Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của ntd theo pháp luật bảo vệ quyền ...

Tài liệu Quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của ntd theo pháp luật bảo vệ quyền lợi ntd ở việt nam hiện nay

.PDF
77
639
85

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ CẨM HẰNG QUYỀN ĐƯỢC BẢO ĐẢM BÍ MẬT THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hồ Ngọc Hiển HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ Dương Thị Cẩm Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO ĐẢM BÍ MẬT THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG .................................................6 1.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ...........................6 1.2. Lý luận về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD..........15 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM VỀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO ĐẢM BÍ MẬT THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG .................................25 2.1. Nội dung các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD ............................................25 2.2. Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD tại Việt Nam hiện nay .......................43 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM VỀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO ĐẢM BÍ MẬT THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG............................................................................... 52 3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD ............................52 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD .........................................................................................59 KẾT LUẬN ............................................................................................69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................70 DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN NTD : Người tiêu dùng QPPL : Quy phạm pháp luật MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, các quan hệ tiêu dùng được thiết lập ngày càng nhiều với những phương thức ngày càng đa dạng và phong phú, điển hình là các phương thức giao dịch thương mại điện tử thì những thông tin cá nhân của NTD ngày càng trở nên quan trọng đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Những chủ thể kinh doanh có được càng nhiều thông tin về NTD thì sẽ càng có nhiều lợi thế cạnh tranh so với các chủ thể khác và từ đó, mở rộng cơ hội để quảng cáo hàng hóa, dịch vụ, tiến tới giao kết hợp đồng với NTD. Chính bởi những lợi ích nói trên, nhiều chủ thể đã ngang nhiên mua bán, sử dụng thậm chí chiếm đoạt các thông tin cá nhân của NTD nhằm trục lợi một cách bất chính. Hành vi này không chỉ gây tổn thất về tài sản mà còn có khả năng xâm hại đến đời sống tinh thần của NTD. Xuất phát từ thực tiễn đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD của Việt Nam đã chính thức thừa nhận quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD trong nhiều văn bản QPPL khác nhau. Tuy nhiên, các quy định về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD còn chưa mang tính hệ thống, các quy định về chế tài xử lý hành vi vi phạm, thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm, trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong việc bảo vệ bí mật thông tin cá nhân của NTD… chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh, thiết lập trật tự trong quan hệ tiêu dùng giai đoạn hiện tại. Mặc dù thực tiễn về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, nhưng cho đến nay, các công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về đề tài này vẫn còn khá ít. Với những lý do trên, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD theo pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, mặc dù chưa có nhiều công trình nghiên cứu có quy mô lớn về lý luận và thực tiễn thực thi quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD, nhưng ở phạm vi nhất định, một số tác giả đã đưa ra những nghiên cứu và đánh giá liên quan đến pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD trong các công trình nghiên cứu của mình như: luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hà Thị Thanh với đề tài “Pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng NTD ở Việt Nam”,thực hiện năm 2013; khóa luận tốt nghiệp của tác giả Lê Phương Hoa với đề tài “Pháp luật về bảo vệ thông tin NTD ở Việt Nam” thực hiện năm 2015; … Bên cạnh đó, cũng có một số bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành của một số tác giả đưa ra những phân tích về một số khía cạnh của quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD như bài viết “Bảo vệ thông tin cá nhân trong các giao dịch tiêu dùng” của tác giả Cao Xuân Quảng đăng trên Bản tin cạnh tranh và NTD số 47/2014; bài viết “Bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Đinh Thị Lan Anh đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 7/2015; bài viết “Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong giao dịch điện tử - Giải pháp quan trọng thúc đẩy phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam” của hai tác giả Lê Minh Toàn và Phạm Thị Minh Loan được đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học Công nghệ và Kinh tế bưu điện số tháng 1 năm 2012. Ngoài những đề tài nghiên cứu trực tiếp đến quyền được bảo đảm thông tin cá nhân của NTD thì có một số công trình cũng tiếp cận đến quyền này ở phạm vi rộng hơn, ví dụ như nghiên cứu về “Thực trạng bảo vệ dữ liệu cá nhân tại Việt Nam” do Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương phối hợp thực hiện… Có thể thấy các công trình trên đây, mặc dù có những công trình đã nghiên cứu trực tiếp về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD nhưng do những hạn chế về quy mô, điều kiện thực hiện hay do sự thay đổi 2 trong quy định của pháp luật ở từng giai đoạn khác nhau mà đến hiện nay, các công trình này đã không thể hiện được đầy đủ những kiến thức về mặt lý luận và thực tiễn thực thi quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD. Tuy đề tài của luận văn không mới nhưng vấn đề bảo vệ bí mật thông tin cá nhân cho NTD lại đang là một vấn đề thời sự cấp bách. Để hoàn thiện nội dung đề tài, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về quyền được bảm đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD, phân tích, đánh giá nội dung cũng như thực trạng quy định và thực thi các QPPL, tác giả mong muốn đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật bảo vệ quyền bí mật thông tin cá nhân của NTD. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Thứ nhất, phân tích một cách chuyên sâu và có hệ thống về cơ sở lý luận của quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD. Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam cũng như hiệu quả thực thi các quy định về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD; liên hệ với pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD của một số quốc gia trên thế giới. Thứ ba, đưa ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD; thực tiễn các hành vi vi phạm quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD và hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD. 4.2. Phạm vi nghiên cứu * Về thời gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay. *Về không gian: Luận văn nghiên cứu các hành vi vi phạm quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD và thực tiễn thực thi quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD tại Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp cận từ góc độ lý luận và thực tiễn để từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể, bao gồm các phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, … Các phương pháp nói trên được sử dụng một cách linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách cập nhật và tổng quan, chuyên sâu các vấn đề về lý luận và thực tiễn thực thi quyền được bảo đảm thông tin cá nhân của NTD. Về mặt lý luận, luận văn phân tích một cách hệ thống về cơ sở cũng như lịch sử các quy định về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD trong các đạo luật cơ bản cũng như chuyên ngành. Trên cơ sở các phân tích chuyên sâu, luận văn chỉ ra những bất cập và hạn chế trong quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của NTD; những nội dung trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo chuyên ngành. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 03 chương: Chương 1: Lý luận chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng Chương 3: Giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng 5 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO ĐẢM BÍ MẬT THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG 1.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng * Khái niệm người tiêu dùng Trong bất kỳ nền kinh tế nào, NTD cũng luôn là một lực lượng đông đảo, là động lực phát triển của quá trình sản xuất, kinh doanh. Với nhu cầu và thị hiếu của mình, họ có tác động vô cùng to lớn đối với quá trình dẫn dắt, vận hành của thị trường. Trong tuyên bố được đưa ra trước Thượng viện Mỹ ngày 15/3/1962, cựu Tổng thống Mỹ John Kennedy đã từng nhấn mạnh: “NTD theo định nghĩa, bao gồm tất cả chúng ta. Họ là nhóm kinh tế lớn nhất gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi hầu hết các quyết định kinh tế nhà nước và tư nhân…” để chứng tỏ rằng NTD là lực lượng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Trong kinh tế học, thuật ngữ NTD được sử dụng để chỉ những chủ thể tiêu thụ của cải được tạo ra bởi nền kinh tế [16, tr.7]. Còn trong khoa học pháp lý, NTD là chủ thể của quan hệ pháp luật khi lĩnh vực pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ra đời. Liên quan đến việc xác định khái niệm NTD, hiện nay, trên thế giới hầu hết các quốc gia thường nhận diện NTD dựa trên việc đánh giá 03 tiêu chí đó là (i) NTD là cá nhân; (ii) đối tượng của giao dịch là hàng hóa, dịch vụ;(iii) việc tham gia vào quan hệ không nhằm mục đích kinh doanh. Thứ nhất, đối với việc đánh giá tiêu chí về bản chất chủ thể của NTD, hiện nay, theo thông lệ, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho rằng NTD chỉ bao gồm cá nhân chứ không bao gồm các tổ chức. 6 Theo quan niệm của Liên minh Châu Âu về khái niệm NTD tại Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/05/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan (Directive 1999/44/EC of the European Parliament and of the Council of 25 May 1999 on certain aspects of the sale of consumer goods and associated guarantees) thì “NTD là bất cứ tự nhiên nhân nào tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này… vì mục đích không liên quan đến hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”. Quan điểm này của Liên minh Châu Âu tương đối đồng nhất với quan điểm của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Đức, Nhật Bản, Trung Quốc… Theo Điều 13, Bộ luật dân sự của Đức năm 2002 định nghĩa: “NTD là bất cứ tự nhiên nhân nào tham gia giao dịch không thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc nghề nghiệp của người này”. Điều 2-1, Luật về Hợp đồng tiêu dùng của Nhật Bản năm 2000 định nghĩa: “NTD theo quy định của luật này là cá nhân nhưng không bao gồm trường hợp cá nhân tham gia quan hệ hợp đồng với mục đích kinh doanh.” Có thể thấy, các quốc gia nói trên đều có chung một cách tiếp cận đó là chỉ coi NTD bao gồm cá nhân. Quan điểm này xuất phát từ mục đích của việc bảo vệ NTD với tư cách là bên yếu thế trong quan hệ với bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ do sự mất cân xứng về trình độ hiểu biết, khả năng tiếp cận thông tin cũng như điều kiện kinh tế của một cá nhân so với một tổ chức hoạt động kinh doanh chuyên nghiệp. Thứ hai, đối tượng của giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ được phép lưu thông và đáp ứng được các nhu cầu của con người. Luật bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam hiện nay không quy định về hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Tuy vậy, có thể hiểu được rằng, đó là những gì được 7 phép lưu thông và được người ta mua về để sử dụng cho các mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cho cá nhân hay gia đình. Thứ ba, việc tham gia giao dịch của NTD không nhằm mục đích kinh doanh, thương mại. Xét trên tiêu chí này, NTD là người mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích phục vụ sinh hoạt cho cá nhân, hộ gia đình chứ không sử dụng hàng hóa, dịch vụ vào mục đích cung cấp lại để tìm kiếm lợi nhuận. Quan hệ tiêu dùng được xác lập dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán, cung ứng dịch vụ hoặc trên cơ sở sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Điều kiện này cũng được thể hiện rất tường minh, rõ ràng trong khái niệm NTD đã được trích dẫn ở trên của Liên minh Châu Âu, Đức hay Nhật Bản. Với cách tiếp cận tương tự, tại Điều 2, Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 1993 của Trung Quốc, tuy không trực tiếp đưa ra định nghĩa về NTD nhưng thông qua việc quy định: “Trường hợp NTD, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được bảo vệ theo quy định của Luật này và trường hợp Luật này không quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy định pháp luật khác có liên quan”, các nhà làm luật Trung Quốc cũng đã xác định NTD là các cá nhân mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu cầu sinh hoạt của mình chứ không phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt động nghề nghiệp. Tại Việt Nam, khái niệm NTD lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999. Theo đó, “NTD là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”. Cho đến năm 2010, khi Luật bảo vệ quyền lợi NTD được ban hành thay thế cho Pháp lệnh nói trên thì khái niệm này lại tiếp tục được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 3 của Luật này và nội dung không có sự thay đổi. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, NTD bao gồm các đối tượng 8 không chỉ là cá nhân tiêu dùng riêng lẻ mà còn là các tổ chức (như doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội…) tiến hành mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình hoặc tổ chức đó [14,tr.11]. Tuy vậy, nếu xuất phát từ mục đích ra đời của pháp luật bảo vệ NTD là để nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên yếu thế bằng cách trao cho NTD những ưu tiên đặc biệt thì cách tiếp cận này lại không hợp lý và bên cạnh đó cũng không phù hợp với thông lệ của quốc tế. Bởi nếu như thừa nhận các tổ chức cũng có thể trở thành NTD thì rất có thể những chủ thể này sẽ lợi dụng vị trí được ưu tiên để giành những lợi thế bất hợp lý đối với bên kia, trong khi đó, bản thân những chủ thể này không phải là bên bị hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin và khả năng tài chính so với bên kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. * Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa NTD và các thương nhân khi NTD mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân đó. Pháp luật bảo vệ NTD bao gồm hệ thống các nguyên tắc và các QPPL do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD. Quan hệ giữa NTD và nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ là quan hệ tư, chịu sự điều chỉnh của dân luật. NTD tham gia vào quan hệ mua bán, cung ứng với tư cách là một bên chủ thể và chịu sự ràng buộc bởi các quy định về giao dịch dân sự. Tuy nhiên, như đã phân tích, trong giao dịch nói trên, NTD thường ở vị trí yếu thế hơn thương nhân bởi những hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin, về trình độ hiểu biết và điều kiện kinh tế. Do đó, bên cạnh việc được bảo vệ bằng những quy định của dân luật truyền thống, NTD cần phải được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình một cách triệt để hơn bằng những quy phạm của luật công cùng với sự can thiệp của nhà nước. 9 1.1.2. Đặc điểm của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Thứ nhất, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là một lĩnh vực luật công được dùng để điều chỉnh các quan hệ tư giữa thương nhân và NTD, tác động bằng cách trao thêm quyền cho bên yếu thế là NTD. Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Như Phát đã trình bày tại Hội thảo Pháp ngữ khu vực “Bảo vệ quyền lợi NTD từ hai góc nhìn Á Âu” đã được Nhà pháp luật Việt - Pháp phối hợp với Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương Việt Nam) phối hợp tổ chức năm 2010 thì “Mọi hệ thống pháp luật nhân đạo đều phải ưu tiên bảo vệ NTD, tựa như một thứ bổ sung về khả năng tự do và bình đẳng của NTD trong quan hệ với nhà cung cấp. Theo đó NTD và người cung cấp dịch vụ hàng hóa không thể điều chỉnh như nhau trong quan hệ pháp luật được. Cho nên phải coi pháp luật bảo vệ NTD là pháp luật đứng ngoài quan hệ dân sự”. Quan hệ tiêu dùng về bản chất là một quan hệ dân sự được thực hiện trên cơ sở hợp đồng, theo đó, NTD mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ của người cung cấp mà không vì mục đích kinh doanh. Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng phương pháp điều chỉnh của ngành luật hành chính để tác động vào quan hệ tiêu dùng, thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi cho những NTD - chủ thể được coi là bên bất lợi hơn so với bên sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Thứ hai, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD can thiệp khá sâu vào quá trình giao dịch của các bên bằng cách quy định cụ thể trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với NTD; trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho NTD; quy định về những điều khoản của hợp đồng giao kết với NTD, điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực nếu gây bất lợi, cản trở việc thực hiện quyền lợi của NTD. 10 Bên cạnh đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng xác định trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa đối với khuyết tật của sản phẩm một cách nghiêm ngặt và mở rộng về chủ thể chịu trách nhiệm. Người phải chịu trách nhiệm bồi thường về những khuyết tật của sản phẩm tiêu dùng có thể không phải là người gây ra khuyết tật nhưng họ có tham gia vào chuỗi hoạt động phân phối sản phẩm đến với NTD. Thứ ba, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD thiết lập những ngoại lệ so với những nguyên tắc tố tụng dân sự truyền thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NTD khi tham gia vào quá trình tố tụng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền lợi của mình. Cụ thể đó là những quy định về các trường hợp vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi NTD được giải quyết theo thủ tục rút gọn; NTD được miễn tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí; quy định giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh cho NTD… Thứ tư, nguồn của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD rất phong phú. Pháp luật về bảo vệ NTD không chỉ bao gồm một đạo luật đơn nhất về bảo vệ NTD mà là một tập hợp bao gồm rất nhiều các văn bản QPPL khác có liên quan. Các QPPL về bảo vệ quyền lợi NTD được quy định ở nhiều văn bản quy phạm thuộc nhiều ngành luật khác nhau. Trong đó bao gồm Hiến pháp; Bộ luật Hình sự; Bộ luật dân sự; Bộ luật tố tụng dân sự; Luật Cạnh tranh, Luật Giao dịch điện tử, Luật An toàn thông tin mạng và những văn bản QPPL liên quan đến xác định tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa, dịch vụ; vệ sinh an toàn thực phẩm…; và Luật bảo vệ quyền lợi NTD - đạo luật quy định trực tiếp những nội dung liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi NTD. Ngoài ra, những cam kết, những văn bản pháp lý quốc tế cũng là nguồn quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam trước bối cảnh hội nhập sâu rộng nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong đó có thể kể đến văn bản pháp lý quốc tế rất quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi NTD là Hướng dẫn của Liên hợp 11 quốc về quyền của NTD, đây là văn bản mang tính chất khuyến nghị đối với các quốc gia thành viên trong việc xây dựng, ban hành các chính sách, quy định về bảo vệ quyền lợi NTD tại quốc gia mình. Thứ năm, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD có nội dung cơ bản bao gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ của NTD; trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà kinh doanh đối với NTD; kiểm soát các điều khoản không công bằng trong hợp đồng; các hành vi bị nghiêm cấm và phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng liên quan đến quyền lợi của NTD; vai trò của nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. 1.1.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Thứ nhất, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho NTD được sống trong xã hội lành mạnh, an toàn. Với việc ban hành các quy phạm điều chỉnh hoạt động của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh; quy định về những quy chuẩn liên quan đến chất lượng, mức độ an toàn của hàng hóa, dịch vụ, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là một trong những công cụ thực sự hữu hiệu để đảm bảo cho các thành viên trong cộng đồng được sống trong xã hội lành mạnh, được hưởng thụ những giá trị tốt đẹp. Việc thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trên thực tiễn sẽ góp phần bảo đảm các quyền con người của NTD, trong đó có quyền được an toàn, bảo đảm về sức khỏe, quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng và quyền được sống trong môi trường lành mạnh, bền vững. Bên cạnh đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD đã thiết lập vị thế, vai trò của các tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi cho NTD, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia cùng với Nhà nước trong công tác bảo vệ NTD. 12 Thứ hai, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ra đời góp phần xác lập mối quan hệ ổn định, bảo đảm sự cân bằng vị thế trong giao dịch dân sự giữa NTD với các tổ chức, cá nhân kinh doanh, góp phần ổn định trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Quan hệ tiêu dùng trước hết là một quan hệ dân sự, bởi vậy pháp luật luôn tôn trọng ý chí, sự tự do thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, trong quan hệ này, NTD là bên thiếu thông tin, đặc biệt là các thông tin và kiến thức liên quan đến đặc tính kỹ thuật của sản phẩm. Bên cạnh đó, khả năng về tài chính cũng như khả năng tham gia vào quan hệ tố tụng của họ cũng có phần hạn chế hơn so với nhà sản xuất, kinh doanh. Các quy định về đàm phán, giao kết hợp đồng, nghĩa vụ bảo hành, trách nhiệm sản phẩm...trong luật dân sự, luật thương mại để điều chỉnh quan hệ mang tính bình đẳng giữa các bên đã không còn đủ khả năng để bảo vệ NTD trong điều kiện vị thế bất lợi hơn so với nhà kinh doanh. Chính vì thế, nếu để các bên tự do hoàn toàn trong việc giao kết hợp đồng, NTD rất dễ bị xâm hại về quyền lợi. Do vậy, để đảm bảo sự cân bằng của các bên trong quan hệ tiêu dùng, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD một mặt tôn trọng sự bình đẳng, tự do ý chí, tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng, một mặt lại xây dựng những quy định mang tính đặc thù, ấn định trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh; đồng thời trao cho NTD những lợi thế nhất định để đảm bảo sự cân bằng của NTD đối với các chủ thể kinh doanh. Bên cạnh đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ hướng tới việc bảo vệ quyền cho NTD mà còn bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh, bằng cách quy định những nghĩa vụ của NTD, quy định trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho NTD, quy định về những trường hợp chủ thể kinh doanh được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra… Các quy định pháp luật cũng hướng tới sử dụng chính sức mạnh của 13 thị trường để loại bỏ những chủ thể kinh doanh có hành vi xâm phạm quyền lợi NTD. Từ đó, ngoài việc bảo vệ được lợi ích của NTD, pháp luật còn bảo đảm được những quyền lợi chính đáng cho các chủ thể kinh doanh lành mạnh, chân chính. Có thể thấy, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD không thể hiện xu hướng chỉ coi trọng việc bảo vệ NTD mà hạn chế đi việc bảo vệ những quyền lợi chính đáng của các chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo sự công bằng đối với các bên trong quan hệ tiêu dùng. Thứ ba, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Nghị quyết TƯ 5 của Ban chấp hành Trung ương khoá XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định mục tiêu đến năm 2030, đất nước ta hoàn thiện thể chế, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, trong đó cần chú trọng việc“đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi NTD, phát huy đúng đắn, đầy đủ vai trò của NTD, các hội bảo vệ quyền lợi NTD”. Với mục tiêu trên, các chính sách pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD chính là những công cụ quan trọng để hoàn thiện, tạo dựng một thị trường lành mạnh, tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để NTD cũng như các chủ thể kinh doanh chính đáng được tham gia vào thị trường để thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích của mình. Từ việc bảo vệ những quyền lợi hợp pháp cho NTD, pháp luật sẽ tạo động lực để kích cầu tiêu dùng trong xã hội, để NTD mạnh dạn tham gia vào các quan hệ tiêu dùng, được lựa chọn nhà cung ứng hàng hóa, dịch vụ phù hợp. Đây cũng chính là động lực kích thích các chủ thể kinh doanh cạnh tranh một cách lành mạnh để thu hút khách hàng, thúc đẩy nền sản xuất phát triển ngày càng mạnh mẽ. 14 1.2. Lý luận pháp luật về quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng 1.2.1. Khái niệm thông tin cá nhân và quyền được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người tiêu dùng * Khái niệm thông tin cá nhân Tại Bộ “Những nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử” được các Bộ trưởng của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) thông qua vào tháng 11 năm 2004 đã đưa ra định nghĩa: “Thông tin cá nhân là bất kỳ thông tin nào để xác định được hay có thể xác định được danh tính của một cá nhân cụ thể” [2, tr.14]. Theo cách tiếp cận của Bộ nguyên tắc này thì khái niệm “cá nhân” trong “Những nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân” được hiểu là thể nhân, không phải là pháp nhân. Bộ nguyên tắc này được áp dụng đối với thông tin cá nhân, là thông tin mà khi kết hợp lại với nhau có thể dùng để xác định danh tính của một con người cụ thể. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, khái niệm “thông tin cá nhân” đã được quy định trong nhiều văn bản QPPL khác nhau. Trong đó, tại Thông tư số 25/2010/TT - BTTTT của Bộ Thông tin và truyền thông ngày 15/11/2010 quy định về việc thu thập, sử dụng, chia sẻ, đảm bảo an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, Khoản 3 Điều 3 quy định: “Thông tin cá nhân là thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao gồm ít nhất một trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số hộ chiếu”. Ngoài ra, trong quy định tại Khoản 15, Điều 3 Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 của Việt Nam cũng có quy định: “Thông tin cá nhân là thông tin gắn với việc xác định danh tính một người cụ thể”. Như vậy, khái niệm tại Khoản 15, Điều 3 Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 của pháp luật 15 Việt Nam khá tương đồng với khái niệm đã được nêu ra tại Bộ những nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử của APEC và có nội hàm rộng bởi không giới hạn hay liệt kê những loại thông tin cụ thể nào được coi là thông tin cá nhân mà thay vào đó chỉ quy định về đặc tính nhận diện danh tính cá nhân của thông tin. Trong khi đó, khái niệm được nêu tại Thông tư số 25/2010/TT - BTTTT của Bộ Thông tin và truyền thông ngày 15/11/2010 lại có nội hàm hẹp hơn khi chỉ liệt kê thông tin cá nhân chính là những thông tin đủ để xác định một cách chính xác danh tính của một người và chỉ cần bao gồm ít nhất là một thông tin trong số các loại thông tin về họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số hộ chiếu. Trong Đạo luật Bảo vệ Thông tin Cá nhân (Luật số 57 năm 2003) được ban hành vào ngày 23 tháng 5 năm 2003 của Nhật Bản đã đưa ra định nghĩa thông tin cá nhân là thông tin có thể dùng để xác định cá nhân cụ thể theo tên, ngày sinh, hoặc các mô tả khác có trong thông tin đó (Điều 2, Khoản 1). Định nghĩa này rất rộng và bao gồm cả những thông tin như thông tin trong sổ điện thoại, tạp chí công cộng, và danh sách nhân sự… Theo quy định của pháp luật quốc gia này, những thông tin về cá nhân sẽ được bảo vệ nếu nó liên quan đến đời sống của cá nhân và có thể dùng để xác định, phân biệt một con người cụ thể. Còn theo quy định của Đạo luật về Bảo vệ Thông tin Cá nhân và Tài liệu điện tử Canada năm 2010, thì thông tin cá nhân là tất cả những thông tin về một cá nhân xác định nhưng không bao gồm tên, chức vụ, địa chỉ kinh doanh hoặc số điện thoại của nhân viên của một tổ chức. Có thể thấy cách quy định khái niệm thông tin cá nhân hiện nay của các quốc gia nói trên cơ bản là giống nhau vì đều nhận diện thông tin cá nhân là những thông tin mà từ đó có thể xác định được danh tính của một con người cụ thể. Còn khái niệm thông tin cá nhân của NTD được hiểu là những thông 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan