Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền của những người bị tước tự do – lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Quyền của những người bị tước tự do – lý luận và thực tiễn

.DOC
103
89
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ NHÀN QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Tạ Thị Nhàn MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU..................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO......................................................................11 1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do..............................................11 1.1.1. Người bị tước tự do...................................................................................11 1.1.2. Quyền của người bị tước tự do..................................................................14 1.2. Ý nghĩa việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do...........................21 1.2.1. Góp phần bảo đảm quyền con người.........................................................21 1.2.2. Là một trong các tiêu chí xác định Nhà nước pháp quyền.........................22 1.2.3. Góp phần phát triển văn minh của nhân loại..............................................23 1.3. Nội dung quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế ...................................................................................................................25 1.3.1. Quyền sống................................................................................................27 1.3.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục..........................................................................29 1.3.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện.................................30 1.3.4. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do.....................................................................................30 1.3.5. Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên.....................31 1.4. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế........................................................................................................32 1.4.1. Cơ chế quốc tế............................................................................................32 1.4.2. Cơ chế khu vực.........................................................................................38 1.4.3. Cơ chế quốc gia..........................................................................................41 2 Chương 2: VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO..........................................................................................43 2.1. Sự phát triển các quyền của người bị tước tự do trong pháp luật Việt Nam...................................................................................................44 2.1.1. Từ năm 1945 đến năm 1974.......................................................................44 2.1.2. Từ năm 1975 đến nay.................................................................................46 2.2. Nội dung các quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam ...................................................................................................................49 2.2.1. Quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam......................49 2.2.2. Tước tự do trong lĩnh vực hành chính theo pháp luật Việt Nam so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan..............................................58 2.3. Thực tiễn việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam ...................................................................................................................62 2.3.1. Hạn chế......................................................................................................68 2.4. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam...............................................................73 2.4.1. Một số phương hướng hoàn thiện...........................................................73 2.4.2. Hoàn thiện pháp luật..................................................................................76 2.4.3. Nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bị tước tự do.......................83 KẾT LUẬN............................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................88 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - ACHPR: - ACHR: - CAT: - CEDAW: - CRC: - ECHR: - ECOSOC: - ICCPR: - ICJ: - ICESCR: - NGOs: - NHRIs: - UDHR: - UNCHR: - UNHRC: - UPR: - WGAD: - BLDS: BLHS: TAND: THAHS: TTHS: VKSND: Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, 1981 (African Charter on Human and Peoples’ Rights); Công ước châu Mỹ về quyền con người, 1969 (American convention on Human rights); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 (Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment); Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt dối xử với phụ nữ, 1979 (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women); Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Child); Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản, 1950 (The European Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms); Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc (The United Nations Economic and Social Council); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights); Tòa án công lý quốc tế, (Internatinonal Court of Justice); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966 (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights; Các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organizations); Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền (National Institution on the Protection and Promotion of Human Rights); Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948 ((Universal Declaration of Human Rights); Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Commission on Human Rights); Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Human Rights Council); Cơ chế Đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review); Nhóm công tác về giam giữ tùy tiện của Liên hợp quốc (Working Group on Arbitrary Detetion); Bộ luật dân sự; Bộ luật hình sự; Tòa án nhân dân; Thi hành án hình sự; Tố tụng hình sự; Viện kiểm sát nhân dân; - XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính 2 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Các quyền tiêu biểu của người bị tước tự do theo các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền...........................................................................25 Bảng 1.2. Điểm khác biệt giữa hai cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền của người bị tước tự do ...............................................................................37 Bảng 2.1. Các nhóm đối tượng bị tước tự do ở Việt Nam hiện nay căn cứ theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.......................................................49 Bảng 2.2. So sánh các quy định về quyền của người bị tước tự do trong pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan..........................50 Bảng 2.3. Quy mô giam giữ của 11 nhà tạm giữ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. ..............................................................................................................64 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vào thời kỳ cổ đại, người ta tin rằng có những người sinh ra để làm nô lệ và thân phận nô lệ là thích hợp và chính đáng cho họ. Đối với những người này việc có một người chủ tốt là may mắn và tốt đẹp. Đến thời phong kiến tầng lớp nô lệ đã không còn tồn tại trong xã hội. Tuy nhiên vẫn còn những tầng lớp, giai cấp khác cho mình quyền áp bức, bóc lột các giai tầng còn lại. Trải qua bao năm đấu tranh với bao mất mát, khổ đau, cho đến thời điểm hiện nay, nhân loại toàn thế giới đã công nhận: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu” (trích Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948). Trong thời đại ngày nay, nhân quyền trở thành vấn đề mang tính quốc tế, giá trị quyền con người đã được nhìn nhận ở tất cả các quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ. Bất kỳ ai trên thế giới này không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, giới tính…đều được hưởng những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong luật quốc tế về nhân quyền. Tuy vậy, cuộc đấu tranh cho nhân quyền vẫn tiếp diễn đầy cam go, quyết liệt. Vẫn còn những kẻ lợi dụng nhân quyền để vi phạm nhân quyền. Vẫn còn đó tình trạng người bóc lột người, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc, tôn giáo… Hơn nữa vẫn còn nhiều người không biết mình có những quyền gì và làm thế nào để thực hiện các quyền đó, làm thế nào để bảo vệ các quyền đó khi bị vi phạm? Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, với biết bao cuộc đấu tranh chống quân xâm lược. Vì vậy chúng ta hiểu rõ hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do, quyền sống và mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng nhân quyền ở Việt Nam đã có từ rất lâu và được thể hiện trước hết qua những ý niệm và hành động khoan dung, nhân đạo. Trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi với tinh thần “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” đã thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân quyền của Việt Nam. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong phạm 1 vi quốc gia cũng như đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì nhân quyền của nhân loại. Thể hiện ở việc Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống các văn bản pháp luật tương đối đầy đủ và khá tương thích với luật pháp quốc tế về nhân quyền. Đồng thời cũng đã có một cơ chế bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng. Tuy nhiên cũng như các nước khác trên thế giới, hiện nay Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức về quyền con người, trong đó nổi bật lên vấn đề về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người. Bởi vậy cần chú ý bảo vệ đặc biệt so với các nhóm khác. Những người bị tước tự do là một trong số nhóm người dễ bị tổn thương, họ là tất cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường. Theo Luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là một khái niệm rất rộng bao gồm tù nhân, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, quản chế, cấm cư trú… Mục đích của các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam…là để đảm bảo cho các cơ quan tư pháp, hành chính thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật. Các biện pháp này cũng nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên những biện pháp này khi áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan tư pháp và người có thẩm quyền thực hiện trong các cơ quan nếu không cẩn thận sẽ rất dễ dẫn đến vi phạm nhân quyền. Những điều đó xảy ra là do chưa có quy định cụ thể để hạn chế sự lạm quyền của cán bộ công chức nhà nước, các cơ quan công quyền, và việc quy định như hiện tại có nhiều kẽ hở dễ bị lách luật; cán bộ công chức nhà nước chưa được đào tạo cơ bản về tôn trọng, bảo vệ quyền con người... Bên cạnh đó, cơ chế thực thi quyền của nhóm người bị tước tự do vẫn còn chưa hoàn thiện cũng như cơ chế kiểm soát việc thực thi còn nhiều hạn chế. Do đó, để góp một phần bảo đảm hơn nữa về quyền con 2 người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Quyền của những người bị tước tự do – lý luâ ̣n và thực tiễn” làm đề tài luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy định, văn kiện quốc tế về bảo vệ quyền của người bị tước tự do cũng như việc nội luật hóa và áp dụng chúng vào thực tiễn Việt Nam. Tác giả đưa ra một số phương hướng đề hoàn thiện pháp luật về quyền của nhóm người bị tước tự do và giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các quyền ấy trong thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bởi tầm quan trọng của vấn đề, hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến như: “Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương” do trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân trực thuộc khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội đã đề cập tới quyền của người bị tước tự do theo luật quốc tế về nhân quyền. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung như quyền của nhóm là gì? Tầm quan trọng của việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm. Cuốn sách cũng đưa ra định nghĩa nhóm người dễ bị tổn thương; xác định các nhóm xã hội dễ bị tổn thương được quy định trong luật nhân quyền quốc tế, trong đó có nhóm người bị tước tự do. Đặc biệt cuốn sách đã phân tích cơ chế quốc tế giám sát thực thi quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương. “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”: do trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội phát hành. Tố tụng hình sự là hoạt động trực tiếp nhất liên quan đến một bộ phận quan trọng của nhóm người bị tước tự do. Đó là những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị bỏ tù. Tài liệu đã khái quát những tiêu chuẩn pháp lý về quyền con người trong các hoạt động tố tụng hình sự. Từ đó nhằm hướng dẫn, cung cấp những công cụ hữu hiệu cho việc bào chữa tại các tòa án hình sự địa phương. Đặc biệt, nó được viết ra để hỗ trợ cho các luật sư hoặc thành viên của nhóm luật sư biện hộ các vụ án hình sự, nâng cao kiến thức và hiểu biết nhằm áp dụng hiệu quả luật quốc tế tại các tòa 3 án địa phương. Từ góc độ đó, cuốn sách đề cập đến những khả năng áp dụng luật quốc tế như là một lập luận riêng biệt, và nếu có thể, như là một ý bổ sung nhằm củng cố sức thuyết phục của các lập luận. Quyền bào chữa là một trong số các quyền quan trọng của những người bị tước tự do. Bởi lẽ nó đảm bảo cho các vụ án được xét xử công bằng và quyền của người bị tước tự do sẽ được đảm bảo tốt nhất. Vì vậy cuốn sách đã góp một phần quan trọng trong những nỗ lực nhằm đảm bảo tốt hơn quyền của nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự; “Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” – đề tài nghiên cứu khoa học, chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam những năm qua đạt được những kết quả khả quan. Tuy vậy vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này đã nghiên cứu, tiếp thu những quan điểm và nhất là các tiêu chí về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ sở đó nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền con người trong tố tung hình sự. Đề tài này đã làm rõ những quan điểm khoa học về quyền con người trong tố tụng hình sự và những tiêu chí quốc tế về nhân quyền; Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nó đối với việc bảo vệ quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án; Đề tài cũng đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự. Khía cạnh mà đề tài này đề cập đến là các quyền con người nói chung trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng hình sự, các quyền con người được đề cập đến phần lớn là các quyền của những người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Bên cạnh những người bị tước tự do, đề tài này cũng phản ánh đến quyền của những người tham gia tố tụng hình sự mà không bị tước tự do như là các bị can, bị cáo (trong nhiều trường hợp họ không bị tước tự do). Đảm bảo quyền con người trong việc thi hành án phạt tù – một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam – bài viết của Hoàng Thị Hương, khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Bài viết đã đưa ra khái niệm “đảm bảo” có nghĩa là “làm cho chắc 4 chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết; sự đảm bảo hoặc giữ gìn được. Từ đó tác giả phân tích việc đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù bao gồm các đảm bảo về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp lý. Trong đó đảm bảo pháp lý có vai trò quyết định. Bài viết phân tích việc đảm bảo quyền con người trong việc thi hành án phạt tù, thực chất là phân tích việc bảo đảm quyền con người của một bộ phận người bị tước tự do, đó chính là các tù nhân. Một số vấn đề về bảo vệ quyền của những người bị tước tự do trong pháp luật và thực tiễn – khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Lưu Mỹ Hằng K53B – QHL 2008, khoa Luật – ĐHQG Hà Nội năm 2012. Khóa luận đã giải quyết một cách khoa học về khái niệm, quy định cơ bản về một số vấn đề bảo vệ quyền của người bị tước tự do theo pháp luật quốc tế và Việt Nam. Khóa luận cũng đã phân tích tình hình bảo vệ quyền của người bị tước tự do qua thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra quan điểm và phương hướng nâng cao vai trò của pháp luật trong việc quy định và bảo đảm quyền người bị tước tự do. Ngoài ra còn một số bài viết, cuốn sách của các học giả khác có đề cập đến vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên cần có một cái nhìn tổng quát hơn về người bị tước tự do, đặc biệt là dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế. Điều đó càng có ý nghĩa hơn khi mà nhân quyền hiện đang là vấn đề mà cả nhân loại hướng tới. Luận văn này có thể bổ sung những nghiên cứu về vấn đề người bị tước tự do, từ đó nâng cao ý thức trước hết là của các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền của người bị tước tự do. Đồng thời nâng cao nhận thức của các chủ thể người bị tước tự do trong việc thụ hưởng các quyền của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu • Nghiên cứu tổng quan về người bị tước tự do và quyền của người bị tước tự do; các biện pháp cũng như hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền thực 5 hiện các biện pháp tước tự do của con người. Những biện pháp lý để bảo đảm quyền cho nhóm người này. • Làm rõ tầm quan trọng, tất yếu của việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị tước tự do đối với sự phát triển của văn minh nhân loại nói chung cũng như sự phát triển của nhân quyền trên thế giới. • Từ đó kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm của pháp luật cũng như nâng cao nhận thức của cả cộng đồng nói chung, nhất là bộ phận cán bộ công chức trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo quyền cho nhóm xã hội này. 3.2. Nhiệm vụ nghiêm cứu • Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhóm người bị tước tự do và quyền của họ; • Nghiên cứu quy định pháp luật của Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế về đảm bảo quyền của những người bị tước tự do; • Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam: những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế tồn tại; • Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật Việt Nam cũng như những giải pháp khác nhằm đảm bảo quyền của người bị tước tự do. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền của nhóm người bị tước tự do dưới góc độ là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương. Luật nhân quyền quốc tế xác định một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm cả những người bị tước tự do. Người bị tước tự do ở đây bao gồm cả nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự và nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực hành chính. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự những người bị tước tự do bao gồm: tù nhân (phạm nhân đang chấp hành án hình phạt tù); người bị tạm giữ, tạm giam; người bị xử phạt với hình thức quản chế; người bị xử phạt với hình thức cấm cư trú. Trong 6 lĩnh vực hành chính, những người bị tước tự do bao gồm: người bị tạm giữ hành chính; người bị đưa vào trường giáo dưỡng; người bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Những người này đều bị giới hạn các quyền tự do so với những công dân bình thường. Chẳng hạn như quyền tự do đi lại, tự do cư trú. Đối với những người bị xử phạt với hình thức quản chế, thì đây là hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính là hình phạt tù. Đối với những người này, ngoài việc bị giới hạn quyền tự do đi lại, tự do cư trú thì còn bị hạn chế một số quyền công dân, tức là bị tước một số quyền tự do khác trong một thời hạn nhất định, như quyền tự do về việc làm, quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước. Nguyên nhân tại sao quyền của nhóm người này lại dễ bị tổn thương. Những chuẩn mực quốc tế về quyền của nhóm người này trong luật nhân quyền quốc tế là gì? Cơ chế bảo đảm các quyền đó cả trên phạm vi quốc tế, khu vực và quốc gia? Phân tích về việc bảo vệ nhóm người này ở Việt Nam trong những năm qua như thế nào? Những quyền nào dễ bị vi phạm? Lý do vi phạm? Từ đó đưa ra những giải pháp thực tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm người này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quyền của người bị tước tự do dưới góc độ quy định pháp lý và thực tiễn trên phạm vi quốc tế và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Trong phạm vi luận văn này, các tiêu chuẩn, quốc tế về nhân quyền được coi là mặt lý luận, là tiêu chí và chuẩn mực mà các quốc gia, vùng lãnh thổ hướng tới. Đó được coi như những giá trị thiêng liêng, phổ quát mà phải mất bao xương máu nhân loại toàn thế giới mới giành được. Đó còn là mơ ước, khát vọng về một thế giới bình đẳng, về những nhân quyền thiêng liêng tạo hoá đã ban cho mà không ai có thể bị tước đoạt. Với ý nghĩa trên, khía cạnh thực tế mà luận văn đề cập chính là việc đưa các chuẩn mực đó vào thực tế như thế nào? Việc tham gia, ký kết, gia nhập và nội luật hoá là một phần của ý nghĩa đó. Bên cạnh đó các nhà nước cụ thể là Việt Nam đã làm gì để đảm bảo cho các quyền của người bị tước tự do được thực hiện trên thực tế? Với cách tiếp cận trên, tác giả đi vào nghiên cứu cụ thể như sau: Về mặt lý luận: Khảo sát những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật 7 quốc gia quy định về quyền của người bị tước tự do. Các quy định pháp lý trước hết xuất phát từ các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng cũng như các cơ chế để bảo đảm các quyền đó. Đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật quốc gia với các chuẩn mực quốc tế. Việc hình thành các chuẩn mực quốc tế có sự đóng góp của pháp luật quốc gia. Các quy định quốc tế có thể kể đến như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền - UDHR; Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị 1996 - ICCPR; Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 - ICESCR; Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân 1990; Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào 1988;… Các quy định pháp luật quốc gia phải kể đến như Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001); Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Luật thi hành án hình sự 2010 …và các văn bản pháp lý liên quan. Khía cạnh thực tiễn mà luận văn đề cập chính là việc Việt Nam tham gia những công ước quốc tế nào về lĩnh vực này và đã nội luật hóa các chuẩn mực trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như thế nào? Từ đó đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp của các quy định pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn pháp lý về nhân quyền. Đánh giá việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị tước tự do trên thực tế. Vấn đề thực hiện các nghĩa vụ nộp các báo cáo định kỳ theo quy định của các công ước mà Việt Nam tham gia? Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo đảm quyền của người bị tước tự do được thực hiện như thế nào?…Từ đó, phân tích tổng quan và rút ra những yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về đảm bảo quyền của người bị tước tự do. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật nói chung, khái niệm và bảo đảm nhân quyền nói riêng. Các nguyên tắc nền tảng của Luật nhân quyền quốc tế. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu 8 cụ thể như: phương pháp phân tích, khái quát hóa; phương pháp tổng hợp; thống kê, so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn giải… 6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu Luận văn đã đạt được một số kết quả: - Đưa ra cái nhìn tổng quan về người bị tước tự do dưới góc độ là những người dễ bị tổn thương trong mối liên hệ giữa luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt là với cách tiếp cận dựa trên quyền, luận văn khẳng định các quyền của người bị tước tự do là tự nhiên, bẩm sinh và nhà nước chỉ có thể ghi nhận, bảo đảm chứ không có quyền ban phát các quyền đó. Các quyền của người bị tước tự do được bảo đảm không chỉ bằng việc các quyên đó được ghi nhận trong pháp luật. Mà quan trọng còn ở cơ chế bảo đảm các quyền đó. - Đánh giá tầm quan trọng, ý nghĩa của việc bảo đảm các quyền của người bị tước tự do. Những người bị tước tự do được hưởng các quyền cơ bản trên cương vị bình đẳng như bất kỳ chủ thể nào. Bên cạnh đó họ được hưởng những quyền đặc thù khác. Và việc được hưởng các quyền đó là tất yếu. Đảm bảo cho các quyền đó được thực thi cũng chính là bảo đảm quyền con người và là thước đo trình độ văn minh của nhân loại. - Góp phần thay đổi cái nhìn của xã hội nói chung, trong đó có bộ phận cán bộ công quyền trong vấn đề tước tự do hành chính; Các biện pháp xử lý hành chính của Việt Nam dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế thực chất là các biện pháp tước tự do của con người. Do đó cần phải hết sức thận trọng và phải đảm bảo các quyền cho người bị tước tự do một cách đầy đủ nhất. - Luận văn cũng đã nêu bật được một số thành tựu trong việc bảo đảm các quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam, đặc biệt là trong việc đảm bảo các điều kiện ăn, mặc, ở; quyền không bị tra tấn; không bị bắt, giam một cách tùy tiện; về quyền được đối xử nhân đạo; quyền được xét xử công bằng… - Phân tích một số hạn chế, đặc biệt là về mặt pháp luật trong việc bảo đảm các quyền của người bị tước tự do. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đảm bảo các quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam. 9 Ý nghĩa của luận văn: Một mặt luận văn góp phần thay đổi thái độ, hành vi trong việc đối xử với những người bị tước tự do, đặc biệt là của một bộ phận cán bộ công chức thực thi pháp luật. Khẳng định rõ ràng rằng, những quyền mà người bị tước tự do được hưởng là chính đáng và nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho các quyền đó được thực thi. Các quyền đó không phải do nhà nước ban cho họ mà xuất phát từ chính nhân phẩm và giá trị của họ. Mặt khác giúp người bị tước tự do nâng cao kiến thức và hiểu biết về các quyền của họ và các công cụ pháp lý để bảo đảm các quyền đó. Từ đó có thể giúp họ sử dụng có hiệu quả các công cụ đó để hưởng thụ và bảo vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm hai chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và tiêu chuẩn quốc tế về quyền của người bị tước tự do. Chương 2: Việt Nam với việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO 1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do 1.1.1. Người bị tước tự do Tự do là một trong những vấn đề quan trọng của con người và đã được nghiên cứu, luận giải từ lâu, dưới nhiều góc độ triết học, chính trị, pháp lý, xã hội học… Thời kỳ khai sáng, rất nhiều học giả đã bàn luận về tự do. Thomas Hobbes cho rằng: “Tự do được hiểu là, theo định nghĩa chính xác của từ này, sự vắng mặt của những trở ngại bên ngoài; những trở ngại đó thường tước đi một phần sức mạnh của con người để làm điều ta muốn làm, nhưng không thể ngăn cản ta sử dụng sức mạnh còn lại của mình theo sự sai khiến của lý trí và sự suy xét của chính bản thân mình”. [20, tr.127-128]. Montesquieu thì khẳng định: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật pháp cho phép” [20, tr. 161]. Qua hai khái niệm của hai học giả nói trên có thể thấy, khái niệm của Montesquieu mang tính pháp lý cao và tiếp cận gần với khái niệm tự do trong xã hội hiện đại ngày nay đồng thời cũng gần với tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Còn khái niệm của Thomas Hobbes đã chỉ ra hai thành tố quan trọng của tự do, đó là tự do nhân thức và tư do hành động. Ngày nay, tự do có thể được hiểu là tình trạng một cá nhân có thể và có khả năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm pháp lý và đạo đức trong một xã hội dân chủ mà không bị cản trở bởi bất cứ chủ thể hay yếu tố nào. Tự do có thể được phân thành tự do chủ động và tự do thụ động. Tự do chủ động là tự do của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó (ví dụ như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp...). Tự do thụ động là tự do của cá nhân khỏi bị các chủ thể khác xâm phạm đến (như tự do thân thể...). Trong một số trường 11 hợp, tự do bị hạn chế. Ví dụ như quyền tự do đi lại có thể bị hạn chế trong hoàn cảnh dịch bệnh hay khủng bố… Tuy nhiên việc hạn chế quyền tự do trong những trường hợp này phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt và tuyệt đối không được mang tính chất phân biệt, đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ hoặc nguồn gốc xã hội. Tự do là một thuộc tính tự nhiên của con người. Đã là con người thì phải có tự do. Đó là quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể chối cãi được, xuất phát từ chính nhân phẩm của mỗi con người. Sống trong xã hội tất cả các quyền tự do của con người phải được bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Các văn kiện quốc tế về nhân quyền đề cập đến cả hai khái niệm: các "quyền" và "tự do" cơ bản của con người. Tuy nhiên trong thực tế hầu như không có sự phân biệt và khác biệt trong việc vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quyền và tự do cơ bản của con người, bởi lẽ các tự do cơ bản thường được diễn đạt như là các quyền (ví dụ "tự do ngôn luận" cũng thường được gọi là "quyền tự do ngôn luận"). Con người có rất nhiều quyền tự do. Như quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền tự do lập hội, hội họp hòa bình;... Tước tự do nghĩa là bất kỳ hình thức giam giữ hoặc cầm tù nào, hay đưa một người vào nơi giam giữ chung hoặc riêng, mà người đó không được tự ý rời bỏ nơi giam giữ, trừ khi có quyết định của cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan công quyền khác. [16, tr.709-710]. Khái niệm “tước tự do” theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ việc bỏ tù hay tạm giam, mà còn là những việc hạn chế một phần hay toàn bộ tự do của một người, dưới nhiều hình thức và tên gọi khác, cụ thể như: bắt, tạm giữ; quản chế; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào các trung tâm cải tạo, giáo dục… Tức là bên cạnh các trường hợp giam giữ theo thủ tục hình sự thì tước tự do còn bao gồm cả giam giữ theo thủ tục hành chính. Nhiều quốc gia trên thế giới có luật về bắt, giam giữ hành chính, song chủ yếu đề cập đến các tình huống: giam giữ những người nhập cư lậu để chờ giải quyết thủ tục liên quan, ví dụ như ở Australia có các trung tâm tạm giữ ngoài khơi 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan