Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ quyền của phụ nữ theo pháp luật việt nam...

Tài liệu quyền của phụ nữ theo pháp luật việt nam

.PDF
115
186
110

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MAI HIÊN QUYỀN CỦA PHỤ NỮ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2008 1 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 6 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM 1.1. Quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam 11 11 1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ 11 1.1.2. Pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam 13 1.1.3. Vai trò của pháp luật trong việc ghi nhận quyền của phụ nữ 15 1.2. Các quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam 1.3. 16 Quá trình hình thành, phát triển quyền của phụ nữ và các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam và các tiêu chí 27 để đánh giá chúng 1.3.1. Quá trình hình thành, phát triển quyền của phụ nữ và các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam 1.3.2. Các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam 27 38 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC QUYỀN CỦA PHỤ NỮ 47 Ở VIỆT NAM 2.1. Trong lĩnh vực chính trị 48 2.2. Trong lĩnh vực kinh tế, lao động 58 2.3. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá thông tin và thể thao 2.4. Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoẻ gia đình Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM 2 71 81 90 TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam 3.2. Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 3.3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay 90 92 97 KẾT LUẬN 104 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU LOẠI TÊN TRANG Tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp các nhiệm 54 BẢNG 2.1 kỳ từ 1985 - 2009 2.2 Thu nhập thực tế hàng tháng của lao động nữ ở các 67 doanh nghiệp ngoài nhà nước 2.3 Số vụ và bị cáo bị đưa ra xét xử về tội hiếp dâm, 85 hiếp dâm trẻ em BIỂU ĐỒ 2.1 Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội trong các nhiệm kỳ từ 53 1976 - 2007 2.2 Tỷ lệ phụ nữ và nam giới trong các cấp uỷ Đảng 55 nhiệm kỳ 2001 – 2006 PHỤ LỤC 2.1 Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2004 – 2009 ở 17 tỉnh, thành phố trên toàn quốc 4 106 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Đất nước Việt Nam sau 20 năm đổi mới cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị – xã hội thì những thành tựu về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ cũng rất đáng được trân trọng. Một minh chứng cho sự thay đổi này là tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI chiếm tỷ lệ 27,31% đã đưa Việt Nam dẫn đầu các nước Châu á về tỷ lệ nữ trong Quốc hội. Kết quả trên đánh dấu sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ và mục tiêu vì sự bình đẳng giới ở Việt Nam. Những thành tựu đó là kết quả trực tiếp, tất yếu từ sự tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ, từ hệ thống pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới ngày càng được hoàn thiện, từ tinh thần vượt khó, phát huy nội lực phấn đấu vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Ghi nhận những đóng góp của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Nhà nước Việt Nam đánh giá cao những cống hiến này. Ở Việt Nam việc bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi gia đình và của từng công dân. Ngay từ Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam độc lập đã thể hiện tính dân chủ, không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo. Nguyên tắc bình đẳng đã được nhắc đến hai lần trong Điều 6, Điều 7 và đặc biệt là Điều 9 đã ghi nhận: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Cho đến nay, quyền của phụ nữ đã được pháp luật ghi nhận và chiếm một vị trí đáng kể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ở hầu hết các ngành luật của Việt Nam như: Luật Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao động, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự… đều đã ghi nhận và bảo vệ các quyền của phụ nữ. Đặc biệt vào ngày 29/7/1980 Việt Nam đã quyết định gia nhập Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (gọi là công ước CEDAW) và có hiệu lực chính thức ở Việt Nam vào ngày 09/03/1982. Bên cạnh những kết quả đạt được thì quyền của phụ nữ ở Việt Nam còn nhiều vấn đề cần quan tâm, giải quyết. Trên thực tế không thể phủ nhận rằng, 5 khoảng cách giới, sự phân biệt đối xử về giới hay nói cách khác là sự phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại trong đời sống xã hội. Những khoảng cách hay sự phân biệt đối xử đó có nguyên nhân từ tư tưởng định kiến giới, coi trọng nam giới hơn phụ nữ; từ nhận thức về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội chưa sâu sắc, toàn diện, còn cào bằng và chưa xuất phát trên quan điểm bình đẳng giới. Vì vậy, để tiếp tục sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ và đảm bảo tốt nhất quyền của phụ nữ trong việc tham gia vào công tác chính trị, quản lý nhà nước - xã hội, lao động việc làm… Đảng và Nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để giảm bớt, đi đến xoá bỏ sự bất bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Do đó, hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ và đảm bảo quyền đó được thực hiện trên thực tiễn được coi là xu hướng tất yếu, là việc làm cần thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Để góp phần nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý của quyền phụ nữ, tôi đã chọn đề tài: “Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề nghiên cứu pháp luật về quyền của phụ nữ đã được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến ở các góc độ khác nhau. Có rất nhiều chương trình, dự án cũng như các đề tài khoa học viết về phụ nữ hoặc bình đẳng giới. Đặc biệt trước khi xây dựng và ban hành Luật Bình đẳng giới, các tổ chức cá nhân của các cơ quan như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, các trường đào tạo đã có nhiều bài viết, hội thảo chuyên đề về quyền của phụ nữ và bình đẳng giới. Các bài viết, tham luận tại các hội thảo chuyên đề cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến quyền của phụ nữ ở từng lĩnh vực hoặc đưa ra những giải pháp về khía cạnh pháp luật để thực thi các quyền này của phụ nữ. Ở tầm vĩ mô, thời gian qua Việt Nam cũng đã có nhiều chương trình, dự án tài trợ cho hoạt động nghiên cứu và phân tích chính sách về quyền của phụ nữ. Chẳng hạn, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có dự án “Hỗ trợ xây dựng Luật bình đẳng giới và văn bản hướng dẫn thi hành” do Đại sứ quán Phần Lan tài trợ hay dự án “Tăng cường khả năng tư 6 vấn cấp Bộ” do Thuỵ Điển tài trợ cho Ban vì sự tiến bộ phụ nữ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… được đánh giá là các chương trình, đề tài lớn nghiên cứu mang tính khái quát, tổng hợp nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề quyền phụ nữ. Ngoài ra còn rất nhiều ấn phẩm, tác phẩm của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia viết về đề tài này như các bài viết: “Hoàn thiện pháp luật về lao động nữ ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Dương Thị Ngọc Lan; “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ - cụ thể công ước CEDAW khi dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội” của tác giả Nguyễn Kim Phượng; “Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng Bắc; “Bảo vệ quyền phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Mừng. Gần đây nhất phải kể đến đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Mai Thị Diệu Thuý và một số bài viết đăng trên Tạp chí Luật học như “Pháp luật Việt Nam với việc thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” số tháng 3 năm 2006. Trong các công trình của mình, mỗi tác giả đều có những phân tích, nhận định vấn đề quyền của phụ nữ ở những khía cạnh khác nhau nhưng chưa khái quát được dưới góc độ chung nhất các vấn đề về quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ. Do vậy, vấn đề quyền của phụ nữ ở Việt Nam vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật cũng như quá trình thực hiện có hiệu quả quyền của phụ nữ Việt Nam trên thực tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về quyền phụ nữ và pháp luật về quyền phụ nữ, đánh giá một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về các quyền của phụ nữ nhằm bảo đảm sự bình đẳng giới ở Việt Nam. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây: 7 - Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam. - Đánh giá các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ trên những tiêu chí nhất định và quá trình thực hiện chúng trên thực tế để làm sáng tỏ nội dung cũng như chỉ ra những hạn chế, những điểm bất hợp lý trong các quy định của pháp luật và việc thực hiện chúng trên thực tế. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ, pháp luật về quyền của phụ nữ và thực tiễn thực hiện các quyền đó trên thực tế ở Việt Nam từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: - Một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam; - Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về quyền phụ nữ trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể như: lĩnh vực chính trị, lĩnh vực kinh tế, lao động, lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá, thông tin và thể thao và lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoẻ gia đình. - Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện các quyền đó trên thực tế ở Việt Nam hiện nay; - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người nói chung, quyền phụ nữ nói riêng vì sự tiến bộ của phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới cao cả. 8 Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích để làm sáng tỏ những nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu; phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan giữa những quy định của pháp luật quốc tế với pháp luật Việt nam và đặc biệt là thông qua phương pháp này để có được những đánh giá khách quan giữa quy định của pháp luật với thực tiễn thực hiện các quy định ấy; phương pháp tổng hợp và thống kê được sử dụng để khái quát hoá nội dung nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Đồng thời phương pháp này được dùng để thu thập và cung cấp một số số liệu liên quan đến việc thực thi quyền của phụ nữ trên thực tiễn; phương pháp xã hội học được dùng để đánh giá, phân tích những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội với việc thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam... 6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn - Phân tích làm rõ hơn khái niệm về quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam. - Đánh giá một cách khái quát những thành tựu, cũng như những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về các quyền của phụ nữ ở Việt Nam. Phân tích những nguyên nhân, điều kiện làm cản trở việc thực hiện các quyền của phụ nữ ở nước ta. - Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện một số các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ ở Việt Nam Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về các quyền của phụ nữ ở Việt Nam 9 Chương 3. Những giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM 1.1. Quyền của phụ nữ và pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ Theo cách hiểu thông thường thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [72, tr.786]. Hiện nay trong khoa học luật khái niệm quyền của phụ nữ hiện chưa có một cách hiểu thống nhất và chính thống. Còn rất nhiều ý kiến xung quanh khái niệm này nhưng các nhà khoa học cũng như những nhà làm công tác thực tiễn đều thống nhất rằng quyền của phụ nữ không thể tách rời quyền con người. Khái niệm quyền con người từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu cũng như trong đời sống xã hội. Có nhiều trường phái nghiên cứu khi tiếp cận khái niệm quyền con người. Chẳng hạn, trường phái pháp luật tự nhiên thì cho rằng quyền con người là đặc quyền tự nhiên, khẳng định quyền con người là tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quyền con người do vương quyền và thần quyền ban phát, tặng cho. Trường phái thứ hai lại cho rằng, con người cũng như quyền con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Họ quan niệm: Quyền con người không phải là một khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tính tự nhiên, bẩm sinh mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế độ kinh tế, đặc biệt là chế độ chính trị – nhà nước [53, tr.15]. Khái niệm quyền con người vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu và tranh luận nhưng qua nghiên cứu ý kiến của các nhà khoa học, chúng tôi nhất trí với cách hiểu sau về quyền con người: “Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh do cá nhân con người nắm giữ trong mối quan hệ với nhà nước và với những cá nhân con người khác” [79, tr.16]. Làm sáng tỏ 10 thuộc tính của quyền con người sẽ giúp hiểu rõ bản chất của quyền của phụ nữ, vì quyền của phụ nữ là một bộ phận của quyền con người nhưng có những thuộc tính đặc biệt do liên quan đến phụ nữ. Thuộc tính cơ bản của quyền con người là bao gồm những giá trị gắn với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Giá trị đó phải được xã hội hoá bằng cách thể chế hoá thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người. Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là giá trị nảy sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể, với một chế độ chính trị, pháp luật cụ thể. Dựa trên những tiêu chí khác nhau có thể có nhiều cách phân loại nội dung quyền con người. Theo cách tiếp cận quyền con người của khoa học pháp lý thì quyền con người được chia thành những nhóm chính sau: + Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí… + Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: Quyền tự do đi lại cư trú trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được an toàn về thư tín, điện thoại, quyền khiếu nại, tố cáo… + Các quyền trong lĩnh vực kinh tế – xã hội bao gồm: Quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền được bảo hộ hôn nhân và gia đình, quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế, được bảo vệ sức khoẻ, quyền được giáo dục đào tạo, quyền nghiên cứu, phát minh… và một số quyền mang tính chất ưu tiên như quyền trẻ em, quyền người già, người cô đơn không nơi nương tựa. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm quyền con người, chúng ta nhận thấy mối quan hệ tất yếu giữa việc nghiên cứu quyền con người với quyền của phụ nữ. Hiện nay cũng chưa có một định nghĩa nào nói đến quyền của phụ nữ mặc dù ở Việt Nam Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội khoá XI thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Luật Bình đẳng giới không chỉ ra thế nào là quyền của phụ nữ mà đưa ra những nguyên tắc và biện pháp để thực hiện bình 11 đẳng giới ở Việt Nam. Mục đích của cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới cũng là cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ trên thực tế. Xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người với quyền của phụ nữ và đặc điểm riêng của quyền phụ nữ ta có thể đưa ra khái niệm quyền của phụ nữ như sau: Quyền của phụ nữ là quyền con người của phụ nữ. Quyền của phụ nữ là những đặc quyền được pháp luật công nhận, điều chỉnh, hay nói cách khác, phụ nữ có quyền quyết định những gì thuộc về họ và pháp luật bảo vệ những quyền đó. Khi tiếp cận khái niệm quyền của phụ nữ, quyền con người được hiểu theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những quyền cụ thể của một đối tượng cụ thể. Quyền của phụ nữ được quy định trong pháp luật luôn có sự xem xét những yếu tố về tâm sinh lý của giới nữ, quan điểm về thuần phong mỹ tục, về văn hoá của một dân tộc để xây dựng nên một khung quy tắc về hành vi ứng xử quan hệ giao tiếp giữa người nam và nữ, sao cho vừa thể hiện lối sống bình đẳng văn minh đồng thời vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, tránh xảy ra sự xung đột và biến đổi xã hội gay gắt. Do đó quyền của phụ nữ không chỉ được hiểu đơn thuần như quyền con người nhưng cũng không thể tách rời quyền con người. Xuất phát từ thực tế thực hiện các quyền của phụ nữ hiện nay mà cuộc đấu tranh cho quyền con người nói chung còn nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có sự phát huy sức mạnh và sự phối hợp trách nhiệm của cả cộng đồng. Đã có nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người nhưng quyền của phụ nữ vẫn là mục tiêu phấn đấu của không chỉ mỗi quốc gia mà còn của cả nhân loại. Mỗi quốc gia sẽ xây dựng những quy phạm pháp luật riêng để bảo vệ quyền cho phụ nữ. Có như vậy người phụ nữ mới thực sự được bình đẳng, được bảo vệ và có điều kiện phát triển. 1.1.2. Pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam “Quyền con người không phải là một nhân tố đầu tiên có trước Nhà nước mà phải bằng pháp luật Nhà nước ghi nhận và thiết định mới trở thành hiện thực” [79, tr.18]. Như vậy, quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng một mặt mang tính chất tự nhiên (quyền tự nhiên), người ta sinh ra đã có các quyền đó, nhà nước không thể không ghi nhận nhưng mặt khác khi chưa 12 được nhà nước, pháp luật ghi nhận thì “các quyền tự nhiên” chưa có điều kiện trở thành hiện thực. Hay nói cách khác, chỉ có pháp luật mới là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền con người, quyền của phụ nữ. Pháp luật phải ghi nhận các quyền của phụ nữ và đảm bảo thực hiện các quyền đó trên thực tế. Ngay tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc được thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 cũng đã xác định nguyên tắc có tính chất khái quát về nhân quyền như sau: Tất cả mọi người đều có những quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng. Đó là nền tảng của tự do và chân lý trên thế giới. Và các quyền con người phải được bảo vệ bằng chế độ pháp luật [52, tr.105]. Có nhiều phương thức để bảo vệ quyền của phụ nữ nhưng pháp luật là phương thức quan trọng nhất và không thể thiếu. Để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng trước hết được hiểu là sự ghi nhận các quyền đó bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Hơn nữa, xuất phát từ đặc điểm riêng của phụ nữ nên quyền của phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận trên cơ sở những yếu tố đặc thù về giới và nguyên tắc bình đẳng giới. Nhận thức được tầm quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước Việt Nam đã quan tâm đến việc ghi nhận quyền của phụ nữ. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền con người, quyền của phụ nữ và coi đó là một trong những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Ngay trong tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc [80]. Thấm nhuần tư tưởng nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 1992 hiện hành đều thể hiện tư tưởng xuyên suốt là đề cao các quyền con người, quyền của phụ nữ. Ngay sau khi đất nước dành được độc lập, trong Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định một cách rõ ràng: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn 13 giáo” [18, tr. 8]. Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, các bộ luật, luật và những văn bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam đã và đang xác định nhiệm vụ trọng tâm là ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ. Tuỳ vào những lĩnh vực bảo vệ cụ thể mà quyền của phụ nữ được ghi nhận ở những văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn Bộ luật lao động thì bảo vệ quyền phụ nữ trong lĩnh vực lao động và việc làm, Luật Hôn nhân và gia đình lại ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc nam, nữ bình đẳng trong hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục lại tạo điều kiện để phụ nữ được học tập và phát huy sự sáng tạo… hoặc cùng một vấn đề nhưng ở những khía cạnh khác nhau, quyền của phụ nữ được pháp luật ghi nhận trong các văn bản pháp lý khác nhau. Gần đây nhất Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Bình đẳng giới và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007 là cơ sở pháp lý quan trọng của cuộc đấu tranh cho quyền phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới. Luật Bình đẳng giới đã thể chế hoá quan điểm của Đảng nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và phát huy nguồn lực con người, tạo cơ hội và điều kiện cho cả nam và nữ cùng tham gia đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và hưởng lợi từ các thành quả của sự phát triển. Phấn đấu bình đẳng giới không chỉ đảm bảo mục tiêu phát triển hài hoà mà là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền của phụ nữ. Đạo luật này đã đưa ra một số quy định mới mà các quy phạm pháp luật hiện hành chưa điều chỉnh, đòi hỏi các văn bản pháp luật hiện hành phải bổ sung, hoàn thiện để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và đảm bảo cho Luật Bình đẳng giới được thi hành trong thực tiễn. 1.1.3. Vai trò của pháp luật trong việc ghi nhận quyền của phụ nữ Việc ghi nhận quyền của phụ nữ là vấn đề rất quan trọng trong thực tiễn cũng như trong lý luận. Đặc biệt việc ghi nhận quyền này bằng các quy định pháp luật thì càng có vai trò to lớn. Việc ghi nhận quyền của phụ nữ trong các văn bản pháp luật như là minh chứng về sự nỗ lực và bước tiến lớn của Việt nam trong quá trình đấu tranh cho bình đẳng giới và đảm bảo quyền cho phụ nữ. Pháp luật ghi nhận quyền của phụ nữ và pháp luật cũng là phương tiện đảm bảo cho những quyền đó được thực thi trong thực tiễn. Đảm bảo bằng pháp 14 luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng được thực hiện. Điều này được lý giải từ chính những đặc trưng của pháp luật. Pháp luật là những quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc, do nhà nước ban hành và được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh của nhà nước. Với đặc trưng này việc ghi nhận các quyền của phụ nữ sẽ có cơ sở để đảm bảo thực hiện. Pháp luật ghi nhận các quyền của phụ nữ và pháp luật cũng ghi nhận các chế tài để ngăn chặn các hành vi vi phạm của bất kỳ chủ thể nào tới các quyền đó. Việc ghi nhận quyền của phụ nữ là cơ sở quan trọng cho quá trình đấu tranh vì sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam. Việc Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Bình đẳng giới được đánh giá là văn bản pháp lý ghi nhận đầy đủ và toàn diện nhất các quyền của phụ nữ ở Việt Nam từ trước tới nay. Luật Bình đẳng giới là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ và đấu tranh cho mục tiêu phát triển và bình đẳng giới ở nước ta. Đồng thời việc ghi nhận những quyền này cũng là một phương thức giáo dục, tuyên truyền về quyền của phụ nữ để mọi người tôn trọng và thực hiện đầy đủ, chính xác hơn. Thực tiễn trong thời gian qua đã chứng minh bằng việc ghi nhận các quyền của phụ nữ trong pháp luật đã là cơ sở thúc đẩy cho nhiệm vụ giải phóng phụ nữ và các chỉ tiêu phát triển phụ nữ được nâng cao. Chẳng hạn, tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế đạt mức cao của thế giới là 83%. Chỉ số bình đẳng giới (GDI) liên tục tăng cao và nhanh hơn chỉ số kinh tế. Trong nhiều báo cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ và Uỷ ban vì sự tiến bộ phụ nữ thì chỉ tiêu phát triển phụ nữ không ngừng được nâng cao. Từ những phân tích trên cho thấy pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu để ghi nhận, củng cố, bảo vệ và hiện thực hóa quyền phụ nữ. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước Việt Nam cần không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và toàn diện để ghi nhận, củng cố, bảo vệ và hiện thực hóa các quyền của phụ nữ ở Việt Nam. 1.2. Các quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam 15 Ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà nó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Mục tiêu xây dựng một xã hội hoà bình, ổn định, dân chủ và bình đẳng là mục đích cao cả mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Tuy nhiên thực tế xã hội từ trước đến nay luôn tồn tại sự bất bình đẳng như bất bình đẳng về chủng tộc, giai cấp và giới. Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại, là lực lượng lao động quan trọng của xã hội nhưng thực tế chưa được đối xử một cách xứng đáng. Quyền của phụ nữ bị vi phạm do sự phân biệt đối xử với phụ nữ diễn ra ở khắp nơi trên thế giới cho nên vấn đề cốt lõi trong việc bảo đảm các quyền của phụ nữ là đảm bảo quyền bình đẳng nam, nữ. Để đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng nam, nữ, từ đầu thế kỷ XX cho đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Ngay trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc tại Điều 1 đã ghi nhận: “…Khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ và tôn giáo” [12]. Và điều này tiếp tục được khẳng định trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948: Mọi người đều được hưởng các quyền tự do nêu trong bản tuyên ngôn này, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến hay quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, giống nòi hay các tình trạng khác. Những khẳng định này tiếp tục được cụ thể hoá tại một số văn kiện quốc tế khác. Chẳng hạn, Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác được Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1949. Công ước có nội dung nhằm hạn chế và xoá bỏ một trong những hình thức xâm hại phụ nữ tồi tệ nhất là buôn bán và bóc lột tình dục phụ nữ. Các quyền về chính trị của phụ nữ như quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được nhận vào làm việc trong các cơ quan nhà nước được thể hiện trong Công ước về các quyền chính trị được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua năm 1952. Công ước về quốc tịch và phụ nữ khi kết hôn được thông qua năm 1957. Công ước ra đời nhằm mục đích bảo vệ quyền có quốc tịch hoặc quyền thay đổi quốc tịch của người phụ nữ khi kết hôn hay ly hôn với chồng là người nước ngoài. Công ước về các quyền dân sự – chính trị năm 1966. Công 16 ước ghi nhận toàn bộ nội dung các quyền dân sự – chính trị ở phần III cụ thể là: quyền sống, quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo, không bị bắt và giam giữ vô cớ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bầu cử… Các quốc gia thành viên của Công ước cam kết đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công ước đã đề ra. Mặc dù đã có nhiều văn kiện quốc tế ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ song thực tế trên thế giới vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ và diễn ra khá phổ biến. Theo thống kê của nhiều quốc gia, phụ nữ thường chiếm đa số trong diện những người nghèo khổ, mù chữ, thất học, có thu nhập thấp của thể giới. Nói cách khác, phụ nữ luôn bị hạn chế trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội và không được đánh giá đúng với những đóng góp công sức cho lao động gia đình. Hơn nữa những công ước quốc tế trên mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền của phụ nữ ở những khía cạnh riêng lẻ trong tổng thể các quyền của phụ nữ vốn tồn tại là một thể thống nhất, do đó cần phải có một văn bản đề cập đến quyền con người của phụ nữ một cách toàn diện và đề ra được các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục những cản trở trong việc thực hiện các quyền của phụ nữ. Mục tiêu xây dựng công ước này một mặt sẽ đặt ra các hình thức ràng buộc pháp lý có tính chất quốc tế đối với các quốc gia đã chấp nhận những nguyên tắc về quyền của phụ nữ tại các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan, mặt khác góp phần phát triển và hoàn thiện khung pháp luật quốc tế để từ đó có cơ sở cho việc bảo đảm và hiện thực hoá các quyền của phụ nữ trên thực tế ở từng quốc gia. Từ những lý do trên, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) - International Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women đã được Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 18/12/1979 và có hiệu lực từ ngày 3/9/1981. Tính đến tháng 11 năm 2006 đã có 185 nước – hơn 90% số nước thành viên Liên Hợp Quốc là quốc gia thành viên của Công ước. Việt Nam ký CEDAW ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày 17/2/1982. CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 19/3/1982. Công ước CEDAW là một công ước đa phương phổ biến trong hệ thống các công ước quốc tế về quyền con người của Liên Hiệp Quốc mà cụ thể là 17 quyền con người của phụ nữ. CEDAW trở thành cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng cho những cố gắng của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ và phát triển quyền con người cơ bản của phụ nữ trên phạm vi toàn thế giới. Công ước CEDAW bao gồm lời nói đầu và 30 điều quy định cách thức, biện pháp nhằm loại trừ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong thụ hưởng các quyền con người cơ bản đã được xác định bởi các điều ước quốc tế về nhân quyền khác. CEDAW cũng chỉ ra những lĩnh vực cụ thể hiện đang tồn tại sự phân biệt đối xử với phụ nữ một cách nặng nề để từ đó xác định những biện pháp thích hợp nhằm loại bỏ hoàn toàn tình trạng bất bình đẳng của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Bên cạnh công ước ngày 6/10/1999 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho CEDAW và có hiệu lực từ ngày 22/12/2000. Nghị định thư một mặt tạo cho phụ nữ quyền được gửi đơn khiếu nại cá nhân tới Uỷ ban CEDAW về tất cả các vi phạm của Chính phủ nước họ và mặt khác tạo điều kiện cho Uỷ ban CEDAW tiến hành những cuộc điều tra về các lạm dụng mà phụ nữ là nạn nhân ở những nước đã phê chuẩn Nghị định thư. Tính đến tháng 11 năm 2006 đã có 83 nước là quốc gia thành viên của Nghị định thư. Phương pháp tiếp cận của CEDAW là quan tâm đến sự khác biệt về giới và giới tính giữa nam và nữ, đồng thời cũng xác định một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự bất bình đẳng nam, nữ là sự tác động của phong tục tập quán. Công ước không chỉ xác định những biện pháp chung, áp dụng cho cả nam và nữ mà còn xây dựng những quy phạm pháp lý riêng, có tính chất ưu tiên chỉ áp dụng cho phụ nữ nhằm đạt được mục tiêu đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ trong việc ghi nhận quyền cũng như thực tế thụ hưởng những quyền này (Điều 4, CEDAW) [5, tr. 9]. Đồng thời công ước cũng chỉ ra rằng các quốc gia trong quá trình đấu tranh cho bình đẳng giới thì yêu cầu quan trọng đầu tiên là đổi mới tư duy nhận thức về bình đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là biện pháp liên quan đến sự thay đổi mẫu hình văn hoá - xã hội, là biện pháp giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội (Điều 5, Điều 6). Cách tiếp cận này của Công ước đã khắc phục được sự phân biệt về giới tính của phụ nữ dẫn tới sự 18 hạn chế quyền của phụ nữ trong một số lĩnh vực xuất phát từ đặc điểm về giới tính. Là thành viên của Công ước CEDAW và một số công ước quốc tế khác, Việt Nam có nghĩa vụ thực thi chúng. Đây vừa là nghĩa vụ, vừa mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước cho sự nghiệp bình đẳng giới để ngày càng đảm bảo quyền của phụ nữ được thực thi trong cuộc sống. Những đóng góp của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ tổ quốc cũng như phát triển đất nước đã được nhà nước Việt Nam đánh giá cao. Trên phương diện quốc tế, Việt Nam là một trong các quốc gia rất tích cực tham gia vào các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người nói chung. Ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp hiện hành năm 1992 được sửa đổi năm 2001 đều khẳng định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội, chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi, làm bổn phận của người mẹ” (Điều 63 Hiến pháp 1992) [18, tr.157]. Để chuyển hoá các công ước quốc tế đã gia nhập, Việt Nam đã thể chế hoá vào trong các văn bản quy phạm pháp luật trong nước hay nói cách khác bằng cách nội địa hoá các quy định của công ước quốc tế đã trở thành các văn bản quy phạm trong các bộ luật, luật và các văn bản pháp luật khác. Một số văn bản pháp luật như: Luật Quốc tịch, Luật Giáo dục, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự… và các chính sách của Nhà nước Việt Nam trên mọi lĩnh vực đều thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam, nữ, không có sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào. Trên tất cả các phương diện của đời sống như chính trị, pháp lý và các quyền dân sự khác không những được quy định trong các văn bản pháp luật mà còn được xác định là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân. Năm 2006 Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Bình đẳng giới với các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản phản ánh đầy đủ nội dung và tinh thần của công ước CEDAW, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ. Luật Bình đẳng giới được đánh giá là văn bản pháp 19 lý quan trọng bao quát được nhiều nội dung trong việc ghi nhận và bảo vệ các quyền của phụ nữ và sự nghiệp đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới. Các quy phạm của Luật Bình đẳng giới đã được xây dựng theo hướng nội luật hoá các quy định của điều ước quốc tế về chống phân biệt đối xử và bình đẳng giới, đảm bảo thể chế hoá các quy định của các điều ước quốc tế này để thực hiện. Đặc biệt Luật đã đưa vào những nội dung rất mới như quy định về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 21), thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới (Điều 22)… Việc nghiên cứu các quy định của các điều ước quốc tế mà cụ thể là Công ước CEDAW và quá trình nội luật hoá ở Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất là việc giải thích thuật ngữ. Công ước CEDAW tiếp cận vấn đề phân biệt đối xử với phụ nữ một cách chi tiết và cụ thể để các quốc gia thành viên cũng như cộng đồng quốc tế có căn cứ thực thi và giám sát việc thực thi các yêu cầu về đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ. Ngay tại Điều 1 của Công ước đã nêu “phân biệt đối xử với phụ nữ” là: “…bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hoá việc phụ nữ được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các quyền con người và những tự do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân sự hay bất kể lĩnh vực nào khác và trên cơ sở bình đẳng nam nữ” [5, tr. 9]. CEDAW chi tiết hoá những biểu hiện “phân biệt đối xử với phụ nữ” một cách thống nhất và xuyên suốt toàn bộ nội dung công ước nhằm hướng đến đảm bảo, thực hiện và phát triển quyền bình đẳng của phụ nữ ở các lĩnh vực hoạt động cụ thể: bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả trong việc hưởng các quyền ở các lĩnh vực xã hội. Chính điều này đã tạo thuận lợi cho cơ chế thực thi và giám sát thực thi công ước ở các quốc gia thành viên. Các quốc gia thành viên phải lên án và áp dụng các biện pháp thích hợp và không chậm trễ để xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Ở nước ta, theo quy định tại khoản 5 Điều 5 của Luật Bình đẳng giới thì: “Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan