Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền giáo dục ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quyền giáo dục ở việt nam hiện nay

.PDF
166
44
103

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU................................................ 8 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ............................... 8 1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong luận án ............................... 19 1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu .................................... 23 Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN GIÁO DỤC ......................... 26 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung quyền giáo dục ..................... 26 2.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền giáo dục ............................................. 45 2.3. Các yếu tố tác động đến quyền giáo dục ............................................ 52 Chương 3. THỰC TRẠNG QUYỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........ 63 3.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 63 3.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 70 3.3. Kết quả, hạn chế trong thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của các thiết chế .................................................................................. 81 3.4. Đánh giá khái quát về thực hiện quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................................... 95 Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUYỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................................... 110 4.1. Quan điểm thực hiện quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay ............. 110 4.2. Giải pháp thực hiện quyền quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay ........... 114 KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................... 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 151 PHỤ LỤC: Có văn bản riêng kèm theo ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Bộ GD&ĐT: Bộ Giáo dục và Đào tạo CRC: Công ước quốc tế về quyền trẻ em GD: Giáo dục GDĐT: Giáo dục và đào tạo GDPL: Giáo dục pháp luật ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam NGOs: Tổ chức phi chính phủ nước ngoài OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế QCN : Quyền con người QGD: Quyền giáo dục TCCT-XH: Tổ chức Chính trị - xã hội THCS: Trung học cơ sở THPL: Thực hiện pháp luật THPT: Trung học phổ thông UBND: Ủy ban nhân dân UBTVQH: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội UNDP: Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc UNESCO: Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật XHCN: Xã hội chủ nghĩa iii MỞ ĐẤU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người (QCN) là những giá trị cao quý, thiêng liêng kết tinh từ các nền văn hóa, văn minh của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong hệ thống các QCN, quyền giáo dục (QGD) có vị trí, vai trò quan trọng thuộc nhóm các quyền văn hoá, được gọi là “quyền trao quyền”, bởi được hưởng thụ QGD chính là chìa khoá để con người tiếp cận, hưởng thụ các nhóm quyền khác về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, đồng thời là cơ hội cho con người phát huy tài năng, trí tuệ để khám phá, chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia, dân tộc và của cả nhân loại. Chính vì lẽ đó, QGD đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế: Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (UDHR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước về sự xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Công ước về quyền trẻ em (CRC). Công ước về chống phân biệt đối xử trong giáo dục của Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO);…được các châu lục trên thế giới ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Có thể dẫn chứng là QGD được ghi nhận trong Nghị định thư đầu tiên của Công ước châu Âu về các quyền và tự do cơ bản của con người; Nghị định thư bổ sung của Công ước châu Mỹ về quyền con người trên lĩnh vực các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá; Hiến chương châu Phi về các QCN và các dân tộc; Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh châu Âu;… Bảo đảm QGD cho mọi người cũng là chủ đề được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đặc biệt ưu tiên; được quan tâm nghiên cứu, đề cập trong các hội nghị, hội thảo quốc tế và khu vực với sự tham dự của nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các nhà khoa học nhằm thúc đẩy thực hiện tốt hơn QGD của công dân các quốc gia. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, cha ông ta luôn coi trọng giáo dục (GD) và xác định hiền tài là nguyên khí quốc gia. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" 60, tr.8. Ngay từ khi mới giành được độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở chiến dịch chống nạn mù chữ, tiêu diệt giặc dốt, coi đó là nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền. 1 Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đảng và Nhà nước ta nhận thức sâu sắc về vai trò của QGD, luôn quan tâm tôn trọng và thực hiện QGD, xác định phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là “quốc sách hàng đầu” để xây dựng và phát triển đất nước. Có thể thấy, thực hiện QGD ở Việt Nam mang tính tất yếu, cần thiết, xuất phát từ nhu cầu mang tính toàn cầu, khu vực và các nhu cầu nội tại trong nước. Các nhu cầu đó nằm ngay trong GD và từ các yếu tố tác động trực tiếp đến QGD ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), đòi hỏi các quốc gia, trong đó có Việt Nam phải chú trọng phát triển con người với nòng cốt và nền tảng là thực hiện QGD cho mọi người nhằm tạo nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo, kỹ năng, tầm nhìn để nắm bắt cơ hội thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 bao gồm tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI) và những sáng chế mới trong nhiều lĩnh vực, chính là then chốt tạo nên những cú hích cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước. Với tư cách là thành viên của hầu hết các công ước quốc tế về QCN, trong đó có ICESCR, Việt Nam cam kết là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì QGD. Vì vậy, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực thực hiện QGD. Minh chứng là QGD đã được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về QGD ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, với nội dung chặt chẽ và thể chế hóa khá toàn diện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về QGD, từng bước tiệm cận, tiến tới hài hòa với pháp luật quốc tế về QGD. Xây dựng, ban hành nhiều chính sách phát triển, đóng vai trò quan trọng và tác động trực tiếp đến hiệu quả thực hiện QGD ở Việt Nam. Các thiết chế bảo đảm thực hiện QGD ngày càng được củng cố, hoàn thiện và vận hành có hiệu quả, được tổ chức triển khai bởi các cơ quan có thẩm quyền thông qua các chiến lược, chương trình hành động, mục tiêu quốc gia có liên quan đến QGD; công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về QGD, ý thức trách nhiệm thực hiện QGD cho cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân dân được quan tâm;… Tuy nhiên, thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều thách thức và rào cản như: chênh lệch sự phát triển về kinh tế, xã hội giữa các địa phương trong cả nước dẫn đến có biểu hiện bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận và hưởng thụ QGD 2 giữa nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; giữa người giàu và người nghèo; rào cản về tư duy bảo thủ, trì trệ trong đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, GDĐT; thiếu sót trong quản lý GD: thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa thật sự hiệu quả dẫn đến tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí trong GDĐT; chưa quyết liệt chỉ đạo, giám sát thực hiện tự chủ trong GDĐT nhất là giáo dục đại học; nhận thức hạn chế của chủ thể trao quyền và chủ thể hưởng thụ QGD; bên cạnh đó có sự tác động của yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa đặc biệt là văn hóa nhân quyền, yếu tố xã hội; …đã chi phối đến thực hiện QGD của mọi chủ thể; trong đó, quan trọng là rào cản từ thể chế (hệ thống pháp luật về QGD chưa hoàn thiện), rào cản từ thiết chế bảo đảm thực hiện QGD (sự vận hành của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trao QGD theo luật định). Do đó, đòi hỏi phải nghiên cứu, xác định nguyên nhân của những hạn chế, rào cản để kiến nghị giải pháp thực hiện QGD ở Việt Nam là rất cần thiết. Cho đến nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về QGD, bảo đảm QGD của một số nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em khuyết tật, người dân tộc thiểu số). Tuy nhiên, do chủ đề nghiên cứu chỉ xác định trong phạm vi hẹp về QGD cho một nhóm, ở một địa phương cụ thể, nên thiếu tính đại diện; chưa giải quyết thấu đáo những vấn đề lý luận về QGD; chưa đánh giá tổng quát thực trạng QGD ở Việt Nam hiện nay; chưa xác định các quan điểm chủ đạo, các giải pháp được kiến nghị chưa đảm bảo tính đồng bộ, tính khả thi để thực hiện QGD cho mọi người ở Việt Nam. Do đó, nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện dưới góc độ Luật học để xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp có tính khả thi để thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay là yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu trong phạm vi luận án tiến sĩ luật học ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về QGD, đánh giá khái quát thực trạng QGD ở Việt Nam, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: Thứ nhất, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chỉ ra những nội dung nghiên cứu đã làm rõ, luận án có thể kế thừa, phát triển; những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu. Thứ hai, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về QGD, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung QGD; điều chỉnh pháp luật về QGD, các yếu tố tác động đến QGD. Thứ ba, nghiên cứu, phân tích đánh giá khái quát thực tiễn thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay, làm rõ những kết quả, hạn chế trong điều chỉnh pháp luật về QGD (ghi nhận QGD trong pháp luật và thực hiện QGD trong hoạt động của các thiết chế); đánh giá khái quát về những thành tựu cơ bản, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của thành tựu, hạn chế trong thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. Thứ tư, từ kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn QGD, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về QGD ở Việt Nam hiện nay. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Quyền giáo dục là vấn đề rộng lớn của thế giới, các khu vực, mỗi quốc gia, dân tộc, là quyền của tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại. Luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những mức độ nhất định. Cụ thể: - Phạm vi nội dung: Quyền giáo dục bao quát nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án tiến sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về QGD từ góc độ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. - Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về QGD ở Việt Nam; có đề cập đến một số quốc gia có kinh nghiệm trong thực hiện QGD để so sánh, gợi mở cho Việt Nam. 4 - Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu quyền giáo dục ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, trọng tâm là giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2019 (từ khi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế được ban hành và được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013). 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu đề tài Đề tài luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về QCN; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về QCN, trong đó có QGD, về phát triển GD, đào tạo nhân lực, nhân tài cho phát triển đất nước; đồng thời dựa trên lý thuyết về quyền pháp lý, lý thuyết về tiếp cận dựa trên quyền, tiếp cận đa ngành, liên ngành, lý thuyết xã hội học pháp luật để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về QGD. 4.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để đạt được mục đích và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng trong tất cả 04 chương của luận án để luận giải thuyết phục về các nội dung liên quan đến chủ đề luận án; đặc biệt là trong đánh giá, tổng hợp, sử dụng các tài liệu, số liệu trong các công trình nghiên cứu đã công bố, trong các báo cáo tổng kết của các cơ quan có thẩm quyền có liên quan đến đề tài luận án. - Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng trong chương 1 và chương 3 để tìm hiểu khái quát quá trình hình thành và phát triển của QGD, đánh giá thực trạng QGD trong bối cảnh cụ thể về điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của Việt Nam. - Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng trong chương 1 và 3 của luận án nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng QGD ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp so sánh luật học: phương pháp này được sử dụng trong các chương 2, 3, 4 nhằm đối chiếu chuẩn mực quốc tế với chuẩn mực quốc gia về QGD; 5 so sánh để thấy mức độ nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về QGD trong pháp luật Việt Nam; mức độ kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về QGD qua các thời kỳ, kinh nghiệm về xây dựng hoàn thiện thể chế, thiết chế bảo đảm QGD của các nước để tham khảo trong quá trình hoàn thiện thể chế và thiết chế bảo đảm QGD ở Việt Nam; phương pháp này được sử dụng trong các chương 2, 3, 4 của luận án. - Phương pháp xã hội học pháp luật: phương pháp này được sử dụng trong toàn bộ luận án để phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung liên quan đến đề tài luận án, cụ thể là thông qua việc trao đổi trực tiếp với các chuyên gia pháp lý, đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về QCN, chuyên gia về GD; kết hợp với phương pháp quan sát, tham dự quá trình GDĐT; thu thập, đánh giá các tài liệu thứ cấp nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn QGD. - Phương pháp hệ thống: phương pháp này được sử dụng để hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn theo một khung phân tích đã được đưa ra theo cấu trúc của luận án. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu ở trình độ tiến sĩ, kết quả nghiên cứu của luận án đã luận giải tổng thể các vấn đề lý luận về QGD; đánh giá một cách toàn diện về thực trạng QGD ở Việt Nam hiện nay; xác định những quan điểm và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi trong thực tiễn để thực hiện ngày càng tốt hơn QGD ở Việt Nam hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của Luận án khác với những công trình nghiên cứu có liên quan đến QGD đã công bố ở chỗ nghiên cứu của luận án đưa ra quan điểm tổng thể về thực hiện QGD ở Việt Nam cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp học theo nguyên tắc không phân biệt đối xử, tạo cơ hội bình đẳng cho chủ thể quyền được học tập suốt đời theo triết lý giáo dục của thế kỷ XXI là học để có kiến thức, học để làm việc, học để biết chung sống với nhau và học để làm người. - Luận án đã vận dụng thành công cách tiếp cận đa ngành và liên ngành bao gồm: Khoa học pháp lý (chủ đạo là Luật Hiến pháp và Luật Hành chính), khoa học GD (chủ đạo là GD, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, đào tạo nghề…), khoa học phát triển, xã hội học, văn hoá học và tiếp cận tổng thể dựa trên quyền để luận giải những nội dung của luận án. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về QGD trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Do đó, luận án góp phần bổ sung phát triển những vấn đề lý luận về QGD, góp phần hình thành tư duy đầy đủ hơn về QGD, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của các chủ thể trao quyền, chủ thể hưởng thụ QGD ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận án xác lập cơ sở khoa học cho việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, thiết chế nhằm thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp, các nhà quản lý và các nhà hoạt động xã hội liên quan đến QGD. Luận án cũng có thể là tài liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực khoa học chính trị và khoa học pháp lý; giáo dục quyền con người, quyền công dân ở các cơ sở đào tạo chuyên luật và không chuyên luật. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục kèm theo, nội dung luận án được cấu trúc gồm 04 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về quyền giáo dục Chương 3: Thực trạng quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay Chương 4: Quan điểm và giải pháp thực hiện quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Luận án với đề tài “Quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu về một quyền cụ thể (QGD) gắn với một quốc gia cụ thể (Việt Nam), được tác giả xác định triển khai theo hướng nghiên cứu đa ngành và liên ngành trong lĩnh vực luật học, trong đó góc tiếp cận là luật học là chủ yếu. Vì vậy, luận án sẽ đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến QGD, chú trọng các bài viết có nội dung đánh giá liên quan đến QCN gắn với QGD, chủ yếu tập trung đánh giá những công trình, bài viết liên quan đến QGD ở Việt Nam hiện nay, để thấy những gì đã được các công trình nghiên cứu làm sáng tỏ, luận án có thể kế thừa, phát triển; những gì chưa được làm rõ để xác định hướng nghiên cứu của luận án. 1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền giáo dục 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Vấn đề quyền con người trong đó có QGD đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã xác định giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12 tháng 7 năm 1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đánh dấu bước phát triển quan trọng tư duy của Đảng về QCN, Đảng ta thừa nhận giá trị phổ quát của QCN: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại” [6]. Quan điểm coi về giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu của Đảng được tái khẳng định trong Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII; trong Cương lĩnh năm 2011, đặc biệt là trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế... Từ quan điểm định hướng của Đảng, QCN trong đó có QGD thực sự trở thành đề tài được nhiều nhà khoa học ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu. 8 Tình hình nghiên cứu lý luận về quyền con người, quyền giáo dục - Nghiên cứu chuyên sâu lý luận về QCN trong đó có QGD, làm rõ khái niệm, nội hàm QCN, các chuẩn mực quốc tế, khu vực, quốc gia về QCN, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (trong đó có QGD), các điều kiện bảo đảm, các yếu tố ảnh hưởng; cơ chế bảo đảm (gồm thể chế và thiết chế) QCN về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam thời trong kỳ đổi mới của Đề tài khoa học cấp nhà nước “Thành tựu bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và phương hướng giải quyết” do chủ nhiệm đề tài - Cao Đức Thái và nhóm các nhà khoa học trong và ngoài Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện, đã nghiệm thu năm 2005 [81]. - Những vấn đề lý luận về cơ chế nhân quyền quốc gia, quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật của một số nước ASEAN và Trung Quốc về cơ chế nhân quyền quốc gia, rút ra những gợi mở cho Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cơ chế nhân quyền quốc gia của Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm “Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia một số nước ASEAN và Trung Quốc - Kinh nghiệm đối với Việt Nam” do chủ nhiệm Nguyễn Đức Thùy và nhóm tác giả thực hiện, nghiệm thu năm 2011 [86]. - Những vấn đề lý luận về quyền văn hóa trong đó có đề cập đến vai trò của GD, QGD để nâng cao nhận thức về quyền văn hóa trong Đề tài khoa học cấp nhà nước “Bảo đảm quyền văn hóa trong điều kiện phát huy đa dạng văn hóa ở Việt Nam hiện nay” do chủ nhiệm Hoàng Văn Nghĩa và nhóm tác giả thực hiện, đã nghiệm thu năm 2015 [66]. - Đã có một số nghiên cứu về cách tiếp cận QCN theo hướng liên ngành, đa ngành, trong đó chủ đạo là cách tiếp cận dưới góc độ luật học để có cách nhìn đa chiều khi đánh giá thực trạng cũng như xác định quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện QCN trong đó có QGD, xác định rõ QCN, QGD vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù, QGD có mối liên hệ và phụ thuộc với các quyền khác về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Tiêu biểu là nghiên cứu về của tác giả Võ Khánh Vinh [107, tr.9-20]; tập hợp các công trình nghiên cứu về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, đã phân tích làm rõ khái niệm, chuẩn mực quốc tế, khu vực và quốc gia về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người (trong đó có cơ chế bảo 9 vệ và bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa bao gồm cả QGD; những vấn đề đặt ra với việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ và bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ở Việt Nam của Võ Khánh Vinh và các tác giả [106]; nghiên cứu phân tích quá trình hiến định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (trong đó có QGD), đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 trong sách "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam" của các tác giả Phạm Văn Ba, Nguyễn Thị Báo và Vũ Công Giao là đồng chủ biên. [4]; nghiên cứu về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh về GD, tầm quan trọng của quá trình vận dụng những tư tưởng của Người, làm rõ điều kiện chính trị về bảo đảm QGD ở Việt Nam trong Sách chuyên khảo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay của tác giả Hoàng Anh [2]. - Trong Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, của Đại học Quốc gia Hà Nội, đã nêu rõ các chuẩn mực quốc tế về QGD, trách nhiệm của quốc gia thành viên công ước về ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm QGD trong khả năng cao nhất của quốc gia (vì QGD thuộc nhóm quyền tương đối nghĩa là các quốc gia có thể thực hiện dần dần phụ hợp với điều kiện của quốc gia) [36, tr. 216-227]. - Trong Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nêu rõ những vấn đề lý luận về QCN, quyền công dân trong đó có QGD, đây là cơ sở lý luận quan trọng có thể kế thừa trong nội dung của luận án [51, tr. 19-21]. - Bài viết “Vai trò của văn hóa - Giáo dục trong việc tạo lập một tâm quyển cho sự phát triển bền vững của đất nước trên cơ sở kinh tế tri thức” của tác giả Phạm Xuân Nam [71]; Quyền được giáo dục theo quy định của Luật quốc tế và cơ chế bảo đảm thực hiện của tác giả Lê Thị Anh Đào [33]; Giáo dục và quyền được giáo dục trong cách mạng công nghiệp lần thứ bốn của nhóm tác giả Nguyễn Thuỳ Dương -Vũ Công Giao đã phân tích làm rõ: Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư với giáo dục, quyền được giáo dục và quyền được giáo dục ở Việt Nam [38]; Quyền con người - thước đo quan trọng của tiến bộ xã hội, Luận án tiến sĩ Triết học của Đoàn Trường Thụ [82]; Jurisprudence of human rights and the mechanism for protection: A comparative study between Vietnam and the United Kingdom, (Luật học về QCN và cơ chế bảo đảm: Kinh nghiệm Việt Nam và Vương quốc Anh), Luận án tiến sĩ Luật học của Hoàng Văn Nghĩa, nghiên cứu so sánh cơ 10 chế bảo đảm QCN tại Việt Nam và Vương quốc Anh rút ra những giá trị tham khảo cho việc đề xuất xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm QCN trong đó có QGD ở Việt Nam [65]; Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lữ Văn Tuyên [85]. Ngoài ra, những vấn đề lý luận về QCN, QGD còn được đề cập tới trong các bài viết tại các hội thảo trong nước và quốc tế được tổ chức tại Việt Nam như: Hội thảo “Kết nối nghiên cứu về quyền con người” do Bộ Ngoại giao tổ chức tháng 4/2008; Hội thảo “Tổng kết thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (2013-2019)” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tháng 4/2019; cùng nhiều hội thảo khoa học do Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, các bộ, ban ngành Trung ương tổ chức có liên quan đến chủ đề QCN, QGD. 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Năm 1945, Liên Hợp quốc thành lập tổ chức UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization). UNESCO là tổ chức dầu tiên về GD được công nhận ở cấp độ quốc tế và hoạt động nhằm liên kết các nước trên thế giới trong thúc đẩy và bảo vệ QGD, trong đó có hoạt động liên kết nghiên cứu về QGD trên thế giới và ở các quốc gia. Năm 1960 UNESCO đã thông qua Công ước chống phân biệt đối xử trong giáo dục, Công ước ghi nhận các chuẩn mực về QGD, nhấn mạnh các nghĩa vụ của các quốc gia phải bảo đảm giáo dục miễn phí và bắt buộc, cấm mọi hình thức phân biệt đối xử và thúc đẩy bình đẳng về cơ hội giáo dục [90]. Chủ đề QCN, QGD luôn nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Các công trình khoa học với những góc tiếp cận và cấp độ nghiên cứu khác nhau đều có những đóng góp riêng đối với thúc đẩy QCN, QGD, cụ thể: - Human Rights Law (Luật về quyền con người) của Alston, Philip đã phân tích chỉ ra nguồn gốc lý thuyết triết học của con người với tư cách là phương thức để bảo đảm sự tôn trọng QCN trên thực tế, đưa ra các quan điểm khác nhau về việc áp dụng QCN trên thực tế của Alston, Philip [110]. Bên cạnh đó, có một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến QGD như: Ngôn ngữ, dân tộc thiểu số và nhân quyền (Language, Minorities and Human Rights) của tác giả Fernand de Varennes xuất bản năm 1996; Trẻ em, giáo dục và Sức khỏe (Children, Education and Health) của Neville Harris và Paul Meredith xuất bản năm 2005; … 11 - Human rights obligations in education worldwide (Nghĩa vụ nhân quyền trong giáo dục trên toàn thế giới) của Katarina Tomasevski đã đánh giá khái quát lịch sử của QGD, ý nghĩa của QGD; phân tích, đánh giá chính sách và những thể chế phát triển kinh tế chi phối QGD trên thế giới, chi phí đào tạo, chính sách của ngân hàng thế giới, chiến lược GD toàn cầu, GD đại học, bình đẳng giới trong GD và GD đặc biệt [132]. - Human rights obligations in education worldwide - free or fee. 2006 global report (Báo cáo toàn cầu 2006: Nghĩa vụ nhân quyền trong giáo dục trên toàn thế giới- miễn phí hay trả phí) của Katarina Tomasevski, nội dung cuốn sách là tập hợp những bản báo cáo trên toàn thế giới về vấn đề chi phí trong bảo đảm QGD thông qua quá trình phân tích về tình hình bảo đảm QGD của 170 quốc gia. Báo cáo khẳng định: Áp dụng giáo dục miễn phí và bắt buộc làm thước đo để đánh giá giá trị của QGD trong thế giới ngày nay với trọng tâm là các nước đang phát triển. QGD bị tác động bởi một loạt các vấn đề liên quan đến quá trình liên kết kinh tế quốc tế và các hiệp ước quốc tế. Vì vậy, Chính phủ các nước có nghĩa vụ đảm bảo GD miễn phí và bắt buộc, phổ biến, dễ tiếp cận cho tất cả trẻ em và mọi người, xây dựng kế hoạch và bảo đảm hỗ trợ nội bộ để tuân thủ nghĩa vụ này càng nhanh càng tốt [133] - Tìm hiểu quyền con người của Wolfgang Benedek (chủ biên) Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức dịch thuật, in ấn và phát hành. Cuốn sách phân tích, luận giải để trả lời cho câu hỏi: Tại sao cần có QGD? Định nghĩa và mô tả vấn đề - Nội dung của QGD và các nghĩa vụ của nhà nước phải bảo đảm: Tính sẵn có - Tính có thể tiếp cận được - Tính có thể chấp nhận được - Tính có thể thích nghi được; QGD của các nhóm người dễ bị tổn thương; giám sát việc thực hiện QGD; kinh nghiệm tốt của các nước về QGD; các xu hướng Thương mại hóa GD - Phát triển hướng tới GD cho mọi người… [143]. - OHCRH,UNESCO, Human Right Education in Primary and Secondary School Systems: A self-assessment Guide for Governments, New York and Geneva (Giáo dục QCN trong hệ thống trường trung học: một hướng dẫn dành cho các chính phủ), cung cấp hướng dẫn cho các quốc gia trong thực hiện GD quyền con người [125]. - The right to education Handbook (Sổ tay về quyền giáo dục của UNESCO năm 2018). Sổ tay cung cấp những hiểu biết cơ bản về QGD như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò QGD, trách nhiệm bảo đảm QGD, nguồn lực kinh tế cho GD… [139]. 12 Một số công trình là sản phẩm liên kết nghiên cứu giữa các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học quốc tế trong các Dự án được Nhà nước Việt Nam cho phép liên quan đến QCN trong đó có QGD, như: Nghiên cứu, so sánh QCN ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền thống, lý luận và thực tiễn), rút ra những điểm tương đồng và khác biệt minh chứng cho tính phổ biến và tính đặc thù của QCN trong đó có QGD [96]; Quyền con người: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Australia, nghiên cứu so sánh rút ra những điểm tương đồng và khác biệt của QCN ở Việt Nam và Australia [97]; Hiến pháp, pháp luật và quyền con người: Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, nghiên cứu, so sánh sự ghi nhận, tôn trọng QCN trong đó có QGD trong Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và Thụy Điển (dưới góc độ Luật học so sánh) chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt, cùng nguyên nhân để rút bài học kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện thể chế về QCN trong đó có QGD ở Việt Nam [95]; … 1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục và quyền giáo dục 1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước - Giáo dục Việt Nam và Phần Lan, của tác giả Nguyễn Khánh Trung, đề xuất những kinh nghiệm cải cách GD của Phần Lan có thể áp dụng tại Việt Nam [87]; - Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản của tác giả Nguyễn Quốc Vương, phân tích về vấn đề GD lịch sử tại Việt Nam và Nhật Bản cũng như những kinh nghiệm có thể áp dụng trong bối cảnh GD lịch sử không được chú trọng ở các trường học tại cả hai nước [108]; Bầy cừu xuất chuồng, tác giả William Deresiewicz - dịch giả Quế Chi, phê phán cách áp đặt con trẻ đến các trường chuyên lớp chọn, hành vi không chỉ tác động xấu đến tâm lý mà còn xâm hại đến QGD của trẻ em; khẳng định sự quan trọng của một nền GD tự do đích thực và trách nhiệm của hệ thống quản lý GD trước một thực trạng GD Mỹ đầy mâu thuẫn [142]. Bên cạnh đó, có các nghiên cứu khác phân tích thực trạng QGD tại Việt Nam: Phổ cập giáo dục - những bước đi khởi sắc của Hồng Nhung, đánh giá những thành tựu trong phổ cập GD tại Việt Nam và những tồn tại cần khắc phục nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện phổ cập GD trong tương lai [67]; Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - bắt đầu từ đâu? của Thu Phương đăng trên Tạp chí Nhân quyền Việt Nam số 12/2012, xác định cơ sở cho quá trình đổi mới căn bản, toàn 13 diện GD Việt Nam từ những thuận lợi và khó khăn của nền GD Việt Nam [75]; Cách mạng công nghiệp 4.0 và nguy cơ “thua trắng" của đại học truyền thống, của Đàm Quang Minh, Phạm Hiệp, cảnh báo các trường đại học nếu không muốn bị “thua trắng” ngay trên sân nhà thì cần phải tìm cách đổi mới chính mình [58]; Chính sách giáo dục dân tộc thiểu số của Trung Quốc hiện nay, của Trần Minh Đức giới thiệu bức tranh toàn cảnh của chính sách GD dân tộc thiểu số của Trung Quốc, một quốc gia có nhiều điểm tương đồng về chính trị, văn hóa với Việt Nam [40]; Hiệu quả chi giáo dục phổ thông ở Việt Nam: nghiên cứu từ các địa phương cấp tỉnh của nhóm tác giả Lê Quang Cảnh, Nguyễn Văn Thắng, Tôn Thu Hiền chỉ ra những bất cập về tài chính đầu tư cho GD [29]; Quản lý đào tạo thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học địa phương trong bối cảnh đổi mới giáo dục, Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục của Nguyễn Thị Ngọc Anh đã làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học địa phương đáp ứng yêu cầu đổi mới GD [1]; Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Võ Thành Long, trên cơ sở những lý luận về thực hiện pháp luật, pháp luật về GD và đào tạo, những đặc thù địa phương, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện việc thực hiện pháp luật về GD và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay [57]. Đáng chú ý là đã có nhiều nghiên cứu tiếp cận đa ngành, từ góc độ triết học, luật học, chính sách công về bảo đảm quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta là tạo điều kiện, cơ hội bình đẳng cho các nhóm dễ bị tổn thương tiếp cận QGD, tiêu biểu như: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số của nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học của Phạm Văn Dũng đã nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm công bằng xã hội trong GD tại địa bàn đặc biệt - các vùng dân tộc thiểu số, nơi QGD do ảnh hưởng của điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội dễ bị xâm phạm [39]; Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Trọng Tuấn, phân tích khái niệm “quyền tự chủ trong GD đại học” và thực trạng thực thi quyền tự chủ của các cơ sở GD đại học công lập [89]; Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Tố Như đã tiếp cận quyền học tập như 14 một quyền thiết yếu cần được bảo đảm cho đối tượng trẻ em ở Việt Nam hiện nay, đề xuất những giải pháp bảo đảm quyền học tập cho trẻ em Việt Nam [70]; Thực thi chính sách hỗ trợ trong giáo dục phổ thông đối với học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công của Dương Thị Quý, đã khái quát tình hình thực thi chính sách hỗ trợ trong GD phổ thông đối với học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn một huyện miền núi phía Bắc; đề xuất các giải pháp bảo đảm hiệu quả thực thi chính sách hỗ trợ GD - một công cụ quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện QGD ở Việt Nam [77]; Thực thi chính sách giáo dục và đào tạo cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công của Lê Nguyên Châu, đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực thi chính sách GDĐT cho nhóm yếu thế là đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang [28]; Bảo đảm quyền giáo dục cho trẻ em khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về quyền con người của Chung Phi Long, đã hệ thống một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp bảo đảm QGD cho trẻ em khuyết tật trên địa bàn một tỉnh (Bình Dương) [54]; Bảo đảm quyền học tập của trẻ em là con của người lao động tạm trú trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về quyền con người của Nguyễn Thị Hiền Mai đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm QGD của nhóm bị tổn thương kép là trẻ em - con của người lao động tạm trú, đây cũng là thách thức của bảo đảm QGD trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay [61]; Quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước đối với hệ thống giáo dục phổ thông ở thành phố Yên Bái”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế của Nguyễn Trường Giang tiếp cận từ góc độ quản lý kinh tế để làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp bảo đảm thường xuyên ngân sách nhà nước cho bảo đảm QGD ở bậc phổ thông tại một tỉnh miền núi; dưới góc độ QCN, Nhà nước có trách nhiệm phải quan tâm, ưu tiên đầu tư để tạo điều kiện kinh tế để bảo đảm QGD ở các tỉnh có điều kiện khó khăn [44]. Thực trạng GD và QGD cũng được đề cập đến trong những Hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế, tổ chức tại Việt Nam: Hội thảo tham vấn về Dự thảo Báo cáo quốc gia theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc do Vụ các tổ chức quốc tế - Bộ Ngoại giao tổ chức (6/8/2013); Hội thảo khoa học “Vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng và thực thi Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn trên thế giới và Việt Nam” do Viện Chính 15 sách công và pháp luật tổ chức (16/9/2013); Hội thảo quốc gia với chủ đề: “Chính sách về Giáo dục hòa nhập: Thực tiễn và sự thúc đẩy ở Việt Nam” do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Tổ chức CBM phối hợp tổ chức (15/3/2018) tại Hà Nội; Hội thảo “Vai trò của trường Đại học với việc học tập suốt đời ở người lớn”, do Bộ GD&ĐT và Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức (16/10/2018) tại Thái Nguyên. Tại Hội thảo, các chuyên gia GD đã chia sẻ những quan điểm về học tập suốt đời và vai trò của trường đại học với việc học tập suốt đời ở nước ta, kiến nghị các nhà quản lý GD phải chú ý đến xu thế phát triển của nền GD hiện đại trên thế giới để xác định những giải pháp xây dựng hệ thống đại học bảo đảm quyền học tập suốt đời của người lớn. 1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thực trạng QGD ở nước ngoài, trong đó đáng lưu ý là các công trình nghiên cứu của OECD, UNICEF về thực trạng bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công bằng trong tiếp cận QGD; thực trạng QGD cho các nhóm yếu thế ở các nước có nhiều thành tựu trong bảo đảm QGD; nghiên cứu của UNESCO về thực trạng thực hiện QGD theo tinh thần Công ước chống phân biệt đối xử trong giáo dục năm 1960, cụ thể: - Phòng chính sách xã hội (Social Policy Division) thuộc tổ chức OECD thực hiện Công trình nghiên cứu chuyên sâu về GD đặc biệt (Special Education Needs SEN) [123] cho nhóm chủ thể đặc biệt của QGD - trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu khảo sát mức độ đáp ứng chính sách của các quốc gia thuộc OECD trong giai đoạn 2007 - 2010 dưới 03 hình thức: trường học đặc biệt (special schools); lớp học đặc biệt trong trường thường (Special classes in mainstream schools) và những hỗ trợ đặc biệt (inclusive settings); xác định những vấn đề còn tồn tại trong quá trình áp dụng chính sách về GD đặc biệt ở các nước OECD; Công trình nghiên cứu “Nhật Bản - Câu chuyện về sự xuất sắc bền vững” (Japan: A Story of Sustained Excellence) do tổ chức OECD thực hiện năm 2010, phân tích luận giải những nguyên nhân tạo nên thành công của GD Nhật Bản [122]; Các chỉ số giáo dục ở Canada: Quan điểm quốc tế 2019 (Educational indicators in Canada: International perspectives) ” phân tích những ảnh hưởng của các vấn đề môi trường toàn cầu đến GD và thụ hưởng QGD của các chủ thể [124]; Education Uprooted (Giáo dục cho người di cư) của UNICEF, nghiên cứu phân tích những khía cạnh đặc biệt của QGD 16 đối với nhóm người di cư, đưa ra những giải pháp hỗ trợ họ tiếp cận và hưởng thụ QGD [141]; Báo cáo giáo dục Hàn Quốc năm 2019 của Bộ GD Hàn Quốc (Korean Education Report 2019, Korean Ministry of Education”) nêu rõ kinh nghiệm thúc đẩy GD đại học và GD suốt đời cho mọi người; liên kết và hợp tác quốc tế trong GD [119]; Báo cáo GD đặc biệt: Câu trả lời cho COVID-19: Lớp học trực tuyến tại Hàn Quốc (Responding to Covid-19: Online Classes in Korea, Korean Ministry of Education): Giới thiệu về kinh nghiệm xây dựng, hỗ trợ và duy trì các lớp học trực tuyến ở mọi cấp học trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, đây là một kinh nghiệm quý báu cho tất cả các quốc gia trong bảo đảm QGD giữa những tình huống bất ngờ nhất [120]; Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds (QS World University Rankings) năm 2019, là một nguồn tư liệu tham khảo tin cậy, thể hiện bức tranh toàn cảnh về GD đại học Châu Á [127]; “How Can We Prepare Our Kids For the Jobs Of the Future?”(Làm thế nào chúng ta có thể giúp chúng chuẩn bị hành trang cho các công việc của tương lai?), nghiên cứu chỉ ra những bất cập của hệ thống GD và cảnh báo hậu quả sẽ đến trong tương lai nếu chúng ta không bảo đảm QGD của con cái ngay từ bây giờ [111]; Indigenous peoples’ right to education (Quyền giáo dục của người bản địa) của UNESCO đã nêu các biện pháp hỗ trợ QGD cho người bản địa theo Công ước 1960 và Khuyến nghị chống phân biệt đối xử trong GD [138]; Enforcing the right to education of refugees: a policy perspective (Thực thi quyền giáo dục của người tị nạn: quan điểm chính sách) của UNESCO đã phân tích chỉ ra một số rào cản lớn đối với QGD mà người tị nạn phải đối mặt, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm QGD với nhóm chủ thể đặc biệt này [137]; UNESCO and the right to education (UNESCO và quyền giáo dục) khẳng định giáo dục là QCN cơ bản, quyền này là ưu tiên tuyệt đối và là cốt lõi của sứ mệnh toàn cầu nhằm đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng với GD chất lượng cho mọi người [135]; Ensuring the right to equitable and inclusive quality education (Đảm bảo quyền được hưởng công bằng và chất lượng trong giáo dục hòa nhập) là các kết quả của tham vấn thứ chín của các quốc gia thành viên về việc thực hiện Công ước của UNESCO và Tuyên bố chống phân biệt đối xử trong Giáo dục [140]. Có thể nói những nghiên cứu trên đây hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau, nhìn chung nội dung đều tập trung đánh giá: QGD cho các nhóm yếu thế, QGD trong và ngoài quốc doanh, sự phân biệt đối xử trong các 17 môi trường GD, những nội dung QGD như: ngôn ngữ, sức khỏe, QCN, văn hóa...; hậu quả của việc không bảo đảm tốt QGD cho trẻ em… 1.1.3. Tình hình nghiên cứu đề xuất các quan điểm và giải pháp thực hiện quyền giáo dục 1.1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Trong phần tình hình nghiên cứu về lý luận, thực trạng QGD nêu ở mục 1.1.1. và 1.2.1. của luận án đã nêu khái quát một số công trình từ nghiên cứu lý luận, thực tiễn có đề xuất các quan điểm, giải pháp thực hiện QGD cho các đối tượng, địa phương, lĩnh vực nghiên cứu đề cập. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu như: Chăm lo cho quyền được học tập suốt đời của nhân dân của tác giả Đức Tùng đã phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự kế thừa của Đảng ta về nêu cao trách nhiệm của Đảng, Nhà nước của cả hệ thống chính trị phải bảo đảm quyền được học tập suốt đời của nhân dân [83]; Định hướng xây dựng chương trình xóa mù chữ dựa trên Chương trình giáo dục phổ thông 2018 của Nguyễn Minh Tuấn đã đóng góp những giải pháp có tính định hướng nhằm xây dựng chương trình xóa mù chữ tại Việt Nam [88]. Các giải pháp tăng cường quyền giáo dục cũng được đề cập đến tại các Hội thảo khoa học gần đây như: Hội thảo Khoa học Quốc tế: “Xây dựng nền tảng học liệu mở cho GD đại học Việt Nam: Đề xuất chính sách, tạo lập cộng đồng và phát triển giải pháp công nghệ” do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp với văn phòng UNESCO tại Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ và Câu lạc bộ Phần mềm Tự do nguồn mở Việt Nam tổ chức ngày 29/12/2015, có nhiều tham luận đề xuất các quan điểm, giải pháp áp dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người tiếp cận và hưởng thụ QGD [41]; Hội thảo "Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở" (OER 2019) được tổ chức tại trường Đại học Thăng Long: Các tham luận đã đề xuất quan điểm, giải pháp tạo điều kiện cho việc khai thác và phổ cập tài nguyên GD mở một cách rộng rãi và tránh việc xây dựng trùng lặp [43]. 1.1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến QGD, đã được các học giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu, dịch sang tiếng Việt để có thêm nguồn tài liệu tham khảo kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm thực hiện QGD trong bối cảnh hội nhập và phát triển ngày càng sâu rộng của Việt Nam. Cụ thể: Hiện đại hóa giáo dục của tác giả Vương Bân Thái (Giám đốc 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan