa đổi bổ sung” Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập I, tr 173-189, Nxb Hồng Đức. Đào Trí Úc (2012), “Chế định chủ quyền nhân dân và việc sửa đổi Hiến pháp 1992” Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Số 17, trang 3-6, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội. Vũ Văn Nhiêm (2009), “Chế độ bầu cử ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Thái Vĩnh Thắng (2009)“Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay”, Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập I, tr 173-190, Nxb Hồng Đức. Có thể thấy, tài liệu về các quyền cụ thể của quyền tham gia chính trị như bầu cử ứng cử, trưng cầu ý dân, khiếu nại tố cáo… khá phong phú, song tính đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng hợp và chuyên sâu về quyền tham gia chính trị của công dân dưới góc độ pháp luật về quyền con người. Luận văn mong muốn sẽ góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm kiến thức về Quyền tham gia chính trị ở Việt nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài hướng tới mục tiêu: tập hợp và xây dựng nền tảng lý luận về quyền tham gia chính trị, đánh giá pháp luật và thực hiện pháp luật về Quyền 4 tham gia chính trị ở Việt Nam và trên cơ sở đó thử đề xuất kiến giải hoàn thiện pháp luật trên lĩnh vực này. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền tham gia chính trị ở Việt Nam; Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút ra được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó. - Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau: - Quy định của Pháp luật Việt Nam hiện nay về Quyền tham gia chính trị. - Thực trạng pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền quyền tham gia chính trị. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng, liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều quyền cụ thể như quyền tham gia trực tiếp, gián tiếp, quyền trưng cầu ý dân, bầu cử ứng cử, khiếu nại tố cáo… nên đề tài chỉ dừng ở mức tổng hợp, khái quát quyền tham gia chính trị qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy 5 vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền quyền tham gia chính trị. - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền quyền tham gia chính trị. 6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận về bảo đảm quyền tham gia chính trị; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay. Luận văn cũng đã tổng hợp và đi sâu phân tích đánh giá thực trạng các quyền tham gia chính trị ở Việt Nam. Từ đó, là cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay. 7. Điểm mới của luận văn Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ thống về vấn đề Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, với những điểm mới nổi bật như sau: - Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến quyền tham gia chính trị, luận văn đã đưa ra được khái niệm quyền tham gia chính trị. - Bổ sung các quyền giám sát của công dân như quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hành chính… là những quyền không được nêu trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR), Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền (UDHR). Làm cụ thể hóa một số nội dung quyền tham gia 6 chính trị hiện diện trong pháp luật Việt Nam thông qua việc so sánh với các quyền chính trị dân sự trong các văn kiện quốc tế. - Đánh giá có hệ thống và khái quát về pháp luật và nêu rõ những thành tựu, hạn chế của quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay trong các lĩnh vực cụ thể. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp theo lăng kính của luật nhân quyền nhằm bảo đảm quyền tham gia chính trị như một quyền cơ bản của con người trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi các chính sách pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau: Chương 1. Lý luận chung về Quyền tham gia chính trị. Chương 2. Quyền tham gia chính trị trong Pháp luật và trong thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Chương 3. Một số phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay. 7 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ 1.1. Chính trị và hệ thống chính trị 1.1.1. Chính trị Thuật ngữ “Chính trị” được nhắc đến khá sớm trong lịch sử bởi các Triết gia như Plato, Aristotle, Khổng Tử… Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử khác nhau, thì quan niệm về chính trị cũng như chủ thể tham gia chính trị cũng hoàn toàn khác nhau. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, khi quyền lực nhà nước thuộc về một người (vua) hoặc một nhóm người (giai cấp quý tộc, chủ nô), người dân chỉ có nghĩa vụ phục tùng vô điều kiện mà không có quyền tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước, khi đó chính trị có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý đất nước hay Khoa học giành và nắm giữ quyền lực. Bước sang thời kỳ Nhà nước tư bản, các trào lưu triết học ánh sáng thế kỷ 18 đã được hình thành với sự xuất hiện của nhiều nhà tư tưởng lỗi lạc như Rousseau, Montesquier, Thomas Paine… Từ đó, hàng loạt học thuyết về chủ nghĩa tự do, khẳng định quyền sống, quyền tự do, an ninh thân thể, quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận cũng ra đời. Đặc biệt là tác phẩm Khế ước xã hội của J. Rousseau với một lý thuyết hoàn toàn mới về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Theo J.Rousseau, Nhà nước không phải là một thế lực thống trị xã hội mà là một tổ chức quyền lực công, được người dân trao cho quyền lực và đổi lại họ được sống dưới sự bảo vệ của Nhà nước trong một trật tự luật pháp do Nhà nước ban hành (luật pháp không trái với đạo đức và luân lý). Dưới nhãn quan triết học này, quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng, nó được tạo lập để phục vụ xã hội. Từ đây, Chính trị được hiểu là nghệ thuật 8 hay khoa học vận hành và quản lý xã hội bằng quyền lực Nhà nước nhưng nó phải bị hạn chế bằng luật pháp và được giám sát bởi người dân thông qua các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo. Ở Việt Nam, theo Từ điển Bách khoa, Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ nội dung hoạt động của nhà nước [38]. Như vậy, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Theo V.I Lênin:“Chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản" [43]. Khái quát lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung nhất là quyền lực nhà nước. Có thể thấy, quyền tham gia chính trị phải dựa trên cơ sở quyền lực chính trị, và thuộc về đối tượng nắm giữ quyền lực chính trị. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, với vị trí là chủ đất nước,người dân thuộc mọi thành phần, không phân biệt tầng lớp đều có đủ tư cách để tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào đời sống chính trị thông qua những hoạt động xã hội cụ thể của mình. 1.1.2. Hệ thống chính trị Hệ thống chính trị là một trong những vấn đề cơ bản, chi phối mọi mặt đời sống chính trị - xã hội của các quốc gia. Để xác định đối tượng tác động của quyền tham gia chính trị, theo tác giả cần làm rõ khái niệm hệ thống chính trị, các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị. Khi xã hội loài người xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội cũng bắt đầu phân hoá thành các nhóm xã hội, giai tầng có địa vị khác nhau, có quyền và lợi ích khác nhau. Các nhóm xã hội, tầng lớp này dần hình thành các lực lượng chính trị - xã hội. Nhằm bảo vệ, củng cố lợi ích của mình, mỗi nhóm xã hội, mỗi giai tầng, mỗi lực lượng chính trị xã hội đã thiết lập các thiết chế xã hội đặc 9 trưng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, giữa các thiết chế chính trị - xã hội luôn có sự liên hệ ràng buộc, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau hình thành nên hệ thống chính trị - xã hội. Như vậy có thể hiểu hệ thống chính trị là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội có liên hệ mật thiết, tồn tại và hoạt động nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị trong xã hội. Về cấu trúc hình thức, hệ thống chính trị là một tập hợp các thiết chế chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động vì những mục đích chính trị xã hội khác nhau. Các thiết chế đó gồm có nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó nhà nước là tổ chức quan trọng nhất. Các tổ chức đó được sắp xếp theo một trật tự khách quan, khoa học và luôn có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau [30]. Về nội dung, hệ thống chính trị được hiểu là một cơ chế thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Có thể nói, quyền lực chính trị là cốt lõi của Hệ thống chính trị. Quyền lực đó được vật chất hoá bằng các thiết chế chính trị xã hội và được biểu hiện thông qua các quan hệ chính trị giữa các lực lượng chính trị - xã hội. Đây là khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền lực chính trị; cũng như các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản chủ nghĩa) [8]. Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau về nội dung, hình thức hay cách thức tổ chức vận hành của hệ thống chính trị mà có nhiều cách định nghĩa về Hệ thống chính trị. Nhưng xét một cách nhất quán nhất có thể định nghĩa: “Hê ̣ thố ng chính tri ̣ là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các bộ phận cấu thành là các thiết chế chính trị có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tham gia thực hiện quyền lực chính trị” [8]. 10 Từ quan điểm trên có thể xem Hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm các tổ chức như: Đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội. 1.1.3. Các yếu tố cấu thành của Hệ thống chính trị Hệ thống chính trị được cấu thành từ nhiều bộ phận chức năng khác nhau. Có thể coi mỗi bộ phận đó là một tiểu hệ thống của hệ thống chính trị. Như vậy, cấu trúc của hệ thống chính trị gồm các bộ phận sau: - Đảng chính trị, là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đảng chính trị - yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công dân - là công cụ tập hợp của một giai cấp; tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng chính trị cho phát triển xã hội. - Nhà nước, là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. - Các tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp) bao gồm các tổ chức mà hoạt động của chúng vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước mà các tổ chức chính trị xã hội có 11 đặc điểm riêng về tổ chức và phương thức hoạt động. Thông thường các tổ chức này không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền; mà thường vì lợi ích của các thành viên trong tổ chức của mình tìm cách tác động, gây ảnh hưởng đối với chính quyền và đảng phái chính trị [38]. 1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị Mỗi hệ thống chính trị có những nguyên tắc và cơ chế vận hành riêng từ đó các quan hệ, hành vi chính trị được định hướng và tạo thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống. Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới phổ biến một số nguyên tắc sau: - Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước do nhân dân lập ra, thông qua hoạt động bầu cử, nhân dân trao quyền lực chính trị của mình cho nhà nước để thay mặt mình, thực hiện công việc quản lý, điều hành đất nước. Do đó, trong mọi hoạt động, Nhà nước luôn phải đảm bảo cho người dân thực hiện quyền lực chính trị của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp. Từ nguyên tắc này, phát sinh một loạt các nguyên tắc sinh hoạt và ứng xử chính trị khác liên quan đến việc bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. - Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn: Nguyên tắc này xác định ai là người có thể được ủy quyền và ủy quyền trong bao lâu. Để bảo đảm nguyên tắc này phải xây dựng thể chế bầu cử bao gồm lựa chọn các ứng viên, thể thức bầu cử và thủ tục truất quyền khi cần thiết. - Nguyên tắc dân chủ Bản chất của nguyên tắc này là tạo các điều kiện kinh tế - xã hội và pháp lý để nhân dân tham gia ngày càng nhiều và thực chất vào công việc nhà nước, tự quyết định vận mệnh của mình thông qua các cơ chế dân chủ. Những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là: 12 (1) Công khai các hoạt động của nhà nước. (2) Tạo điều kiện để dân tiếp cận thông tin. (3) Tạo điều kiện để dân bày tỏ nguyện vọng (dân chủ trực tiếp, gián tiếp). (4) Bầu cử tự do để nhân dân lựa chọn các đại biểu và thể hiện ý chí, phải hỏi dân khi quyết định những vấn đề quan trọng. (5) Thiểu số phục tùng quyết định của đa số, đa số tôn trọng và bảo vệ thiểu số. - Nguyên tắc thống nhất - phân quyền Đây là hai mặt của một vấn đề trong đời sống chính trị. Không có thống nhất và tập trung quyền lực đủ mức thì sẽ không có quyền lực chính trị hoặc quyền lực nhà nước và sẽ không có quyền để phân chia (hoặc phân công); không có thống nhất thì không còn quyền lực nhà nước (tức là chỉ còn quyền lực tập đoàn hoặc quyền lực cát cứ). Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện: (1) Xã hội công dân thống nhất, trên đó xây dựng nhà nước; (2) Lãnh thổ quốc gia dân tộc thống nhất; (3) Ý chí nhân dân được tổng hợp lại thành những văn bản (khế ước) có tính pháp lý hợp pháp (hiến pháp và pháp luật...) từ đây xây dựng những thể chế quyền lực thống nhất (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan xét xử cao nhất...). (4) Thống nhất bởi đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền chi phối hệ thống chính trị bằng các phương thức chính trị như ảnh hưởng cương lĩnh, đường lối, nêu gương, tổ chức, vận động giáo dục... Quyền lực là thống nhất nhưng cần có sự phân quyền để tạo sự kiểm soát trở lại với quyền lực nhà nước. Nếu không có sự kiểm soát, sẽ dẫn đến chuyên quyền, sử dụng tuỳ tiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, không thể kiểm soát quyền lực nhà nước trong tình trạng quyền lực đó không được phân 13 chia. Hiện nay, các nước trên thế giới thường phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền lập pháp được giao cho nghị viện, quyền hành pháp được giao cho chính phủ, quyền tư pháp được giao cho toà án. Các cơ quan này hoạt động độc lập tương đối, tạo thành cơ chế giám sát lẫn nhau. Sự tập trung quyền lực quá đáng sẽ dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán; ngược lại sự phân tán quyền lực quá mức sẽ dẫn đến tình trạng cát cứ, quyền lực nhà nước thiếu thống nhất và yếu đi. Do đó, để sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả cùng với sự phân công khoa học, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ thì đòi hỏi phải có sự kiểm soát quyền lực trong từng cơ quan, giữa các cơ quan nhà nước và sự kiểm soát của nhân dân, của các tổ chức chính trị, xã hội đối với nhà nước. 1.1.5. Hệ thống chính trị ở Việt Nam Ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và bao gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân, cụ thể: - Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan