VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HÙNG CƯỜNG
QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ KẾT ÁN PHẠT TÙ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ HÙNG CƯỜNG
QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ KẾT ÁN PHẠT TÙ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY
HÀ NỘI, 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ KẾT
ÁN PHẠT TÙ ............................................................................................................ 8
1.1. Khái niệm quyền của người bị kết án phạt tù ................................................ 8
1.2. Tổ chức thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù ................................. 23
1.3. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị kết án phạt tù..................................... 26
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ KẾT ÁN PHẠT TÙ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC NINH .......................................................................................... 30
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về quyền của người bị kết án phạt tù
ở Việt Nam ......................................................................................................... 30
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù ở tỉnh Bắc Ninh..... 42
2.3. Nhận xét, đánh giá về quy định của pháp luật về quyền của người bị kết án và tổ
chức thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .............. 51
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM TỔ
CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ KẾT ÁN
PHẠT TÙ ................................................................................................................. 58
3.1. Dự báo hoạt động thực hiện pháp luật về quyền của người bị kết án phạt tù .... 58
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người bị kết án phạt tù
ở Việt Nam ......................................................................................................... 60
3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam . 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thực thi pháp luật, những người đang chấp hành án phạt tù bị
hạn chế một số quyền công dân nhưng vẫn được pháp luật bảo vệ và bảo đảm các
quyền và tự do cơ bản. Năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị định 117/2011/NĐ-CP
quy định việc tổ chức quản lý phạm nhân và đảm bảo chế độ đối với phạm nhân tại
các trại giam, qua đó phạm nhân đã được nâng cao các chế độ về ăn, mặc, ở, sinh
hoạt và chăm sóc y tế. Các trại giam thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục
công dân cho phạm nhân; phạm nhân được học tập trong thời gian chấp hành án,
trong đó có các chương trình học tập về chính trị, pháp luật, thời sự, phổ cập tiểu
học và xóa mù chữ, học nghề. Công tác phòng, chữa bệnh cho phạm nhân được
quan tâm đặc biệt. Các bệnh xá trại giam được cải tạo, đầu tư nâng cấp; đội ngũ y,
bác sỹ được đào tạo chuyên nghiệp. Nhiều phạm nhân ốm đau, mắc bệnh hiểm
nghèo được tạm đình chỉ thi hành án để chữa bệnh. Ban Quản lý các trại giam cũng
phối hợp với chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên truyền phòng chống ma túy,
lây nhiễm HIV, lao và các bệnh truyền nhiễm khác. Phạm nhân có quyền lao động
trên cơ sở sức khỏe cho phép, thời gian lao động được quy định theo Bộ Luật Lao
động; kết quả lao động được bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày hoặc tính vào thu
nhập cá nhân của phạm nhân.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang thực hiện quá trình hội nhập và
phát triển kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những thời
cơ, thuận lợi thì cũng bộc lộ nhiều nguy cơ, thách thức, nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp, tiêu cực làm ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự. Thực hiện Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020,các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã và đang thực hiện nghiêm túc
các quy định của pháp luật, đảm bảo tốt các quyền và lợi ích chính đáng của người
bị kết án phạt tù. Người bị kết án phạt tù được đảm bảo an toàn tính mạng, sức khoẻ
thể chất, tinh thần được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được học tập, tiếp thu những
thông tin có lợi, được hoạt động văn thể theo quy định của pháp luật và các Công
ước quốc tế mà Việt tham đã tham gia ký kết. Những kết quả về bảo đảm quyền của
người bị kết án phạt tù được thể hiện tại Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây đây gọi tắt là BLHS năm 2015), BLTTHS
năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
1
và gần đây nhất tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Thi hành
án hình sự (sửa đổi). Theo đó, trong công tác quản lý, giáo dục phạm nhân đã được
nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao về công tác đảm bảo quyền con người
của người bị giam giữ trong các trại giam ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế việc tổ chức thực hiện
các quyền của người bị kết án phạt tù Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn, bất
cập. Tình hình người bị kết án phạt tù ngày càng nhiều trong khi việc bảo đảm, bảo
vệ và quản lý người bị kết án phạt tù tại địa phương trong đó có tỉnh Bắc Ninh còn
gặp nhiều khó khăn, người bị kết án phạt tù chấp hành án phạt tù càng gia tăng hệ
thống trại giam thuộc Bộ Công an đang quá tải, cơ sở vật chất nhiều trại giam bị
xuống cấp, ngoài cơ sở vật chất, còn điều kiện vật chất được bảo đảm như thế nào,
như chế độ ăn, ở mặc, học nghề, lao động.... Hơn nữa, khi nói đến người bị kết án
phạt tù, xã hội thường có tâm lý xa lánh, kỳ thị và xem hành động trừng phạt họ là
đương nhiên. Chính vì vậy, yêu cầu về sự cần thiết hoàn thiện quyền của người bị
kết án phạt tù hiện nay là rất cần thiết để làm rõ cơ sở lý luận, quy định pháp luật về
quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, thực trạng tổ chức thực hiện quyền
của người bị kết án phạt tù ở các địa phương để trên cơ sở đó có những kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người bị kết án phạt tù và giải
pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quyền đối với người bị kết án phạt tù.
Trước tình hình đó, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Quyền của người bị kết án
phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn là cần thiết và có ý nghĩa,
hướng tới bảo đảm tốt hơn các quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề quyền con người nói chung và quyền của người bị kết án phạt tù nói riêng
là vấn đề được nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế và nhiều học giả trên thế giới quan
tâm. Đề tài nghiên cứu các công trình khoa học của các tác giả về vấn đề này như:
- Các nghiên cứu liên quan đến áp dụng hình phạt tù:
“Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” Chủ biên PGS.TS Nguyễn Ngọc
Chí – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2014 trong đó với tinh thần đổi mới
theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, cũng như sự
phát triển của khoa học pháp lý tố tụng hình sự những năm gần đây, nhất là vấn đề
đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Các tác giả đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của việc đảm bảo quyền con người và đưa vấn đề này vào từng chương
2
và dành hẳn một chương đề cập đến những vấn đề có tính khái quát về quyền con
người, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Giáo trình có phạm vi rộng,
phong phú, kết cấu hợp lý hơn các giáo trình trước đó [7].
Sách chuyên khảo về “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành
án hình sự ở Việt Nam” của TS.Vũ Trọng Hách, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2006.
Dưới góc tiếp cận Hành chính - Tư pháp, cuốn sách đã xây dựng hệ thống lý thuyết
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự; phân tích, đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam từ 2010 đến
2006, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án hình sự ở Việt Nam trong những năm tiếp theo [14].
Một số vấn đề thi hành án hình sự, của tác giả Trần Quang Tiệp, NXB Công
An Nhân Dân, năm 2002; Sách tham khảo Bình luận khoa học Luật thi hành án hình
sự và các quy định mới nhất về thi hành án hình sự của TS. Trần Minh Hưởng, NXB
Hồng Đức, năm 2011; Thi hành án phạt tù từ thực tiễn đến khoa học giáo dục của
PGS. TS Nguyễn Hữu Duyện, NXB Công an nhân dân, năm 2010. Đây là các công
trình nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án hình sự, nhất là thi hành án phạt tù với
hướng nghiên cứu tổng quan, sâu sắc về thực tiễn lý luận của hoạt động thi hành án.
- Các nghiên cứu liên quan đến quyền con người, quyền công dân của
phạm nhân:
Tác giả Đỗ Đức Hồng Hà (2010), Sách chuyên khảo “Quyền con người:
Tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học” trong đó có bài viết “Mối quan hệ giữa
quyền con người với luật thi hành án hình sự Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội. Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa Luật Thi hành án
hình sự với quyền con người, thực trạng Luật Thi hành án hình sự nhìn từ góc độ
bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện về tổ chức, quản lý về công tác thi hành án
phạt tù; Hoàn thiện về chế độ, chính sách đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất và mô
hình thi hành án và thiết chế bảo đảm công tác thi hành án phạt tù; Hoàn thiện quy
định thi hành án phạt tù với phạm nhân là người nước ngoài. Công trình là tài liệu
tham khảo rất có giá trị trong việc xây dựng các giải pháp tăng cường bảo đảm
quyền con người của người chấp hành án phạt tù thuộc Chương 4 của Luận án [13].
Tác giả Đinh Thị Mai (2014), với luận án Tiến sĩ “Quyền của người bị hại
trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Học viện khoa học xã hội Việt Nam. Với phạm vi
3
nghiên cứu Đề tài luận án được giới hạn trong phạm vi của chuyên ngành LHS và
TTHS; người bị hại được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả cá nhân con người và cơ
quan tổ chức (có pháp nhân hoặc không pháp nhân). Luận án nghiên cứu số liệu
thống kê từ năm 2007 đến năm 2012 của TANDTC và nghiên cứu 312 bản án
HSST, 91 hồ sơ VAHS của CQĐT và VKS cấp tỉnh. Luận án được thực hiện trên
phạm vi toàn quốc.Luận án không nghiên cứu về quyền của người bị kết án phạt tù
nhưng các quan điểm về quyền con người trong tư pháp hình sự, cơ chế thực hiện
quyền con người, các căn cứ phân loại quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự
là những tham khảo hữu ích cho NCS trong phân loại và nghiên cứu về quyền và cơ
chế thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam hiện nay [22].
Về bài viết, tạp chí và chuyên đề nghiên cứu phải kể đến Những vấn đề lý
luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự của GS. TSKH Lê
Cảm, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 11(6)/2006; Chuyên đề nghiên cứu khoa
học Thực trạng các quy phạm pháp luật thi hành án hình sự về bảo vệ quyền con
người của TS. Nguyễn Đức Phúc, đơn vị Học viện CSND, năm 2011; Thực hiện
pháp luật về quyền con người của phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Đức Phúc, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2012; Một
số vấn đề chủ yếu về pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các
quyền con người, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Hứa Thị Thơ, Khoa Luật - ĐHQG
Hà Nội, năm 2012.
- Các nghiên cứu liên quan đến công tác bảo đảm quyền của người bị kết
án phạt tù:
Tác giả Lê Hữu Trí (2017), luận án Tiến sĩ “Bảo đảm quyền con người của
người bị kết án phạt tù trong thi hành án hình sự ở Việt Nam”, Trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền
con người của người chấp hành án phạt tù ở các cơ sở giam giữ, đó chính là phạm
nhân đang chấp hành án ở các cơ sở giam giữ. Còn phạm vi nghiên cứu của luận án
“Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam”nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn,
không chỉ bao gồm quyền của người đang chấp hành hình phạt tù (trong thi hành
án) mà đối với cả đối tượng người bị kết án, bản án chưa có hiệu lực nhưng tạm
miễn, tạm hoãn, tạm đình chỉ. Luận án “Bảo đảm quyền con người của người bị kết
án phạt tù trong thi hành án hình sự ở Việt Nam” gồm 4 chương, nghiên cứu về cơ
4
sở lý luận, thực trạng, quan điểm và giải pháp tăng cường đảm bảo quyền con người
của người bị kết án phạt tù trong Thi hành án hình sự ở Việt Nam. Đóng góp về
khoa học của Luận án thể hiện rõ nét ở việc đã nghiên cứu một cách có hệ thống,
tương đối toàn diện vấn đề đảm bảo quyền con người của người bị kết án phạt tù
trong Thi hành án hình sự và trong hoạt động Thi hành án hình sự ở Việt Nam [48].
Tác giả Nguyễn Đức Phúc (2012), với luận án Tiến sĩ “Thực hiện pháp luật
về quyền con người của phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam”, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Trong đó tác giả đã nghiên cứu
làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về thực hiện pháp luật về quyền con người của
phạm nhân, khảo sát đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quyền con người
của phạm nhân tại một số trại giam, đã chỉ ra một số hạn chế trong thực hiện pháp
luật về quyền con người của phạm nhân và đưa ra các quan điểm, giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về quyền con người của phạm nhân trong thi hành án phạt
tù ở Việt Nam. Công trình có giá trị tham khảo trong việc đánh giá thực trạng và đề
xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người chấp hành án
phạt tù thuộc phần nội dung của Luận án [28].
Ngoài ra, còn có luận văn thác sĩ “Bảo đảm quyền con người của phạm nhân
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuấn Quang (2015); Nguyễn Văn
Hưng (2014), Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự theo
Hiến pháp sửa đổi năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7); Luận án tiễn sĩ
luật học về “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp” của Nguyễn Huy
Hoàng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, Năm 2004…
Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài luận văn mà luận văn có thể kế thừa hoặc tiếp tục nghiên cứu làm rõ, có thể nói
rằng, chưa có một công trình khoa học nào tiếp cận dưới góc độ quyền của người bị
kết án phạt tù từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là trong điều kiện cải cách tư pháp
và theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng quyền của người bị kết án phạt tù
trong tổ chức thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
5
hiện nay, đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả trong
công tác tổ chức thực hiện quyền của người bị kết án phạt tù.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận án đặt ra sẽ thực hiện và giải quyết những
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của người bị kết án phạt tù;
- Đánh giá thực trạng quyền của người bị kết án phạt tù đang chấp hành hình phạt
tù trong các trại giam của Bộ Công an và thực trạng tổ chức thực hiện quyền của người
bị kết án phạt tù ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua; phân tích làm rõ những kết quả đạt được
và những hạn chế, thiếu sót cũng như những nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót đó.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Thi hành án hình sự, theo
đó góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả tổ chức thực hiện quyền của người bị kết
án phạt tù ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận pháp lý về quyền và thực tiễn tổ chức thực hiện quyền
của người bị kết án phạt tù.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện quyền
của người bị kết án phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
- Về thời gian nghiên cứu: Thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về cải cách tư
pháp trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự về quyền con
người nói chung và quyền của người bị kết án phạt tù nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như:
6
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả sử dụng phương pháp trên nhằm
hệ thống các tài liệu liên quan đến đề tài, làm rõ các vấn đề lý luận về quyền của
người bị kết án phạt tù, kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn
đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và so sánh đối chứng: Tác giả
luận văn sử dụng các dữ liệu thu thập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, qua đó phân tích,
tổng hợp, so sánh nhằm đánh giá được thực tiễn thực hiện quyền của người bị kết
án phạt tù, nhận xét được các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong thực
hiện các quy định về vấn đề này.
- Phương pháp luật học: Đề tài sử dụng các văn bản pháp lý như là một công
cụ làm mốc tham chiếu, qua đó đánh giá hiệu quả triển khai các quy định của của
pháp luật về quyền của người bị kết án phạt tù trong thực tiến, tìm ra những hạn chế
của văn bản quy phạm liên quan, đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm giàu thêm lý
luận về quyền con người trong thi hành án hình sự nói chung và lý luận về quyền
của người bị kết án phạt tù nói riêng.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn đã phân tích, đánh giá đầy
đủ, khách quan thực trạng về quyền của người bị kết án phạt tù để đưa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự và trong tổ chức thực hiện
pháp luật về thi hành án phạt tù. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong giảng
dạy, học tập và nghiên cứu về thi hành án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền của người bị kết án phạt tù.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền của người bị
kết án phạt tù trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm tổ chức thực hiện
pháp luật về quyền của người bị kết án phạt tù.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ KẾT ÁN
PHẠT TÙ
1.1. Khái niệm quyền của người bị kết án phạt tù
1.1.1. Nhận thức về quyền con người và quyền của người bị kết án phạt tù
1.1.1.1. Nhận thức về quyền con người
Một là, đưa chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ Chương V
trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và bổ
sung Quyền con người vào tên chương thành: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Việc thay đổi vị trí của chương không đơn thuần là một sự
dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức
[33]. Với quan niệm đề cao chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, coi quyền lập
hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lập hiến, thông
qua quyền lập hiến của mình Nhân dân giao quyền cho lập pháp, hành pháp, tư pháp và
các thiết chế độc lập khác, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp.
Hai là, Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ quyền con người, không
đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền
con người, quyền cơ bản của công dân trong các quy định của Hiến pháp [31]. Chỉ
có những người có quốc tịch mới được hưởng quyền công dân của quốc gia đó, ví
dụ như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước. Để làm rõ sự khác
biệt này, tham khảo các công ước Quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của các
nước, Hiến pháp sửa đổi đã sử dụng từ mọi người và từ không ai khi thể hiện quyền
con người và dùng từ công dân khi quy định về quyền công dân [33].
Ba là, trách nhiệm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân được đề cao và thể hiện xuyên suốt
trong bản Hiến pháp. Ngoài việc quy định thành nguyên tắc: Quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14); ở hầu hết các điều
của Hiến pháp đều quy định trách nhiệm và bảo đảm của Nhà nước như Điều 17:
Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài; Điều 28: Nhà nước tạo mọi
điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch
trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân... Và đặc biệt ở
8
Chương III - Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
đã quy định các chính sách và trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền về kinh tế - xã hội. Ví dụ, Điều 59, khoản 2 quy định: Nhà nước tạo bình
đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh
xã hội [33]. Có thể nói Hiến pháp năm 2013 đã có một sự đổi mới sâu sắc về nhận
thức. Quyền con người, quyền công dân, theo quan niệm trước đây như là một sản
phẩm, một thứ quà tặng từ phía Nhà nước cho công dân, thì hiện nay, theo Hiến
pháp năm 2013, gắn liền với từng con người, là của họ mà Nhà nước pháp quyền
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Nhà nước không thể tùy tiện ban phát,
tặng cho hoặc thu hồi một cách duy ý chí.
Bốn là, lần đầu tiên giới hạn của các quyền được quy định thành nguyên tắc
trong Hiến pháp. Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, có thể hạn chế
một số quyền vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức
của xã hội, tôn trọng quyền hoặc uy tín của người khác, quyền và tự do của người
khác... Hiến pháp sửa đổi năm 2013, theo tinh thần của các công ước quốc tế đã quy
định thành nguyên tắc ở Điều 14, khắc phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền:
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [33]. Theo đó, từ nay không ai được tùy tiện cắt
xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định.
Năm là, một số quyền mới được bổ sung thể hiện bước tiến mới trong việc
mở rộng và phát triển quyền, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm
qua ở nước ta. Đó là các quyền: Quyền được sống trong môi trường trong lành
(Điều 43); Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống
văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); Công dân có quyền được bảo đảm an
sinh xã hội (Điều 34); Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo
hộ (khoản 2, Điều 32); Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh, hoặc
lợi ích quốc gia; tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường
(khoản 3, Điều 32) [33]. Đây là những quyền mới mà các Hiến pháp trước đây
không có. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì công
9
dân có các quyền nói trên là một tất yếu. Vì thực hiện các quyền này gắn chặt với
trách nhiệm của Nhà nước, đề cao trách nhiệm của Nhà nước.
1.1.1.2. Nhận thức về quyền của người bị kết án phạt tù
Người bị kết án là người bị Tòa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp
luật. Khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì người bị kết tội được
coi là người bị kết án. Người bị kết án có nghĩa vụ chấp hành hình phạt theo quyết
định của bản án kết án đối với mình.
Theo điều 3, Luật thi hành án 2019 thì “Người chấp hành án là người bị kết
án, phải chịu hình phạt theo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và
đã có quyết định thi hành” [38] và “Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù
có thời hạn, tù chung thân” [38]. Kết hợp hai khái niệm trên thì người bị kết án phạt
tù là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù có thời hạn theo quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật và hiệu lực thi hành.
Nên quyền của người bị kết án phạt tù bao gồm các quyền sau: Được bảo hộ
tính mạng, sức khỏe, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến quyền
và nghĩa vụ của mình, nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân; Được bảo đảm chế độ ăn,
ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế theo quy định; gửi, nhận thư, nhận
quà, tiền; đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi
chấp hành án; Được tham gia hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ; Được lao động, học tập, học nghề; Được gặp, liên lạc với thân nhân, đại diện
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân; đối với phạm nhân là người nước ngoài được thăm
gặp, tiếp xúc lãnh sự; Được tự mình hoặc thông qua người đại diện để thực hiện
giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật; Được bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo; được đề nghị xét đặc xá, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;
Được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hưởng chế độ, chính sách về bảo hiểm
xã hội theo quy định của pháp luật; Được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín
ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật; Được khen thưởng khi có thành tích
trong quá trình chấp hành án.
Một con người được coi là phạm nhân khi họ phạm tội bị kết án phạt tù và
được đưa đến trại giam để chấp hành bản án, đồng thời với việc trở thành phạm
nhân họ có một địa vị pháp lý hoàn toàn khác với các công dân bình thường ngoài
xã hội. Phạm nhân bị tước hoặc bị hạn chế một số quyền tự do cơ bản như: hội họp,
biểu tình, tự do cư trú, đi lại, bầu cử, ứng cử... nhưng không có nghĩa là đã mất
10
quyền công dân. Họ còn các quyền và nghĩa vụ chủ yếu như: lao động, học tập, bảo
vệ sức khoẻ, bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, khiếu
nại, tố cáo...
Tại Điều 27 Bộ luật Hình sự nêu rõ mục đích của hình phạt: Hình phạt không
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [37].
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định buộc
phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành có ích
cho xã hội. Từ những quan điểm trên cho thấy: Phạm nhân là các công dân có vị trí
pháp lý đặc biệt. Chính vị trí này là cơ sở để các cơ quan thi hành án phạt tù áp
dụng các biện pháp cưỡng chế và giáo dục đặc thù đối với họ, nhằm mục đích giáo
dục họ trở thành người lương thiện. Việc họ bị giam giữ trong trại giam không có
nghĩa chỉ là để trừng phạt, bảo đảm an toàn cho xã hội mà mục đích chủ yếu là giáo
dục họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật
và các qui tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội [38].
Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Hình sự: Đối với người bị phạt tù thì buộc họ 12
phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người
có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
Điều 39 Bộ luật Hình sự quy định: Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm
phạm ANQG hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật này quy định,
thì bị tước một hoặc một số quyền công dân sau đây: Quyền ứng cử, quyền bầu cử
đại diện cơ quan quyền lực Nhà nước; b. Quyền làm việc trong các cơ quan nhà
nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân. Thời hạn tước một số
quyền công dân từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù
hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được
hưởng án treo [37].
Từ những phân tích nêu trên trên, có thể đưa ra kết luận như sau: Quyền của
người bị kết án phạt tù là những nhu cầu, đòi hỏi vốn có và khách quan của người bị
kết án phạt tù được ghi nhận, bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. Quyền của người bị kết án phạt tù chính là các quyền con người
được ghi nhận trong Hiến pháp, trừ các quyền mà người bị kết án phạt tù bị luật
11
tước bỏ hay hạn chế. Pháp luật thi hành án hình sự quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục tổ chức thực hiện các quyền đó trong các cơ sở giam giữ [6].
1.1.2. Một số nguyên tắc cơ bản tôn trọng và bảo đảm các quyền không bị tước bỏ
hoặc bị hạn chế của người bị kết án phạt tù
1.1.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Quan điểm Đảng lãnh đạo là Quan điểm chủ đạo, cơ bản và chi phối mọi
hoạt động trong công tác tổ chức thi hành án phạt tù ở trại giam. Quan điểm Đảng lãnh
đạo được thể hiện ở quan điểm, chính sách hình sự của Đảng về chủ trương, phương
hướng, nhiệm vụ của công tác thi hành án phạt tù ở nước ta, chính sách nhân đạo của
Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội. Trên cơ sở đó các cơ quan chức năng của Nhà
nước, tổ chức xã hội triển khai thực hiện. Quan điểm Đảng lãnh đạo thể hiện rất rõ
trong báo cáo chính trị giữa nhiệm kỳ của Ban chấp hành Trung ương Khoá VII như:
Thực hiện nghiêm chỉnh các hình phạt do luật định đối với kẻ phạm tội, đồng thời tích
cực giáo dục, kết hợp với dạy nghề và tổ chức lao động, sản xuất, cải thiện các điều
kiện giam giữ, cảm hoá phạm nhân, tạo điều kiện đưa họ trở lại làm ăn lương thiện.
Ngăn chặn và nghiêm trị các hành vi ngược đãi, ức hiếp người bị giam.
Tại Công văn số 1032 ngày 24/11/1994 của Thường trực Bộ Chính trị - Ban
Bí thư nêu rõ: Cần quán triệt quan điểm mục đích giam giữ là biến người xấu thành
người tốt. Trong trai giam cần tổ chức dạy nghề, dạy văn hoá để người bị kết án
phạt tù lao động, học tập cải tạo thành người tốt, cải thiện trại giam, trại tạm giam
để thể hiện bản chất của chế độ, Nhà nước ta, ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị có Nghị
quyết số 49-NQ/TƯ, trong đó cũng nhấn mạnh:“Hoàn thiện chính sách, pháp luật
hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân
chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” [4].
Đối với công tác tổ chức thi hành án phạt tù ở các trại giam, tổ chức cơ sở
Đảng là hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các
mặt công tác của trại giam bao gồm lãnh đạo và tổ chức thực hiện chủ trương,
nhiệm vụ, mục tiêu công tác quản lý và giáo dục phạm nhân, thực 29 hiện đúng
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của cấp trên đối với trại
giam; lãnh đạo công tác tư tưởng; lãnh đạo thực hiện công tác tổ chức và cán bộ;
lãnh đạo các đoàn thể và xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh.
12
Toàn bộ hệ thống những quan điểm, chính sách của Đảng là định hướng
quan trọng, trên cơ sở này sẽ được thể chế hoá thành hệ thống văn bản qui phạm
pháp luật trong công tác tổ chức thi hành hình phạt tù nhằm bảo đảm giam giữ, quản
lý chặt chẽ phạm nhân và giáo dục họ trở thành người lương thiện. Ngoài ra nó
cũng thể hiện chính sách nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta
đối với người phạm tội.
1.1.2.2. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo vệ và thực hiện quyền của
người bị kết án phạt tù
Nguyên tắc pháp chế XHCN là nguyên tắc phổ biến trong các lĩnh vực áp
dụng pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thi hành án phạt tù nói
chung và trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người bị kết án phạt tù nói
riêng, đòi hỏi các qui phạm pháp luật điều chỉnh thi hành án phạt tù phải đầy đủ,
thống nhất và tính khả thi cao. Hệ thống pháp luật này phải thể chế hoá chính sách
của Đảng và Nhà nước ta trong công tác quản lý, giáo dục người đang chấp hành
bản án phạt tù, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của họ, trong đó chú ý là những
quyền mà họ bị tước hoặc bị hạn chế. Việc quy định cụ thể như vậy sẽ tạo một hành
lang pháp lý đầy đủ cho các cơ quan thi hành án thực thi nhiệm vụ. Mặt khác, hệ
thống pháp luật đó phải tạo một cơ chế bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của
người bị kết án. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác thi hành án
phạt tù được thể hiện cụ thể như sau:
Nghiêm cấm mọi hình thức nhục hình, xúc phạm danh dự nhân phẩm của
người bị kết án phạt tù. Họ được đối xử trên cơ sở tôn trọng quyền được pháp luật
bảo hộ trừ những quyền bị pháp luật tước bỏ hoặc hạn chế.
Mỗi cán bộ thi hành án phải nắm chắc pháp luật thi hành án phạt tù, những
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền của
người bị kết án phạt tù, đến các hoạt động của cơ quan tư pháp để từ đó tổ chức
thực hiện công tác quản lý, giáo dục người bị kết án hiện đang chấp hành bản án
theo đúng qui định. Mọi vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành án phạt tù phải
được phát hiện kịp thời, nhanh chóng và được xử lý nghiêm minh bất kể người vi
phạm đó là ai.
1.1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Trong lĩnh vực thực thi pháp luật nói chung, trong công tác tổ chức thi hành
hình phạt tù nói riêng, nhân đạo là một trong những Quan điểm cơ bản của pháp
13
luật XHCN, thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước
ta và được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, mọi chế độ giam giữ, giáo dục đối với phạm nhân phải tạo ra môi
trường giáo dục phù hợp, đáp ứng với đặc điểm yêu cầu giáo dục cải tạo người phạm
tội nhằm biến họ “đầu vào là tội phạm đầu ra là người công dân có ích cho xã hội.
Thứ hai, chỉ sử dụng những biện pháp, phương tiện, lực lượng theo quy định
của pháp luật, đảm bảo tính nhân đạo trong quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân.
Tuyệt đối không áp dụng biện pháp, lực lượng, phương tiện có thể gây nên những
đau đớn về thể xác, tinh thần đối với phạm nhân, ngay cả trong trường hợp phải sử
dụng đến vũ lực, vũ khí theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, trong trường hợp có căn cứ của pháp luật thì phạm nhân được giảm,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, được xét đề nghị đặc xá.
Thứ tư, phạm nhân được phân loại và được quản lý theo loại tuỳ theo lứa tuổi,
giới tính, tình trạng sức khoẻ, đặc điểm nhân thân, tính chất phạm tội, nhằm tạo điều
kiện để phạm nhân có thể được học tập, cải tạo trong môi trường thuận lợi, bảo đảm
nhân quyền.
Thứ năm, mỗi cán bộ làm công tác thi hành án phạt tù phải nhận thức sâu sắc
vấn đề, phạm nhân không phải là người vứt bỏ, phế thải mà họ vẫn là con người với
đầy đủ nghĩa của nó, họ vẫn tồn tại với tư cách là một thành viên của xã hội, với
những ràng buộc, những mối quan hệ vốn có của con người, họ chỉ bị pháp luật tước
bỏ hoặc hạn chế một số quyền công dân. Trên cơ sở đó, có thái độ nhân đạo đối với
phạm nhân phải thể hiện sự tôn trọng cá nhân, nhân phẩm và danh dự của họ.
1.1.2.4. Nguyên tắc quản lý chặt chẽ kết hợp giáo dục và thực hiện chế độ chính
sách nhằm bảo đảm phạm nhân được hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ
Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại
giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều
tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Theo quy định của pháp luật thì
việc quản lý nghiêm khắc phạm nhân, tổ chức thi hành nghiêm hình phạt tù đối với
người phạm tội chính là đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, loại trừ những
nguy cơ đe doạ đến quyền, lợi ích của Nhà nước, của xã hội và công dân. Nhưng
phải khẳng định rằng quản lý nghiêm khắc phạm nhân để tổ chức thi hành nghiêm
bản án không phải chỉ nhằm mục đích trừng trị mà mục đích chính là giáo dục, cải
tạo người phạm tội trở thành những công dân tuân thủ pháp luật. Chúng ta phải có
14
thái độ rõ ràng, một mặt có trách nhiệm đảm bảo những quyền hợp pháp của phạm
nhân trong suốt quá trình chấp hành hình phạt của họ.
Do phần lớn phạm nhân trước khi bị bắt vào trại giam có lối sống buông thả,
tuỳ tiện, không chịu tuân thủ pháp luật cũng như tôn trọng phong 30 tục, tập quán,
chuẩn mực đạo đức của xã hội, nên họ sẵn sàng trốn khỏi nơi giam nếu có điều
kiện. Để tổ chức thực hiện nghiêm bản án, đạt được mục đích của hình phạt, một
yêu cầu bắt buộc không thể thiếu được là phải phân hoá triệt để tội phạm và quản lý
nghiêm không để họ có điều kiện trốn khỏi nơi giam, bắt buộc họ phải tuân thủ các
quy định của pháp luật thi hành án hình sự, nội quy trại giam; đấu tranh không
khoan nhượng; xử lý nghiêm khắc những phạm nhân vi phạm. Sự phân hoá triệt để
phạm nhân và quản lý nghiêm khắc sẽ tước bỏ mọi điều kiện chống đối, làm cho
phạm nhân xây dựng thói quen tuân thủ pháp luật, ý thức chấp hành kỷ luật, nếp
sống ở trại giam, tạo điều kiện để họ tái hoà nhập cộng đồng. Tuy nhiên nếu chúng
ta chỉ đơn thuần phân loại tội phạm triệt để, quản lý nghiêm khắc sẽ dễ dẫn đến tình
trạng căng thẳng, lo lắng, bức xúc, từ đó dễ nảy sinh những ý nghĩ và hành động
tiêu cực. Do vậy cùng với các hoạt động trên, chúng ta phải quan tâm và đảm bảo
các quyền lợi hợp pháp của phạm nhân, khuyến khích, động viên người tốt, việc tốt,
đối xử bình đẳng… làm cho phạm nhân tin tưởng, lôi cuốn phạm nhân tham gia tự
quản, lên án, đấu tranh với những hành vi tiêu cực của phạm nhân khác.
1.1.3. Nội dung các quyền của người bị kết án phạt tù
(1) Được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm;
được phổ biến quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân
Được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm;
được phổ biến quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân của
người bị kết án phạt tù được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam và được cụ thể
trong nhiều văn bản luật, đặc biệt là trong Luật Thi hành án hình sự và Nghị định
quy định về tổ chức quản lý phạm nhân… Hiến pháp Việt Nam quy định mọi người
dân đầu có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định
của Toà án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt giam giữ người phải đúng pháp luật. Mọi hình thức truy bức, nhục
hình, đối xử vô nhân đạo, xúc phạm danh dự nhân phẩm của người dân đều bị
nghiêm cấm. Quyền sống là quyền trước tiên và quan trọng của con người. Mọi
15
hành vi xâm phạm quyền sống của con người bị coi là phạm tội và bị nghiêm trị
theo quy định của pháp luật. Nhà nước Việt Nam đặc biệt ưu tiên và có những nỗ
lực cao nhất nhằm bảo đảm quyền sống cho mọi người dân kể cả những người
phạm tội, phạm nhân đang chấp hành hình phạt tại các trại giam [37]…
(2) Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc
y tế theo quy định; gửi, nhận thư, nhận quà, tiền; đọc sách, báo, nghe đài, xem
truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi chấp hành án; Được tham gia hoạt động
thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
Thực hiện chế độ ăn, mặc, ở, phòng, chữa bệnh cho phạm nhân chính là bảo
đảm cho họ quyền được sống, được đối xử nhân đạo. Luật Thi hành án hình sự và
Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức
quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm
nhân quy định: Phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định 14 lượng về gạo, rau
xanh, thịt, cá, đường, muối, nước mắm, bột ngọt, chất đốt. Đối với phạm nhân lao
động nặng nhọc, độc hại theo quy định của pháp luật, thì định lượng ăn được tăng
thêm. Ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật, phạm nhân được ăn thêm nhưng
mức ăn không quá năm lần tiêu chuẩn ăn ngày thường và Chính phủ bảo đảm tiêu
chuẩn định lượng mỗi tháng: 17 kg gạo tẻ thường; 0,7 kg thịt; 0,8 kg cá; 0,5 kg
đường loại trung bình; 01 kg muối; 15 kg rau xanh; 0,75 lít nước mắm; 0,1 kg bột
ngọt; chất đốt tương đương 17 kg củi hoặc 15 kg than. Ngày Tết Nguyên đán (bao
gồm 01 ngày cuối năm và 03 ngày đầu năm âm lịch), ngày Tết Dương lịch (ngày 01
tháng 01), ngày Giỗ tổ Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 âm lịch), các ngày lễ: 30
tháng 4, 01 tháng 5, 02 tháng 9, phạm nhân được ăn gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày
thường. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy định của pháp
luật, định lượng có thể được tăng thêm 15% so với tiêu chuẩn định lượng nêu trên.
Giám thị trại giam có thể quyết định hoán đổi định lượng ăn nêu trên cho phù hợp
với thực tế để bảo đảm cho phạm nhân ăn hết tiêu chuẩn. Ngoài tiêu chuẩn ăn quy
định như trên, phạm nhân được sử dụng quà, tiền của mình để ăn thêm nhưng
không được quá ba lần định lượng trong 01 tháng cho mỗi phạm nhân [8].
Mỗi năm phạm nhân được phát 02 bộ quần áo dài bằng vải thường theo mẫu
thống nhất, 02 bộ quần áo lót, 02 khăn mặt, 02 chiếc chiếu, 02 đôi dép, 01 mũ hoặc
nón, 01 áo mưa nilông; 03 bàn chải đánh răng; 600 g kem đánh răng loại thông
thường. Mỗi tháng phạm nhân được cấp 0,3 kg xà phòng giặt, phạm nhân nữ được
16
cấp thêm đồ dùng vệ sinh cá nhân cần thiết có giá trị tương đương 02 kg gạo tẻ
thường. 04 năm phạm nhân được cấp 01 màn, 01 chăn [8]…
Phạm nhân ở theo buồng tập thể, chỗ nằm tối thiểu của mỗi phạm nhân là 2
m2, có bệ gạch men, ván sàn hay giường. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định những
quyền ưu đãi hơn dành cho phạm nhân nữ, phạm nhân là người chưa thành niên:
chỗ nằm tối thiểu của mỗi phạm nhân là người chưa thành niên là 03 m2, có ván sàn
hoặc giường [32].
Trong thời gian chấp hành hình phạt tù, phạm nhân được hoạt động thể dục thể
thao, văn hoá, văn nghệ phù hợp với quy định của trại giam. Phạm nhân được đọc sách,
báo, được nghe đài và được xem truyền hình. Phạm nhân được hưởng chế độ phòng,
chống dịch bệnh và khám sức khỏe định kỳ, được lập sổ y bạ hoặc phiếu khám sức
khoẻ để theo dõi, bảo vệ sức khoẻ trong thời gian chấp hành hình phạt tù. Nếu ốm,
phạm nhân được điều trị tại bệnh xá của trại, nếu bệnh nặng vượt quá khả năng điều trị
của trại thì được chuyển đến bệnh viện của Nhà nước và được thông báo cho thân nhân
phạm nhân biết để phối hợp với trại giam chữa bệnh cho phạm nhân.
(3) Được lao động, học tập, học nghề;
Lao động vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của phạm nhân, quyền và nghĩa vụ
lao động của phạm nhân được quy định rõ trong Bộ luật Hình sự, Luật Thi hành án
hình sự. Phạm nhân được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp
ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng; được nghỉ lao động các ngày
thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của pháp luật. Thời gian phạm nhân lao
động và học tập, học nghề không quá 8 giờ trong 01 ngày. Trường hợp đột xuất
hoặc thời vụ, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng
không được quá 02 giờ trong 01 ngày. Trường hợp phạm nhân lao động thêm giờ
hoặc lao động trong ngày thứ bảy, chủ nhật thì được nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng
tiền, hiện vật. Kết quả lao động của phạm nhân sau khi trừ chi phí vật tư, nguyên
liệu, tiền công thuê lao động bên ngoài được sử dụng như sau: a) Bổ sung mức ăn
cho phạm nhân; b) Lập quỹ hòa nhập cộng đồng để chi hỗ trợ cho phạm nhân khi
chấp hành xong án phạt tù; c) Bổ sung vào quỹ phúc lợi, khen thưởng của trại giam;
d) Chi thưởng cho phạm nhân có thành tích trong lao động; đ) Chi hỗ trợ đầu tư trở
lại cho trại giam phục vụ việc tổ chức lao động, giáo dục, dạy nghề đối với phạm
nhân [32].
17
- Xem thêm -