Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quy trình sản xuất tin của Thông tấn xã Việt Nam - Những thành công và hạn chế...

Tài liệu Quy trình sản xuất tin của Thông tấn xã Việt Nam - Những thành công và hạn chế

.PDF
141
152
136

Mô tả:

Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn *** NGUYỄN VŨ THÀNH ĐẠT QUY TRÌNH SẢN XUẤT TIN CỦA THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM - NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học Mã số: 60.32.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hào TP. Hồ Chí Minh, 12/2011 2 BẢNG CHÚ THÍCH CHỮ VIẾT TẮT ASEAN : Association of Southeast Asia Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á BLĐ : Ban Lãnh đạo cơ quan Thông tấn xã Việt Nam BBT-SX BBT TKT : Ban Biên tập - Sản xuất : Ban Biên tập tin Kinh tế BBT TTN : Ban Biên tập tin Trong nước CQĐD ĐBSCL : Cơ quan đại diện : Đồng bằng sông Cửu Long Đ/c, đ/c HĐND : Đồng chí : Hội đồng nhân dân QLPXĐP, QLPX : Quản lý phân xã địa phương, Quản lý phân xã TBB : Tin bản báo TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh TTXVN, TTX : Thông tấn xã Việt Nam, Thông tấn xã TTXGP TW : Thông tấn xã Giải phóng : Trung ương UBND : Uỷ ban nhân dân UBTWMTTQVN VĐV : Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam : Vận động viên VNTTX : Việt Nam Thông tấn xã 3 MỤC LỤC MỤC LỤC ------1 MỞ ĐẦU ------6 1. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ------6 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ------7 3. Tình hình nghiên cứu đề tài ------8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------9 5. Phương pháp nghiên cứu ------9 6. Cấu trúc luận văn ------10 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIN VÀ LÀM TIN HIỆN ĐẠI ------11 1.1. Quan niệm tin tức và xu thế làm tin hiện đại 1.1.1. Quan niệm về tin tức ------11 ------11 1.1.1.1. Định nghĩa tin tức ------11 1.1.1.2. Tiêu chí của tin tức ------13 1.1.2. Giá trị của tin ------14 1.1.3. Xu thế làm tin hiện đại ------15 1.1.3.1. Ngắn gọn ------15 1.1.3.2. Cấu trúc hiện đại ------17 1.1.3.3. Giảm tính lễ tân ------18 1.1.3.4. Phản hồi của công chúng (feedback) ------18 1.2. Một số vấn đề làm tin hiện đại ------20 1.2.1. Tin bản báo - thuộc tính chuyên nghiệp của nhật báo ------20 1.2.2. Công nghệ làm tin ------22 1.2.2.1. Định hướng nội dung tin hiện đại ------22 1.2.2.2. Thông tin theo đối tượng công chúng ------24 4 1.2.2.3. Cách thức đăng tải tin tức ------24 1.2.3. Phong cách làm tin hiện đại ------26 1.2.4. Nhiệm vụ của nhà báo trong báo chí hiện đại ------29 1.3. Sự cần thiết phải xây dựng Quy trình sản xuất tin của TTXVN -31 1.3.1. Tin TTXVN trong xu thế hiện đại ------31 1.3.2. Khuynh hướng làm tin TTXVN trong xu thế hiện đại ------34 1.3.3. Xây dựng Quy trình sản xuất tin trên cơ sở lý thuyết tin hiện đại Tiểu kết chương 1 ------35 ------36 Chương 2: CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO VÀ THỰC HIỆN QUY TRÌNH SẢN XUẤT TIN CỦA TTXVN 2.1. Lược sử về quá trình sản xuất tin của TTXVN ------38 ------38 2.1.1. Thời kỳ 1945 - 1954 ------38 2.1.2. Thời kỳ 1945 - 1954 ------41 2.1.2.1. Giai đoạn 1955 - 1965 ------41 2.1.2.2. Giai đoạn 1965 - 1975 ------42 2.1.3. Thời kỳ từ 1975 đến nay ------43 2.2. Đặc điểm sản phẩm tin TTXVN trong suốt quá trình lịch sử ----48 2.3. Quy trình sản xuất tin của TTXVN ------49 2.3.1. Các bộ phận, cá nhân chủ yếu tham gia vào Quy trình sản xuất tin ------49 2.3.1.1. Ban Thư ký Biên tập ------49 2.3.1.2. Ban Biên tập tin Trong nước ------49 2.3.1.3. Ban Biên tập tin Kinh tế ------51 2.3.1.4. Phòng Quản lý phân xã địa phương ------52 2.3.1.5. Phân xã ở trong nước, phóng viên thường trú 5 và trưởng phân xã ------52 2.3.2. Công tác chỉ đạo, tổ chức xây dựng Quy trình sản xuất tin---55 2.3.2.1. Những quan điểm cơ bản ------55 2.3.2.2. Mở rộng nguồn thông tin ------56 2.3.2.3. Tăng cường và hiện đại hóa cơ sở kỹ thuật - công nghệ thông tin ------57 2.3.3. Các công đoạn trong Quy trình sản xuất tin của TTXVN -----58 2.3.4. Phối hợp trong công tác thông tin về tình hình trong nước --64 2.3.4.1. Ban Biên tập tin Trong nước ------64 2.3.4.2. Ban Biên tập tin Kinh tế ------65 2.3.4.3. Những trường hợp khác ------66 2.3.4.4. Phối hợp bảo đảm thống nhất nội dung thông tin ------68 2.3.5. Hợp tác với các hãng thông tấn nước ngoài ------69 2.3.5.1. Hợp tác với Thông tấn xã Tân Hoa Trung Quốc ------70 2.3.5.2. Hợp tác với Thông tấn xã Pathét Lào ------70 2.3.5.3. Hợp tác với Thông tấn xã Campuchia ------71 2.3.5.4. Hợp tác với Thông tấn xã Quốc gia Rumani ------71 2.3.5.5. Hợp tác với Hãng Thông tấn Kyodo News của Nhật Bản-72 2.3.5.6. Hợp tác với Thông tấn Quốc gia Indonesia ------73 2.3.5.7. Hợp tác với Thông tấn xã YONHAP của Hàn Quốc ------73 2.4. Hoạt động nghiệp vụ của phân xã, phóng viên và biên tập viên trong quá trình thực hiện Quy trình sản xuất tin ------74 Tiểu kết chương 2 ------79 Chương 3: THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA QUY TRÌNH SẢN XUẤT TIN ------81 3.1. Tình hình thực tế của việc thực hiện Quy trình sản xuất tin -----81 6 3.1.1. Dự kiến thông tin hàng ngày ------81 3.1.1.1. Yêu cầu dự kiến thông tin ------81 3.1.1.2. Quá trình dự kiến thông tin ------82 3.1.2. Tin, bài không sử dụng ------84 3.1.3. Quy trình sản xuất tin trong những trường hợp thông tin đặc biệt 3.1.3.1. Trường hợp tin “nóng” ------87 ------88 3.1.3.2. Phối hợp tác nghiệp giữa các phóng viên phân xã trong trường hợp đột xuất ------91 3.1.3.3. Tác nghiệp tại các giải đấu thể thao quốc tế ------94 3.1.4. Quá trình tác nghiệp của phóng viên phân xã ------97 3.1.4.1. Phóng viên phân xã thường trú tại miền núi, vùng cao ---97 3.1.4.2. Một ngày của trưởng phân xã kiêm phóng viên phân xã -100 3.2. Thành công và hạn chế của Quy trình sản xuất tin 3.2.1. Thành công -----103 -----103 3.2.1.1. Những chuyển biến tích cực của thời sự trong nước -----103 3.2.1.2. Sự nhiệt tình của phóng viên trong quá trình tác nghiệp -----105 3.2.1.3. Thành công từ việc thực hiện hiệu quả các khâu trong Quy trình sản xuất tin 3.2.2. Hạn chế -----107 -----110 3.2.2.1. Những bất cập trong công tác thông tin -----110 3.2.2.2. Hạn chế thể hiện trên sản phẩm thông tin -----112 3.2.2.3. Câu chuyện điểm định mức -----114 3.2.2.4. Ranh giới hình thành giữa mạng lưới các phân xã trong nước -----115 7 3.2.3. Liên hệ với Quy trình sản xuất tin với một số cơ quan báo chí, hãng thông tấn quốc tế -----116 3.2.3.1. So sánh Quy trình sản xuất tin của TTXVN với các cơ quan báo chí khác -----116 3.2.3.2. Dây chuyền truyền thông CNN -----119 3.3. Một số đề xuất để xây dựng một Quy trình sản xuất tin lý tưởng -----121 3.3.1. Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả Quy trình sản xuất tin -----121 3.3.2. Nâng cao hiệu quả khâu dự kiến thông tin -----122 3.3.3. Tăng cường công tác phóng viên ở phân xã và khâu biên tập -----124 3.3.4. Phối hợp để nâng cao chất lượng và cạnh tranh thông tin---125 3.3.5. Tổ chức công tác biên tập cho các phân xã khu vực phía Nam -----129 3.3.6. Vai trò của việc thẩm định, nhận xét tin, bài -----130 Tiểu kết chương 3 -----132 KẾT LUẬN -----134 TÀI LIỆU THAM KHẢO -----137 8 MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài TTXVN là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng thông tấn trong việc phát tin, văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước; cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước; thu thập, phổ biến thông tin bằng các loại hình báo chí phục vụ đối tượng có nhu cầu ở trong, ngoài nước. Với 63 phân xã tại tất cả các tỉnh, thành trong nước và 27 phân xã nước ngoài ở cả 5 châu lục, một ưu thế mà không một cơ quan báo chí nào của Việt Nam sánh được, phóng viên của TTXVN luôn theo sát mọi sự kiện trong nước và quốc tế, để đáp ứng tính kịp thời, nhanh nhạy của thông tin. Trong bối cảnh hiện đại, báo chí cũng có nhiều đổi mới để phù hợp với xu thế, với thị hiếu của công chúng tiếp nhận, đặc biệt là thể loại tin. Phong cách tin hiện đại đã tỏ rõ sức mạnh thông tin của mình, đồng thời thể hiện tư duy báo chí thức thời, tất cả vì cái mới. TTXVN được coi là “ngân hàng tin” thì đương nhiên phải hiểu rõ điều này, và do vậy, việc hoàn thiện cách thức cũng như các bước để tạo ra một sản phẩm tin càng trở nên cấp thiết và mang tính quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của tin TTXVN. Thực tế thì từ nhiều năm nay, BBT TTN của TTXVN cũng có phổ biến về một số quy định về công tác biên tập, công tác phóng viên, hay các cuộc họp bàn về việc đổi mới cách thức sản xuất tin để đảm bảo các yêu cầu của tin hiện đại. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn rời rạc, chưa đảm bảo tính thống nhất trong quá trình làm tin của đội ngũ phóng viên, biên tập viên TTXVN. Từ đây, vấn đề đặt ra là cần thiết phải xây dựng một Quy trình sản xuất tin thống nhất, hoàn chỉnh cho TTXVN. Quy trình này cần được xây dựng trên cơ sở lý thuyết, thực tiễn tin hiện đại và có thể đổi mới một cách linh hoạt để thích ứng với nhiều trường hợp trong từng thời điểm. Lâu nay, chính hệ thống các ban biên tập tin trong nước, kinh tế, thế giới, đối ngoại, với đội ngũ đông đảo phóng viên, biên tập viên là một trong những sức mạnh to lớn tạo nên thành công của TTXVN. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu quy trình sản xuất tin, đồng thời phân tích, đánh giá những sản phẩm tin của TTXVN là một 9 việc làm tổng quan để nhìn nhận đúng đắn và sâu rộng hệ thống thông tin đối với một cơ quan phát ngôn chính thức của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó cũng thấy được vị trí lịch sử trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ngay từ ngày đầu thành lập (15/9/1945) và vai trò, nhiệm vụ lớn lao của TTXVN trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay. Xuất phát từ sự gợi ý của cán bộ hướng dẫn là PGS.TS. Vũ Quang Hào, bản thân là phóng viên Báo ảnh Việt Nam thuộc TTXVN, nhận thấy yêu cầu cấp thiết phải khai thác những ưu thế của tin hiện đại, những cách thức sản xuất tin áp dụng cho TTXVN - một cơ quan thông tấn báo chí chính thống của Đảng, Nhà nước - để luôn phù hợp với xu thế báo chí hiện đại, người viết quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Quy trình sản xuất tin của Thông tấn xã Việt Nam - Những thành công và hạn chế” làm Luận văn Thạc sĩ ngành Báo chí học khóa 2008-2011, khoa Báo chí & Truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn trình bày lý luận báo chí về tin hiện đại, mang đến một cái nhìn mới về cách thức sản xuất, xu thế phát triển của tin hiện đại so với tin truyền thống. Thể hiện tính ưu việt của tin hiện đại thực sự phù hợp với tình hình báo chí hiện nay ở nước ta và cần thiết phải có sự thích ứng cùng với nền báo chí hiện đại. Qua nghiên cứu thực tiễn trên hệ thống tin trong nước của TTXVN, đặt trong bối cảnh làm tin theo xu thế mới, luận văn sẽ cung cấp một cái nhìn biện chứng về tin hiện đại cho phóng viên, biên tập viên. Từ đó, quá trình tác nghiệp, sản xuất tin của đội ngũ phóng viên, biên tập viên TTXVN sẽ ngày càng hoàn thiện và chuyên nghiệp hơn. Những thành công và hạn chế được nêu ra sẽ là cơ sở để Quy trình sản xuất tin của TTXVN ngày càng trở nên tối ưu, đảm bảo tính thống nhất và độ tin cậy, chính xác về chất lượng của một cơ quan thông tấn báo chí lớn nhất Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Qua nghiên cứu, xây dựng Quy trình sản xuất tin của TTXVN, luận văn nhắm đến mục đích tìm ra được những mặt thành công và hạn chế của quy trình này. Từ đây, có thể góp phần phát huy những thành công, duy trì tính ưu việt của quy trình, 10 đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập để quy trình luôn không ngừng hoàn thiện, hướng tới một Quy trình sản xuất tin lý tưởng, đáp ứng yêu cầu hoạt động của TTXVN nhằm thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ. Việc phân tích, đánh giá Quy trình sản xuất tin trên cơ sở lý luận báo chí truyền thông, đặc biệt là tin hiện đại còn có thể giúp phóng viên TTXVN từng bước hoàn thiện kỹ năng chuyên môn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của tin TTXVN. Luận văn có nhiệm vụ tổng hợp những lý luận, thực tiễn quá trình sản xuất tin thông tấn để mang đến cái nhìn tổng quan nhất về Quy trình sản xuất tin của TTXVN, về những thành công và hạn chế cũng như tính ưu việt và sự bất cập trong quy trình. Mặt khác, luận văn cũng nghiên cứu lý luận tin hiện đại, khảo sát hệ thống tin trong nước được phát trên mạng TTXVN, thực tiễn sản xuất tin của TTXVN để xây dựng một Quy trình sản xuất tin hoàn chỉnh, thống nhất. 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã có một số khóa luận, luận văn, các tài liệu nghiên cứu về tin TTXVN, về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả tin TTXVN; một số tài liệu về cách thức sản xuất tin của TTXVN, các hình thức thể hiện, xu thế phát triển của tin hiện đại. Có thể kể ra các tài liệu sau: - Năm 1995, sinh viên Hồ Hương Giang, Khoa Báo chí - Đại học Tổng hợp Hà Nội đã thực hiện khóa luận tốt nghiệp đại học mang tên “Quá trình xử lý tin quốc tế vào Việt Nam và sự thể hiện trên mặt báo của tin quốc tế”. - Luận văn thạc sĩ của Lê Huy Nam: “Tương đồng và dị biệt giữa tin phát thanh truyền thống và phát thanh hiện đại”, năm 2006, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. - Luận văn thạc sĩ của Trần Tiến Duẩn: “Nâng cao chất lượng tin trong nước của Thông tấn xã Việt Nam”, năm 2007, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội. Sau khi nhận đề tài, tháng 10/2010, người viết đã gặp gỡ bà Ngô Thị Hồng Thanh - Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng Nghiệp vụ Thông tấn, ông Vũ Xuân Bân - 11 Trưởng BBT TTN. Và được biết, Trung tâm Bồi dưỡng Nghiệp vụ Thông tấn không có tài liệu nào viết về Quy trình sản xuất tin của TTXVN. Nếu có liên quan cũng chỉ là những bài giảng riêng lẻ về cách làm tin thông tấn của các giáo sư, nhà báo trong các khóa bồi dưỡng, đào tạo phóng viên, biên tập viên của TTXVN. Với BBT TTN, đến 3/2006 có đặt ra “Một số quy định về công tác biên tập của Ban Biên tập tin Trong nước”. Tuy vậy, tài liệu này chỉ gồm 2 trang, viết một cách giản lược về công tác biên tập, trực tin, cách thức phát tin của các phòng biên tập trong BBT TTN. Trung tâm Dữ kiện - Tư liệu thuộc TTXVN cũng không có tài liệu nghiên cứu về Quy trình sản xuất tin của TTXVN. Nhiều bài viết của các nhà báo lão thành, phóng viên kỳ cựu từng công tác tại TTXVN có đề cập về một khâu nào đó trong quá trình làm tin TTXVN, nhưng còn rời rạc, chưa đặt vấn đề cụ thể về việc xây dựng quy trình sản xuất tin, chưa nói đến việc nghiên cứu sâu. Như vậy, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề này. Và có thể khẳng định luận văn “Quy trình sản xuất tin của Thông tấn xã Việt Nam Những thành công và hạn chế” sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về Quy trình sản xuất tin của TTXVN dưới góc độ báo chí học để đánh giá ý nghĩa, tầm quan trọng của quy trình sản xuất tin trong hệ thống hoạt động của TTXVN. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thực trạng sản xuất tin hiện nay của TTXVN, các tài liệu liên quan đến Quy trình sản xuất tin của TTXVN. Khảo sát tư liệu tin phát trên mạng TTXVN trong thời gian 6 tháng từ 1-6/2010; khảo sát cách thức sản xuất tin của các loại hình báo chí khác ở trong nước, các hãng tin quốc tế để so sánh, đối chiếu với Quy trình sản xuất tin của TTXVN. Nghiên cứu lý luận, thực tiễn về cách thức, xu thế làm tin hiện đại. Đồng thời, đánh giá, phân tích, rút ra những thành công, hạn chế từ Quy trình sản xuất tin của TTXVN. 5. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; cơ 12 sở lý luận báo chí truyền thông, báo chí hiện đại; các tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, báo và tạp chí có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu của luận văn: - Phương pháp miêu tả - tổng hợp - phân tích - so sánh. - Phỏng vấn sâu. Người viết thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu với bà Ngô Thị Hồng Thanh, ông Vũ Xuân Bân; phỏng vấn, trao đổi với các trưởng phân xã, phóng viên phân xã tại địa phương về các vấn đề liên quan đến Quy trình sản xuất tin của TTXVN. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về tin và làm tin hiện đại Chương này nêu lên hệ thống về cách thức, xu thế làm tin hiện đại. Tin TTXVN nằm trong quy luật này nhưng phải luôn đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan thông tin chính thống của Đảng và Nhà nước. Từ đây sẽ là cơ sở để xây dựng một quy trình sản xuất tin hoàn chỉnh, thống nhất, tạo tiền đề cho hai chương sau. Chương 2: Công tác chỉ đạo và thực hiện Quy trình sản xuất tin của TTXVN Khái quát về quá trình làm tin cùng những đặc điểm của sản phẩm tin TTXVN qua các giai đoạn lịch sử gắn liền với cách mạng Việt Nam. Xây dựng, miêu tả Quy trình sản xuất tin của TTXVN một cách cụ thể qua các khâu thực hiện. Qua đó, nêu lên các hoạt động nghiệp vụ của phân xã, phóng viên và biên tập viên trong quá trình thực hiện quy trình. Chương 3: Thành công, hạn chế và giải pháp nâng cao hiệu quả của Quy trình sản xuất tin Phần đầu của chương là tình hình chung của việc thực hiện Quy trình sản xuất tin của TTXVN. Đây là cơ sở cho việc rút ra những thành công, hạn chế, đồng thời phân tích, đánh giá các vấn đề đã nêu để tìm cách phát huy những thành công, khắc phục hạn chế nhằm mục đích hướng đến một Quy trình sản xuất tin lý tưởng. 13 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIN VÀ LÀM TIN HIỆN ĐẠI 1.1. Quan niệm tin tức và xu thế làm tin hiện đại 1.1.1. Quan niệm về tin tức 1.1.1.1. Định nghĩa tin tức Nhà hùng biện người La Mã - Quintilianus không thể ngờ được mình đã đóng góp công lao to lớn đến thế nào cho lĩnh vực báo chí tin tức. Công thức được coi là lý thuyết căn bản nhất về tin do ông sáng tạo ra mang tên của chính ông - công thức Quintilianus: Ai làm? + Làm gì? + Ở đâu? + Để làm gì? + Khi nào? + Như thế nào?. Người ta vẫn gọi nó một cách vắn tắt như một cách thức làm tin giản lược nhất: 5W + 1H (who, what, where, why, when + how). Nhà nghiên cứu người Mỹ - Walter Lipman lại viết rằng: “Tin - không phải là sự phản ánh điều kiện xã hội, mà là bản tổng kết về những gì đập vào mắt”. Nhà xã hội học và nhà phê bình báo chí có tên tuổi Bernard Rosko thì khẳng định: “Bất kỳ một tin nào cũng có bản chất của nó. Đó là sản phẩm xã hội, phản ánh cố gắng nhận thức về những gì diễn ra trong xã hội, và đó là sản phẩm có tổ chức, phản ánh những gì các phương tiện thông tin đại chúng quyết định xử sự với xã hội”. Các nhà nghiên cứu Everett Dennis và John Merill thì đưa ra định nghĩa: “Tin là một thông báo, trong đó đưa ra cái nhìn hiện đại về thực tiễn đối với một vấn đề, sự kiện hay quá trình cụ thể. Tin phản ánh những thay đổi quan trọng đối với cá nhân hay xã hội, được đưa ra trong bối cảnh phổ biến hay điển hình. Tin được xây dựng có cân nhắc đến sự nhất trí những gì mà công chúng quan tâm, cũng như đến hạn chế bên trong và bên ngoài mà tòa soạn gặp phải. Tin là kết quả của trò chơi được lặp đi lặp lại hàng ngày để đạt được sự thỏa thuận tập thể bên trong các tòa soạn có nhiệm vụ phân loại các sự kiện diễn ra trong một khoảng thời gian cụ thể nhằm tạo nên một sản phẩm chóng hỏng. Tin là kết quả không hoàn hảo của việc đưa ra quyết định vội vàng ở tình huống chịu áp lực từ bên trong và bên ngoài” [30, tr. 8]. Như vậy, chính các sự kiện bên ngoài tạo nên tin: Tin trên báo, đài phát 14 thanh, truyền hình, tin của các hãng thông tấn. Dù là tin in hay tin điện tử, hàng ngày, hàng giờ đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin đến công chúng tiếp nhận. Giật gân, thú vị, mới mẻ, buồn đau - đó là những gì tin có thể mang lại cho người đọc. Nếu như trước đây, trên các ấn phẩm tin chỉ chiếm non nửa trang nhất, còn trên đài phát thanh và truyền hình chỉ vang lên có 2, 3 lần trong một ngày, đêm thì hiện nay tình hình báo chí hiện đại đã thay đổi với thị trường thông tin rất đa dạng về thể loại, hình thức, phương thức đưa tin. Với nhà báo Charles A.Dana - cựu Tổng Biên tập New York Sun, tin tức là bất luận sự kiện gì có thể hấp dẫn số đông người đọc mà họ chưa hề biết đến. Hay “Tin tức là sự tường trình đúng lúc về bất cứ một sự kiện gì được mọi người chú ý và tin tức có giá trị là tin làm cho nhiều độc giả chú ý nhất” - định nghĩa của F.Fraser Nond - cựu giáo sư báo chí New York University. Hiện nay, nhiều vị chủ bút của các tờ báo trên thế giới ngày càng muốn định nghĩa tin tức trong khái niệm của cái mà độc giả của họ muốn biết - mặt khác, đem tới cho độc giả cái mà họ đòi hỏi, dù cho đó là tin tức địa phương, các câu chuyện hay trận bóng đá ở trường phổ thông. Các chủ bút báo chí ngày càng phụ thuộc vào khái niệm này của tin tức để làm cho tờ báo của họ hữu ích với độc giả. Họ đang dùng một số phương pháp nhận biết những sở thích của độc giả, bao gồm các nhóm điều tra phỏng vấn, làm rõ… và hàng loạt cách thức tiếp xúc với từng độc giả để biết được quan điểm của độc giả về vấn đề họ muốn đọc trên báo. Một số biên tập viên lại định nghĩa tin tức như thông tin mà độc giả nên có và cần biết để xoay xở trong cái thế giới phức tạp và khó hiểu này. Đây là một cách tiếp cận truyền thống hơn, phụ thuộc vào sự sáng suốt của biên tập viên. Nhưng vẫn luôn có biên tập viên biết cách - rất tự nhiên - xuất bản một tờ báo mà độc giả hưởng ứng và mua nó. Trên thực tế, các khái niệm dù có thể chưa vừa ý với một số người nhưng chúng đều đề cập đến một số tính chất của tin tức. Tin tức là cái gì đó mà dân chúng quan tâm. Công chúng tiếp nhận phản ứng và bàn về các sự kiện, về những chuyện riêng tư mà họ cho là thú vị. Mọi người trông cậy vào báo chí để khám phá các sự kiện khác thường, không lặp đi lặp lại - như cuộc chính biến ở Liên bang Xô Viết 15 (năm 1991), hay thảm họa động đất kinh hoàng ngày 11/3/2011 vừa qua ở Miyagi, Nhật Bản. 1.1.1.2. Tiêu chí của tin tức Tin tức thường được xác định bởi chính các tiêu chí của nó, và các tiêu chí thường được đề cập tới gồm: Thích hợp (đúng lúc), gần với đời sống, nổi bật, có ảnh hưởng, hiếm có và là mối quan tâm của con người. Tin tức luôn luôn là một vấn đề thời sự. Từ journalism bắt nguồn từ tiếng Latinh diurnalis, có nghĩa là hàng ngày, và nghề làm báo bắt nguồn từ việc thuật lại một cách hiện thực và đúng lúc các sự kiện. Tiêu chí gần gũi với đời sống, tác động đến nhiều người luôn là quan trọng, kể từ khi con người ngày càng quan tâm hơn tới các sự kiện ở địa phương hơn là các sự kiện xảy ra ở các nơi xa. Con người cũng ngày càng quan tâm tới các sự kiện lớn và nhân vật nổi bật hơn là những chuyện không quan trọng và những người bình thường. Tính ảnh hưởng cũng là một yếu tố quan trọng của tin tức. Nhiều sự kiện ít gây ảnh hưởng trong cuộc sống của chúng ta. Đó là những chuyện xảy ra biệt lập không có kết quả. Những sự kiện khác - một cuộc bầu cử Tổng thống chẳng hạn - có thể coi là đặc biệt có ảnh hưởng. Chiến tranh Việt Nam đã từng là một chuỗi các sự kiện mà trước hết làm chia rẽ, mà sau đó làm thay đổi mạnh mẽ xã hội Mỹ. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin, tự bản thân nó là một sự kiện lớn, tiếp theo là sự tan vỡ hầu như chớp nhoáng của Liên bang Xô Viết - là một chuỗi sự kiện có ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Một sự kiện hiếm hoi thì thú vị hơn chuyện gì đó xảy ra hàng ngày. Mối quan tâm của con người cũng là một yếu tố quan trọng của tin tức. Con người bị hấp dẫn bởi những người khác và nhiều tin tức họ đọc ở báo, nghe qua đài hay xem trên tivi được tạo ra xung quanh mối quan tâm này. Một tiêu chí khác của tin tức được miêu tả trong hai khái niệm - phần thưởng tức thì và phần thưởng trả chậm. Tin tức theo kiểu phần thưởng tức thì là tin tức có ảnh hưởng ngay lập tức tới công chúng tiếp nhận. Ví dụ như kết quả của một trận bóng đá mà công chúng rất quan tâm; một câu chuyện cười gây sự chú ý của mọi người; một tin buồn một người bạn, một người quen gây sự tiếc nuối và cảm giác 16 mất mát; một câu chuyện phim gây chú ý và gây cười. Những mẩu tin dạng phần thưởng trả chậm là những tin về cải cách thuế, hoạch định chính sách, các quyết định pháp lý hay các khám phá khoa học mà có ảnh hưởng vĩ mô chứ không tức thời tới cuộc sống của độc giả. Đó là các tin tức quan trọng và nghiêm trọng, nhưng không kích thích sự hào hứng tức thời hoặc gây ra tác động cảm xúc. Đôi khi các biên tập viên nói về tin tức cứng và tin tức mềm. Tin cứng là tin tức nghiêm trọng: Các vụ cháy, các tai nạn, các vụ giết người, các thảm họa, thương vong, các kết quả của những cuộc bầu cử, các kết quả của những cuộc xung đột, hậu quả của chiến tranh, của nạn đói ở vùng cận Sahara của châu Phi. Tin cứng bao gồm tin tức về thời tiết khắc nghiệt, bão, gió lốc, động đất, lũ lụt và các thảm họa thiên nhiên khác. Tin mềm là các tin nhẹ nhàng như các câu chuyện hấp dẫn, các tin về đính hôn và đám cưới, thể thao, các hoạt động vui chơi, giải trí. 1.1.2. Giá trị của tin Tin là một trong những nhóm thể loại quan trọng hàng đầu của các loại hình báo chí. Đặc biệt, đối với TTXVN được coi là “ngân hàng tin” thì việc xây dựng một Quy trình sản xuất tin hợp lý sẽ đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng tin. Đây là vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn đòi hỏi người viết tin, người biên tập tin, người phụ trách báo luôn phải nắm bắt các vấn đề, xu thế của báo chí để có cách thức phù hợp trong quá trình tạo ra một sản phẩm tin. Giải quyết rõ ràng công việc này còn mở ra nhiều hướng đi giúp nhà báo luôn khám phá cái mới đang tiềm ẩn trong lòng các sự kiện - giá trị của tin. Tin là thể loại xung kích của báo chí, đặc biệt là báo hàng ngày, bản tin thông tấn, báo điện tử, đài phát thanh và truyền hình với 5-7 chương trình thời sự mỗi ngày (VTV1: 7 bản tin/ngày với thời lượng 45 phút/bản tin; HanoiTV: 7 bản tin/ngày với thời lượng 37 phút/bản tin). Tin đáp ứng gần như trọn vẹn nhu cầu nhận thức thời sự tức thời, cập nhật của con người. Thật có lý khi người ta ví “tin là cơm ăn, là khí thở”. Thử tưởng tượng một người nào đó bị cắt đứt mọi tin tức từ gia đình, làng xóm, đất nước, thế giới thì đời sống tinh thần của họ sẽ ra sao? Đối tượng của tin là các sự kiện cấp bách và sự kiện ổn định có tính cấp bách xảy ra hàng ngày 17 trong đời sống xã hội và thế giới tự nhiên mà con người muốn biết nhưng chưa hay biết. Tùy đặc điểm nội tại và tầm quan trọng của sự kiện, tùy thuộc phương tiện và mục đích thông tin, người ta viết tin dưới nhiều dạng khác nhau (tin thông báo, tin ngắn, tin bình, tin tường thuật, tin tổng hợp) và yêu cầu đặt ra cho mỗi dạng tin cũng không giống nhau. Các dạng tin nhằm phản ánh tức khắc thời sự cuộc sống, đáp ứng nhu cầu nhận thức hàng ngày, hàng giờ của con người về những gì xảy ra xung quanh mình. Từ chỗ nhận thức nhanh và đúng tình hình thời sự, con người sẽ có suy nghĩ đúng và hành động kịp thời để tồn tại và phát triển. Do tầm quan trọng của tin tức, công chúng kỳ vọng ở nhà báo việc phát hiện và thông báo ngay cho họ biết những vấn đề cấp bách sống còn đối với họ. Như vậy, giá trị đích thực của tin chính là tính phát hiện. Chất lượng tin chủ yếu nằm ở đó. Điều này cần được lưu ý trong Quy trình sản xuất tin của TTXVN trong khâu thu thập thông tin, đòi hỏi phóng viên thực hiện luôn có ý thức tìm yếu tố phát hiện để làm tin. Tính chiến đấu hay tác dụng của tin cũng từ tính phát hiện mà ra. 1.1.3. Xu thế làm tin hiện đại Công chúng luôn quan tâm đến thông tin báo chí mà trước hết là quan tâm đến tin. Do vậy, trong xu thế cạnh tranh nhằm giành số đông công chúng về mình, đồng thời để thích nghi với xu thế làm tin hiện đại, các loại hình báo chí, nhất là TTXVN phải luôn quan tâm đến việc nâng cao khả năng thông tin, cách thể hiện thông tin, cụ thể là Quy trình sản xuất tin. 1.1.3.1. Ngắn gọn Trong nhịp sống hiện đại, độc giả thường không có nhiều thời gian để đọc báo. Các cuộc điều tra xã hội học ở Pháp đều cho thấy rằng thời gian dành cho việc đọc báo của độc giả không có xu hướng tăng lên. Bình quân trong tổng số 6 giờ mỗi ngày dành cho việc tiếp nhận thông tin, trung bình người Pháp chỉ dành 36 phút để đọc báo. Theo thống kê của các viện thăm dò và các phòng nghiên cứu độc giả của một vài tờ báo địa phương ở Pháp thì một độc giả trung bình chỉ dành cho tờ báo khoảng 25 phút. Đó là khi tờ báo có nhiều tin tức hay. Nhìn chung, rất ít người đọc toàn bộ tất cả nội dung, từng từ, từng chữ trên một tờ báo. Trung bình độc giả ở 18 Pháp chỉ đọc chưa đến 10% diện tích tờ báo. Độc giả của tờ báo bình dân Bild (Đức) chỉ đọc 1/8 diện tích tờ báo. Tờ Le Monde (Pháp) khá hơn khi được đọc tới 20%. Còn ở Thụy Điển, bình quân mỗi người bỏ ra 17 phút để đọc báo mỗi ngày. Những con số thống kê này cho thấy một điều, tờ báo được độc giả đánh giá nhiều thông tin là tờ báo đăng được nhiều tin, làm sao độc giả chỉ đọc 10-20% diện tích tờ báo cũng cảm giác là đáp ứng được yêu cầu thông tin của họ. Như vậy, các tờ báo đều phải biên tập ngắn gọn các tin, làm sao trong một diện tích nhất định đăng được số lượng tin nhiều nhất. Theo lý thuyết tiếp nhận thông tin, độc giả thường đọc các tin, bài ngắn trước, nếu còn thì giờ hoặc thấy cần thiết thì họ mới đọc đến các tin, bài dài hơn. Tin ngắn mươi mười lăm dòng dễ thu hút sự chú ý của độc giả hơn vì không mất thì giờ lắm để hiểu được nội dung. Các báo Mỹ đã thống kê cho thấy độc giả sẽ đọc khoảng 60% tổng số các tin vắn. Các thông tin ngắn giúp độc giả có thể lướt nhanh qua tờ báo mà vẫn biết được nhiều thông tin. Thông thường họ lia mắt dọc theo cột tin vắn để xem trong đó có từ nào đáng quan tâm hay không. Đăng nhiều tin ngắn, gọn đã trở thành một xu thế chủ đạo của báo chí thế giới. Để giải quyết vấn đề này, các báo đã xây dựng các cột tin vắn, trình bày ấn tượng. Trong cuốn “Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển”, tác giả Vũ Quang Hào viết: Đối với báo chí Thụy Điển, mặc dù cột tin vắn chỉ chiếm diện tích nhỏ theo chiều đứng bên trái trang báo nhưng nó là xương sống của trang báo. Cột tin vắn đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin của độc giả. Vì vậy, dường như không một trang báo nào không có cột tin vắn. Báo chí Thụy Điển đánh giá cao vai trò quan trọng của tin vắn đối với nhu cầu thông tin của công chúng nên trong báo giới Thụy Điển đã xuất hiện một quan niệm đồng thời cũng như một yêu cầu. Đó là người làm tin vắn tốt chính là nhà báo giỏi. Nói cách khác, người làm báo được đánh giá là nhà báo giỏi bằng tiêu chí làm tin vắn như thế nào. Chính vì thế, các cơ quan báo chí Thụy Điển thường có khẩu hiệu mỗi phóng viên viết một tin vắn mỗi ngày thì tờ báo sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, nói chung, tin vắn trên báo Thụy Điển phần lớn đều do những nhà báo giỏi viết. Ở đây đòi hỏi một sự lựa chọn nghiệt ngã cả về thông tin lẫn từ ngữ. 19 Xu thế làm tin ngắn gọn để đăng được nhiều tin trên trang báo là cũng là xu thế tất yếu trong sự phát triển của báo chí Việt Nam. Nhiều tờ báo ra hàng ngày ở Việt Nam như Thanh Niên, Tuổi trẻ, Sài Gòn Giải phóng và ngay cả những tờ báo vốn được coi là “bảo thủ” như Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Hà Nội Mới đều đăng các tin vắn. Các báo đều có một cột tin vắn, thường được đóng khung và trong mỗi tin vắn thì từ hoặc câu quan trọng nhất được in đậm nhằm tạo thuận lợi cho độc giả tiếp nhận thông tin. 1.1.3.2. Cấu trúc hiện đại Hiện nay, ở Việt Nam, nhiều nhà báo và nhà nghiên cứu về báo chí vẫn đang tiếp tục đề xuất nhiều kiểu cấu trúc cho tin. Một số người vẫn tiếp tục ủng hộ quan niệm cho rằng cầu trúc của tin bao gồm các kiểu chính như cấu trúc hình tam giác thường và cấu trúc hình tam giác ngược. Trong cuốn “Các thể loại báo chí thông tấn” (Đinh Văn Hường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007), tác giả đưa ra thêm một số kiểu cấu trúc như mô hình viên kim cương, mô hình đồng hồ cát, hình chữ nhật… Nhưng thực tiễn cho thấy, hầu hết báo chí hiện nay đều dùng cấu trúc hình tam giác ngược. Đây là cấu trúc tin hiện đại vì nó phù hợp với tâm lý tiếp nhận thông tin của công chúng hiện nay. Lối viết tin theo kiểu truyền thống là lối viết sử dụng cấu trúc hình tam giác thường. Trong đó, các chi tiết trong tin được tổ chức theo trật tự tầm quan trọng tăng dần. Thông tin về bối cảnh sẽ được nêu đầu tiên, tiếp đến là những thông tin quan hệ trực tiếp đến kết quả sự kiện và cuối cùng là thông tin bản chất, quan trọng nhất của sự kiện. Cấu trúc này gây khó khăn cho cả độc giả lẫn người viết và người biên tập. độc giả khó nắm bắt được đâu là thông tin chính và bỏ mất thông tin. Người viết sẽ dễ rơi vào tình trạng viết dông dài và mất nhiều thời gian để hoàn thành tin. Người biên tập cũng gặp khó khăn vì nếu cắt gọn ngắn tin đi có thể phải sửa lại toàn bộ tin để đảm bảo tính logic. Chính vì vậy, giờ đây báo chí thường sử dụng cách viết tin hiện đại. Cấu trúc tin hiện đại là cấu trúc hình tam giác ngược gồm 2 yếu tố cơ bản: Phần mở đầu và phần thân tin. Những nội dung quan trọng nhất của sự kiện sẽ được đề cập ngay trong phần mở đầu. Những chi tiết kém quan 20 trọng hơn cùng số liệu minh họa và các thông tin khác sẽ tạo thành phần thân tin. Ở thân tin, những điều quan trọng hơn sẽ được nêu ra trước và điều ít quan trọng hơn sẽ được nêu ở sau. Cấu trúc này có lợi thế rất lớn khi giúp độc giả nắm bắt được ngay thông điệp vì những thông tin quan trọng nhất, hấp dẫn nhất được thể hiện ngay phần đầu tin. Với người viết tin cũng dễ dàng diễn đạt, còn người biên tập nếu phải cắt bỏ phần sau cũng không bị ảnh hưởng nhiều đến nội dung của tin. 1.1.3.3. Giảm tính lễ tân Sự kiện lễ tân là sự kiện liên quan đến hoạt động của các nhà lãnh đạo, thường là sự kiện quan trọng, có chứa đựng giá trị thông tin (ngầm) nhưng thường không được khai thác đúng mức mà các nhà báo thường quá coi trọng khai thác khía cạnh lễ tân, các nội dung mang tính xã giao, nghi lễ. Nhiều hoạt động không quan trọng, không đáng đưa cũng đưa tin. Khi đưa tin lại quá nhiều chi tiết về nghi lễ, về tên người và chức vụ. Xã hội càng phát triển, nhu cầu thông tin của công chúng càng cao, nhưng thời gian đọc báo, nghe đài, xem tivi không nhiều, chi phí cho mỗi trang báo, mỗi phút phát thanh, truyền hình không nhỏ, trong khi tin mang nhiều tính lễ tân đang làm cho những trang báo, chương trình phát thanh truyền hình trở nên nghèo thông tin. Một yêu cầu đặt ra từ lâu nay với tất cả phương tiện truyền thông đại chúng là làm sao với số trang và thời lượng nhất định, nâng cao được chất và lượng thông tin. Xu thế này đối với tin thông tấn càng phù hợp khi làm đơn giản hóa khâu thu thập thông tin của Quy trình sản xuất tin, giúp phóng viên có thêm thời gian khai thác các thông tin khác quan trọng hơn, đảm bảo tính hiệu quả cho sản phẩm tin. 1.1.3.4. Phản hồi của công chúng (feedback) Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, nền báo chí thế giới có nhiều chuyển đổi trên mọi phương diện. Trong các giai đoạn trước, thông tin báo chí thường mang tính hàn lâm, là thông tin tĩnh, ít chiều. Ngày nay, nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin, thông tin báo chí có những đặc thù mới: Đa chiều hơn, nhanh hơn, cô đọng hơn. Việc chuyển tải, tiếp nhận, xử lý và chi phối thông tin ngày càng có sự tham gia của đông đảo công chúng. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan