Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền con người và vấn đề giáo dục quyền con người ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quyền con người và vấn đề giáo dục quyền con người ở việt nam hiện nay

.PDF
78
66
67

Mô tả:

Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và giáo dục quyền con người. Bước đầu khảo sát thực trạng giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay Từ khoá
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC *** NGUYỄN HẢI YẾN QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGHÀNH: TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa: QH – 2015 – X Hà Nội, 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC *** NGUYỄN HẢI YẾN QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGHÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa: QH – 2015 – X Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thúy Vân Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN *** Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện và chƣa đƣợc công bố. Những trích dẫn trong khóa luận là trung thực, xuất xứ rõ ràng. Sinh viên thực hiện Nguyễn Hải Yến LỜI CẢM ƠN *** Để có thể hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng viên hƣớng dẫn của tôi là PGS.TS Nguyễn Thị Thúy Vân. Cô giáo đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc định hƣớng lựa chọn đề tài và nội dung, tìm kiếm và đọc tài liệu cũng nhƣ các thao tác làm việc cơ bản giúp tôi hoàn thiện hơn cả về kiến thức và kỹ năng. Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa Triết học đã cung cấp những kiến thức nền để tôi có thể thực hiện đề tài này. Mặc dù đã hoàn thành, song bài Khóa luận tốt nghiệp của tôi không tránh khỏi có những yếu điểm và thiếu sót, do vậy tôi rất mong nhận đƣợc những lời đánh giá và góp ý từ phía các thầy giáo, cô giáo và các bạn để bài Khóa luận tốt nghiệp của tôi đƣợc hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Sinh viên thực hiện Nguyễn Hải Yến MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3 NỘI DUNG ......................................................................................................... 13 Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .............. 13 1.1: Khái niệm quyền con ngƣời, quyền công dân .......................................... 13 1.1.1: Khái niệm quyền con ngƣời................................................................ 13 1.1.2: Khái niệm quyền công dân ................................................................. 18 1.1.3: Quan hệ giữa quyền con ngƣời, quyền công dân ............................... 21 1.2: Lịch sử phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời ................................ 22 1.2.1: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời thời kỳ cổ đại ..................................... 22 1.2.2: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời trong thời kỳ cận – hiện đại ............... 25 1.3: Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời ....................................................... 32 1.3.1: Một số vấn đề chung về giáo dục quyền con ngƣời ........................... 32 1.3.2: Nội dung giáo dục quyền con ngƣời................................................... 37 1.3.3: Vai trò của giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay ............................................................ 40 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 45 Chƣơng 2: Thực trạng và một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao công tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay................................................. 46 2.1: Thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.................... 46 2.1.1: Những thành tựu đã đạt đƣợc ............................................................. 46 2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại .................................................................. 56 2.2: Những quan điểm chung và giải pháp về giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân ở nƣớc ta hiện nay ............................................................................ 60 2.2.1: Những quan điểm của Đảng - Nhà nƣớc ta về giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân .................................................................................. 60 2.2.2: Giải pháp tăng cƣờng giáo dục quyền con ngƣời quyền công dân ở nƣớc ta hiện nay ............................................................................................ 61 1 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...................................................................................... 64 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 68 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền con ngƣời là một trong những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; tuy nhiên không phải trong bất cứ hình thái - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại nhằm vƣơn tới những lý tƣởng, giải phóng hoàn toàn con ngƣời khỏi bất bình đẳng trong xã hội nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ và nhân đạo. Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời đã trở thành một vấn đề triết học, chính trị, pháp lý, đao đức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở cấp độ quốc tế, quyền con ngƣời đã trở thành mối quan tâm chung của toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận là giá trị chính trị, đạo đức, pháp lý phổ biến. Ở cấp độ quốc gia, quyền con ngƣời đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng rãi. Tôn trọng, bảo đảm và thực thi quyền con ngƣời vừa đƣợc coi là điều kiện vừa là mục tiêu phát triển của các nƣớc, không phân biệt chế độ chính trị hay trình độ phát triển. Vấn đề quyền con ngƣời có vai trò quan trọng nhƣ vậy, nên nhiều nƣớc trên thế giới coi trọng việc giáo dục quyền con ngƣời nhằm làm cho mỗi con ngƣời ý thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình biết bảo vệ quyền của mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục nhân quyền tại Viên (Thủ đô nƣớc Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng: "Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng phải biết tôn trọng những quyền của ngƣời khác", và đến 23/12/1994, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã chính thức tuyên bố: "Thập kỷ giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến 1/1/2004". Nƣớc ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục quyền con ngƣời lại 3 càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu. Thực hiện đƣợc điều đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã hƣởng ứng, tham gia có hiệu quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ƣu điểm đã đạt đƣợc và làm rõ những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời; đồng thời xác định phƣơng hƣớng, nội dung, phƣơng pháp tiếp tục thực hiện giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Do vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Quyền con ngƣời và vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề có tính thời sự và có liên quan mật thiết đến tình hình chính trị toàn cầu nên những nghiên cứu về vấn đề quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời nhận đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Có thể chia những nghiên cứu này thành hai mảng nội dung chính sau: * Những nghiên cứu về quyền con người Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về quyền con ngƣời của nhiều học giả trong và ngoài nƣớc, tiêu biểu là cuốn sách Quyền con ngƣời của Jacques Mourgon, giáo sƣ trƣờng đại học Khoa học Xã hội Toulouse (Pháp). Bằng việc phân tích bản chất của con ngƣời và quyền con ngƣời, tác giả khẳng định quyền con ngƣời là trung tâm của chính trị và trung tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con ngƣời, nhƣng quyền con ngƣời cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con ngƣời. Quyền con ngƣời là "những đặc quyền" đƣợc các quy tắc điều khiển mà con ngƣời "giữ riêng" lấy trong các quan hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Nhƣ vậy, quyền con ngƣời trƣớc hết là các quyền cố hữu, tự nhiên con ngƣời sinh ra đã có (cả thể xác và tƣ tƣởng) và các quyền này đƣợc sử dụng trong các quan hệ giữa 4 cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính quyền. Trên cơ sở khái niệm quyền con ngƣời, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để bảo đảm, thực hiện quyền con ngƣời nhƣ: sự công nhận quyền trong các điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời; sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế kiểm soát các quyền nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nƣớc bảo đảm quyền con ngƣời và sự phụ thuộc của các quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nƣớc. Giáo sƣ Hoàng Nam Sâm, trƣờng đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung Quốc trong bài "Khái niệm quyền con ngƣời trong truyền thống văn hóa Trung Quốc" (2002) cho rằng: "Quyền con ngƣời là những quyền cơ bản mà con ngƣời sinh ra đã đƣợc hƣởng, bao gồm trƣớc hết là quyền đƣợc sống và quyền đƣợc phát triển; sau đó là các quyền khác" [67, tr.40], chẳng hạn nhƣ "quyền đƣợc tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, trong đó quyền bình đẳng là quan trọng nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi ngƣời có thể sống nhƣ một cá nhân độc lập và quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời là bình đẳng, xét trên phƣơng diện nhân phẩm" [67, tr.40]. Để có đƣợc một học thuyết về quyền con ngƣời, tác giả cho rằng phải đƣợc thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về quyền con ngƣời; thứ hai là tƣ tƣởng về quyền con ngƣời; thứ ba là quyền con ngƣời dƣới góc độ pháp lý; thứ tƣ là khái niệm quyền con ngƣời và thứ năm là học thuyết về quyền con ngƣời. Tác giả cũng khẳng định việc Trung Quốc thực hiện cải cách, mở cửa đã đƣa sự phát triển về quyền con ngƣời sang một giai đoạn mới. Bằng việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, các quyền con ngƣời của ngƣời dân Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập thể kết hợp hòa quyện với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lƣợng sản xuất, cải thiện mức sống của ngƣời dân. Bài viết "Thực tế quyền con ngƣời trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh vì quyền con ngƣời trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng định: "Quyền con ngƣời là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận xã hội mà con ngƣời giành đƣợc với tƣ cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tƣ cách là ngƣời tham dự 5 giao lƣu xã hội" [28, tr.231]. Theo tác giả, quyền con ngƣời nằm sâu trong mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội, do đó, quyền con ngƣời trƣớc hết là quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển quyền con ngƣời, sự cải thiện mối quan hệ quyền con ngƣời là quá trình lâu dài trong lịch sử, tự do và bình đẳng trừu tƣợng không phải là thƣớc đo thông dụng đối với quyền con ngƣời mà chỉ là tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của quyền con ngƣời mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc bảo đảm quyền con ngƣời và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về quyền con ngƣời cũng nhƣ các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền con ngƣời. Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu quyền con ngƣời đƣợc bắt đầu từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ là bƣớc đầu và chƣa đƣợc xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là thời gian đánh dấu sự "bùng nổ" về hoạt động nghiên cứu quyền con ngƣời ở Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu quyền con ngƣời ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thƣ về Vấn đề quyền con ngƣời và quan điểm chủ trƣơng của Đảng ta. Hiến pháp 1992, Hiến pháp của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm quyền con ngƣời đƣợc quy định tại điều 50, thể hiện sự thay đổi mang tính bƣớc ngoặt trong nhận thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự kiện này khẳng định việc đánh giá một cách chính thức của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam với vấn đề quyền con ngƣời, tạo nền tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức thực hiện bảo đảm các quyền con ngƣời ở Việt Nam. Trong Chƣơng trình "Con ngƣời, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, quyền con ngƣời đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu cấp nhà nƣớc. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc", do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về quyền con ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con ngƣời, lịch sử phát triển của quyền con ngƣời, 6 những nội dung cơ bản của quyền con ngƣời; thực trạng việc vi phạm quyền con ngƣời trên thế giới cũng nhƣ các điều kiện đảm bảo quyền con ngƣời. Từ đó đến nay, vấn đề quyền con ngƣời đƣợc nhiều học giả tập trung nghiên cứu với nhiều công trình khoa học đƣợc công bố có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trên hầu hết lĩnh vực của quyền con ngƣời, nhƣ đề tài khoa học cấp bộ "Quan điểm C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con ngƣời", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997) ; đề tài "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Quyền con ngƣời", Cao Đức Thái chủ nhiệm (1998); đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con ngƣời và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm, đề tài "Tƣ tƣởng V.I.Lênin về quyền con ngƣời", Hoàng Mai Hƣơng chủ nhiệm (2009); đề tài "Tƣ tƣởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý cơ bản", Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) . Các công trình trên đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời: nguồn gốc của quyền con ngƣời, khái niệm quyền con ngƣời, các quan điểm, luận điểm khác nhau về quyền con ngƣời trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin về quyền con ngƣời; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời cũng nhƣ các điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền con ngƣời và khẳng định: quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính giai cấp; nó là sản phẩm của phƣơng thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nƣớc và pháp luật, đƣợc bảo vệ bằng pháp luật; đƣợc thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phƣơng pháp luận cho việc triển khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về quyền con ngƣời. Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về quyền con ngƣời đã đƣợc công bố nhƣ: "Quyền con ngƣời trong thế giới hiện đại", tác giả Phạm Khiêm Ích và Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) , sách "Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên; sách tham khảo "Góp phần tìm hiểu quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Phạm Văn Khánh; sách "Triết học chính trị về quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh; "Quyền con ngƣời, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, Tuyển tập tƣ 7 liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, "Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc 9 gia" (2011) của Hội đồng Lý Luận Trung ƣơng, "Quyền con ngƣời, lý luận và thực tiễn" (2014) của Viện nghiên cứu quyền con ngƣời,... Mặc dù cách tiếp cận và phân tích có khác nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái niệm quyền con ngƣời, bản chất đặc trƣng của quyền con ngƣời, nội dung các quyền cơ bản của con ngƣời cũng nhƣ các điều kiện, cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời... Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn giáo trình giảng dạy về quyền con ngƣời. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về quyền con ngƣời" do Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con ngƣời" của Khoa luật, Đại học quốc gia (2009)... Mặc dù cách tiếp cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung, các giáo trình này đều tập trung giới thiệu về những vấn đề lý luận của quyền con ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con ngƣời; đặc trƣng cơ bản của quyền con ngƣời; nội dung cơ bản của quyền con ngƣời; sự phát triển quyền con ngƣời trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về quyền con ngƣời; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về quyền con ngƣời; quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con ngƣời; phân tích các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm quyền con ngƣời, trong đó nhấn mạnh "Ngày nay, quyền con ngƣời đã đƣợc quốc tế hóa về nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con ngƣời. Tuy nhiên, việc bảo đảm các quyền con ngƣời hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong khuôn khổ quốc gia, trong thẩm quyền pháp lý của các nhà nƣớc" [77, tr.126]. Vì vậy, các quốc gia đều có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền con ngƣời theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám sát quốc tế và phải tuân thủ các công ƣớc mà quốc gia đã ký kết, gia nhập... *Những nghiên cứu về giáo dục quyền con người 8 Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đối với việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền nhƣ đã trình bày trên đây, việc nghiên cứu về vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các nhà nghiên cứu, các học giả, các chuyên gia trên thế giới và trong các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ở phạm vi quốc tế, các công trình nghiên cứu về giáo dục quyền con ngƣời đáng kể nhất phải kể đến những tài liệu, hƣớng dẫn về giáo dục quyền con ngƣời của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc nhƣ: Cuốn “Sử dụng ABC: giảng dạy về quyền con ngƣời, các hoạt động thực tiễn cho các trƣờng phổ thông (cấp I và cấp II)” xuất bản năm 2003 với nội dung giáo dục những kiến thức cơ bản, sơ khai về nhân quyền cho học sinh cấp tiểu học và những hiểu biết ở mức bảo vệ nhân quyền cho học sinh cấp trung học cơ sở; Năm 1999 Trung tâm quốc gia về giáo dục pháp luật, thuộc Đại học Warwick, Anh đã xuất bản cuốn “Giảng dạy nhân quyền” với nội dung lồng ghép giáo dục nhân quyền với giáo dục pháp luật; Đến năm 2000, Hội đồng Anh xuất bản ba tập sách với nội dung về: Giáo dục công dân và giáo dục nhân quyền. Ở Việt Nam, trong vấn đề giáo dục quyền con ngƣời hiện nay vẫn chủ yếu gắn với giáo dục pháp luật, do đó, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề trên, có thể liệt kê những tác phẩm, công trình nghiên cứu nhƣ: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc Đƣờng; "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con ngƣời mới" của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa học cấp nhà nƣớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nƣớc - Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo 9 dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp; "Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít ngƣời" đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Thực trạng và phƣơng hƣớng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nƣớc ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng… Ở góc độ riêng về giáo dục quyền con ngƣời thời gian gần đây có một số công trình nghiên cứu điển hình nhƣ: "Giáo dục nhân quyền hƣớng tới thế kỷ XXI" của Tƣờng Duy Kiên (Tạp chí Thông tin Khoa học thanh niên, số 4, 1997); Chuyền đề “Nghiên cứu giảng dạy về quyền con ngƣời” (Thông tin Quyền con ngƣời, số 3, 2009); Chuyên khảo “Giáo dục quyền con ngƣời, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (Viện khoa học xã hội Việt Nam, năm 2010); Báo cáo khoa học tổng quan đề tài cấp cơ sở “Giáo dục quyền con ngƣời_lý luận, thực tiễn Quốc tế và Việt Nam” do Ths. Nguyễn Văn Tuấn làm chủ nhiệm đề tài (Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật năm 2010)… Những công trình nghiên cứu trên là đóng góp to lớn cho nền giáo dục quyền con ngƣời của Việt Nam. Nhƣ vậy, trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời. Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của quyền con ngƣời, về tổ chức và hoạt động của chƣơng trình giáo dục về quyền con ngƣời… Vì thế, các công trình này là nguồn tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời, khóa luận bƣớc đầu khảo cứu thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của khóa luận 10 Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời. Bƣớc đầu khảo sát thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1: Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời hiện nay. 4.2: Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, bao gồm: thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục về quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất, luận chứng một cách khoa học phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giáo dục về quyền con ngƣời ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận 5.1: Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay. 5.2: Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung vào nghiên cứu khái niệm quyền con ngƣời và lịch sử phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam chủ yếu khảo cứu qua các chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ thông và đại học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Khóa luận góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời 11 Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những vấn đề có liên quan đến đề tài, đồng thời làm tài liệu tham khảo bổ ích cho việc giảng dạy và nghiên cứu trong những bình diện có liên quan. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc chia làm 2 chƣơng, 5 tiết. 12 NỘI DUNG Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 1.1: Khái niệm quyền con người, quyền công dân 1.1.1: Khái niệm quyền con người Nhận thức về quyền con ngƣời là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài ngƣời, là giá trị tinh thần quý giá của nền văn minh nhân loại. Khái niệm “quyền con ngƣời” (Human Rights) xuất hiện đầu tiên ở phƣơng Tây thế kỷ XVII - XVIII. Trong một số tác phẩm của các nhà tƣ tƣởng nhƣ J.J. Rousseau, T. Hobbes, J. Locke.v.v.. đã đề cập đến khái niệm này. Sau đó khái niệm này đã đƣợc cụ thể hóa trong một số văn bản có tính chất pháp lý của một số quốc gia nhƣ: Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về quyền con ngƣời và quyền công dân ở Pháp năm 1789,v.v… Cuối cùng quyền con ngƣời cũng trở thành vấn đề quốc tế mà các quốc gia cùng quan tâm và bảo hộ khi hàng loạt các điều ƣớc quốc tế ghi nhận. Khái niệm quyền con ngƣời có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dƣới dạng các quyền tự nhiên của con ngƣời nhƣ quyền đƣợc sống... Dƣới chế độ chiếm hữu nô lệ, ngƣời nô lệ không đƣợc coi là con ngƣời, không có và không đƣợc thừa nhận các quyền con ngƣời. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bƣớc tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con ngƣời. Giai cấp tƣ sản là giai cấp đầu tiên nêu ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng các tƣ tƣởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động để tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con ngƣời, “quyền tƣ hữu thiêng liêng”. Khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên đƣợc chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng nhƣ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con ngƣời và quyền công dân của Pháp 1789, Tuyên ngôn cộng sản 1848... Quyền con ngƣời (Nhân quyền) là những quyền tự nhiên của con ngƣời và không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Trong “Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, đã khẳng định: “…tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng… tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể 13 xâm phạm đƣợc, trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự do, và quyền mƣu cầu hạnh phúc” [73, tr.15]. Nhƣ vậy, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể đƣợc coi là sự xác nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nƣớc về quyền con ngƣời trong lịch sử phát triển của quyền con ngƣời. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho rằng: Nƣớc Mỹ - đó là nơi: “Lần đầu tiên xuất hiện ý tƣởng về một nƣớc cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã đƣợc công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng Châu Âu thế kỷ XVIII” [53, tr.65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản hiến pháp của Mỹ năm 1787. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của các quốc gia dân tộc trên thế giới cũng nhƣ của toàn thể cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, một tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản “Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc” ngày 24 -10 – 1945 với mục đích và nhiệm vụ chính là vì vấn đề con ngƣời trên phạm vi toàn cầu. Sau 3 năm thành lập, tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã công bố bản “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền”. Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện quốc tế về nhân quyền đƣợc công bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về quyền con ngƣời. Tuy vậy giai cấp tƣ sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, mà chƣa chú trọng quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để ngƣời lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột. Cách mạng tháng 10 Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con ngƣời: đó là các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, các nƣớc XHCN đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản nhƣ bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, đƣa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về quyền con ngƣời. Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của loài ngƣời, nội dung các quyền con ngƣời tiếp tục phát triển. Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng và bảo đảm quyền con ngƣời đã có một lịch sử truyền thống lâu đời, gắn liền với quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân 14 tộc. Tuy nhiên, vấn đề quyền con ngƣời mới thực sự đƣợc đề cao và xem trọng cho đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lúc này vấn đề quyền con ngƣời đã đƣợc chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia. Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con ngƣời. Tiếp đó là các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con ngƣời, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ: Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân. Đặc biệt khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên đƣợc đƣợc đƣa vào Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) trong một chế định cụ thể. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, “quyền con ngƣời” là phạm trù lịch sử có quá trình hình thành, phát triển, phản ánh những quy luật vận động khách quan của con ngƣời và là thành quả của quá trình đấu tranh lâu dài trong lịch sử. Mỗi thời đại, nhân dân lao động và các dân tộc đều phải trải qua sự đấu tranh, hy sinh cũng vì quyền con ngƣời. Vấn đề quyền con ngƣời luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội và tiến bộ của nhân loại. Lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời tùy thuộc vào từng hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà vấn đề quyền con ngƣời cũng đƣợc lý giải và thực hiện theo nhiều cấp độ khác nhau. Quan niệm thứ nhất bắt nguồn từ chỗ coi con ngƣời là một thực thể tự nhiên, nên quyền con ngƣời phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là quyền con ngƣời, quyền lợi của con ngƣời với tƣ cách là ngƣời, gắn liền với cá nhân con ngƣời, không thể tách rời. Quan điểm này đƣợc các đại biểu tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản ở thế kỷ XVII, XVIII nhƣ Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên. Trƣờng phái này cho rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nƣớc. Xuất phát từ quan điểm này, Jacques Mourgon (giáo sƣ đại học khoa học xã hội Toulouse) đƣa ra định nghĩa: "Quyền con ngƣời là những đặc quyền đƣợc các quy tắc điều 15 khiển mà con ngƣời giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với chính quyền" [42, tr. 12]. Quan niệm thứ hai lại chỉ đặt con ngƣời và quyền con ngƣời trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con ngƣời chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó chỉ đƣợc xác định trong mối tƣơng quan với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó đƣợc chế độ nhà nƣớc, pháp luật điều chỉnh bảo vệ. Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con ngƣời là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con ngƣời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con ngƣời là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con ngƣời cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con ngƣời ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định. Quan niệm thứ ba là quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề quyền con ngƣời. Xuất phát từ quan niệm coi con ngƣời vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng con ngƣời: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [60, tr. 12]. Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con ngƣời là "động vật xã hội có khả năng tái sinh ra con ngƣời, con ngƣời là động vật cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa” [60, tr. 855]. Do đó, về mặt này quyền con ngƣời trƣớc hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con ngƣời không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nƣớc mà quyền con ngƣời trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, đƣợc thể hiện ở quyền đƣợc sống, quyền tự do, quyền đƣợc sáng tạo, phát triển, quyền đƣợc đối xử nhƣ con ngƣời, xứng đáng với con ngƣời. Xét về mặt xã hội, con ngƣời mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự nhiên, nhƣng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con ngƣời đã sống thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cƣơng thứ VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan