Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩ...

Tài liệu Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam (3)

.DOC
11
177
115

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Ngày 9 tháng 11 năm 1946, bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta ra đời, chính thức ghi nhận “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Trải qua hơn 60 năm, từ Nghị viện nhân dân rồi đến Quốc hội, cho dù với bất cứ tên gọi nào, trong bất kỳ thời điểm nào, Quốc hội luôn là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước ta, cơ quan đại diện cho toàn bộ nhân dân cả nước, nhận quyền lực từ nhân dân và chịu trách nhiệm trước toàn dân. Nhằm đề cao vai trò to lớn ấy của Quốc hội, em quyết định chọn đề bài Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm đề tài cho bài tập lớn lần này. Bài tập của em gồm các phần: 1, Quá trình phát triển của Quốc hội trong lịch sử lập hiến Việt Nam. 2, Cụ thể hóa quyền lực tối cao của Quốc hội qua chức năng và quyền hạn của Quốc hội theo Hiến pháp hiện hành. 2.1) Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. 2.2) Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. 2.3) Trong lĩnh vực tổ chức Nhà nước. 2.4) Trong lĩnh vực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. 3, Phương hướng hoàn thiện, nâng cao quyền lực tối cao của Quốc hội trong hệ thống chính trị. Do kiến thức còn nhiều hạn chế, không thể tránh khỏi nhữnh sai sót, mong thầy cô góp ý kiến để em có thể hoàn thiện đề tài tốt hơn. Em xin cảm ơn! 1 NỘI DUNG CHÍNH 1, Quá trình phát triển của Quốc hội trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Quốc hội trong Hiến pháp 1946 có tên gọi là Nghị viện nhân dân và “quyền cao nhất” của Nghị viện nhân dân được cụ thể hóa như sau: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.” (Điều 23) Tuy nhiên, ở thời kỳ này, do bởi tình hình chính trị - xã hội còn rất phức tạp nên quyền lực tối cao chưa hẳn đã nằm trong tay Quốc hội (Nghị viện nhân dân) mà được san sẻ qua Chủ tịch nước, cũng đồng thời là người đứng đầu Quốc hội (Nghị viện nhân dân). Đến Hiến pháp 1959 thì quyền hạn của Quốc hội được quy định một cách cụ thể hơn, không chỉ ngắn gọn như Hiến pháp 1946 là “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.” mà cụ thể hơn là: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm pháp luật; giám sát việc thi hành Hiến pháp; bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước; theo đề nghị của Chủ tịch nước quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ…; quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước, xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách Nhà nước; ấn định các thứ thuế; quyết định dặc xá; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình…Hiến pháp 1980 cũng như Hiến pháp 1959 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; Quốc hội thành lập ra các cơ quan Nhà nước tối cao và thực hiện quyền giám sát tối cao… Như vậy, về cơ bản việc cụ thể hoá quyền lực Nhà nước tối cao của Quốc hội không thay đổi. Hiến pháp 1992 tiếp thu cơ bản nội dung quyền hạn của Quốc hội trong Hiến pháp 1980 và có thêm một số bổ sung như quyết định chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, quyết định trưng cầu dân ý (Điều 84), những quy định đó cũng nhằm tăng cường tính quyền lực tối cao cũng như tính đại diện cho nhân dân của Quốc hội. 2 Nhìn chung, từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1959, về bản chất quyền lực Nhà nước của Quốc hội là không thay đổi, luôn là cơ quan có quyền lực tối cao trong bộ máy Nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia, giám sát và đảm bảo việc thực hiện những nguyên tắc do Quốc hội đặt ra đối với những cơ quan khác trong hệ thống chính trị. 2, Cụ thể hóa quyền lực tối cao của Quốc hội qua chức năng và quyền hạn của Quốc hội theo Hiến pháp hiện hành. Cần khẳng định chắc chắn rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra, nhận toàn bộ quyền lực tối cao từ nhân dân, đại diện cho ý chí của toàn dân. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội và được cụ thể hoá thành các chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trên các lĩnh vực: Lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; tổ chức Nhà nước và cuối cùng là giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. 2.1) Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. Chức năng lập hiến và lập pháp là chức năng quan trọng nhất của Quốc hội, bởi lẽ, lập hiến và lập pháp là đặt ra những nguyên tắc chung cho sự vận hành của cả một đất nước, những quy phạm pháp luật do Quốc hội đặt ra có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản nhất và có tính bắt buộc đối với toàn bộ các cơ quan khác trong hệ thống chính trị cũng như với toàn dân. Vậy nên, chỉ Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất mới có quyền lập hiến và lập pháp và ngược lại đây cũng là quyền hạn thể hiện rõ nhất tính quyền lực tối cao của Quốc hội. Quyền lập hiến của Quốc hội được hiểu là quyền ban hành các quy phạm pháp luật dưới hình thức Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định việc tổ chức quyền lực Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, cơ sở xã hội của Nhà nước, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà 3 nước, quyền hạn, trách nhiệm, cách thức hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cũng chính bởi tính chất quan trọng đặc biệt của Hiến pháp mà việc thông qua Hiến pháp không thể thuộc thẩm quyền của cơ quan nào khác ngoài Quốc hội. Quyền lập hiến còn bao gồm cả quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp cần phải tuân theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều chủ thể có các chức năng khác nhau, trong đó Quốc hội là cơ quan giữ vai trò quan trọng nhất. Cụ thể, Quốc hội là cơ quan cao nhất quyết định hình thức và nội dung của bản Hiến pháp. Sau Hiến pháp là các đạo luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội quan trọng và để cụ thể hóa các chế định trong Hiến pháp, những đạo luật này cũng phải do Quốc hội thông qua. Ở đây, khái niệm lập pháp không phải chỉ là làm luật và sửa đổi luật. Trên thực tế, đến hơn 80% các đạo luật cơ bản do Chính phủ soạn thảo và trình lên Quốc hội thông qua. Vậy nên “lập pháp” không có nghĩa là soạn thảo luật, hoạt động lập pháp của Quốc hội thực chất là hoạt động kiểm tra, giám sát sự tương thích giữa các giải pháp lập pháp do Chính phủ thiết kế với lợi ích và ngyện vọng chung của xã hội. Việc kiểm tra này dẫn đến kết quả là việc thông qua hay không thông qua các dự án luật của Chính phủ. Vậy nên, “lập pháp” là quyền thông qua luật chứ không phải là quyền soạn thảo luật. Chức năng làm luật của Quốc hội rất rộng, không bị hạn chế. Quốc hội có thể thông qua bất cứ đạo luật nào để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nào đó, nếu Quốc hội thấy rằng việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội đó bằng các quy định của luật là cần thiết. Có thể khẳng định chắc chắn rằng mọi lĩnh vực hoạt động, quản lý xã hội của Nhà nước đều phải được Quốc hội quy định thành luật. Theo đó, Quốc hội thống nhất tinh thần các đạo luật và các văn bản dưới luật, đảm bảo tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp. Bất cứ văn bản nào trái luật, vi hiến đều bị Quốc hội phủ quyết, bãi bỏ. Điều này thể hiện rõ hơn trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. 2.2) Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, đứng đầu toàn bộ các cơ quan hợp thành bộ máy Nhà nước, Quốc hội phải thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng thuộc sinh mệnh của đất nước. Đó là việc quyết định những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc tế, dân sinh; những vấn đề đối nội, đối ngoại và quốc phòng an ninh của đất nước. 4 Trong lĩnh vực kinh tế, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Quốc hội quyết định những vấn đề hệ trọng đối với vận mệnh của đất nước như quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc gia; quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; quyết định đại xá; quyết định việc trưng cầu dân ý. Quốc hội còn có nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng là quyết định chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước Quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước Quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước. Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là chức năng quan trọng thứ hai của Quốc hội sau chức năng lập pháp. Việc Quốc hội toàn quyền trong mọi lĩnh vực tối quan trọng của đất nước càng khẳng định nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong tổ chức Bộ máy Nhà nước ta, tập trung toàn bộ quyền lực vào Quốc hội, cơ quan đầu não quản lý của đất nước. 2.3) Trong lĩnh vực tổ chức Nhà nước. Quyền lực tối cao của Quốc hội không những thể hiện ở việc Quốc hội ban hành Hiến pháp, các đạo luật và việc tự mình quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước mà còn được thể hiện ở chỗ Quốc hội thành lập ra các cơ quan cao cấp khác của Nhà nước: Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ thướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê 5 chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Cùng với việc thánh lập các cơ quan Nhà nước cao cấp, Quốc hội còn ban hành ra các văn bản pháp luật quy định thẩm quyền và cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan này. Toàn bộ hệ thống cơ quan Nhà nước ta từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo mô hình nào, nguyên tắc tổ chức hoạt động ra sao đều do Quốc hội xem xét, quyết định tại các kỳ họp và được quy định cụ thể trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức toà án nhân dân, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân. Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giả thế các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Quốc hội quy định hàm cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước. Như đã nêu trên, đi cùng với quyền lập hiến, lập pháp của Quốc hội là quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội. 2.4) Trong lĩnh vực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Tính quyền lực tối cao của Nhà nước còn được thể hiện ở quyền giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân có liên quan. Hiến pháp gọi đây là quyền giám sát tối cao. 6 Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội có quyền giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động thực tiễn và trong nội dung các văn bản do các cơ quan đó ban hành. người đứng đầu các cơ quan đó đều do Quốc hội bầu ra trong số các Đại biểu Quốc hội và Quốc hội có quyền bãi miễn chức vụ của những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Các cơ quan nêu trên phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội tại các kỳ họp hoặc khi Quốc hội đề nghị và phải trả lời chất vấn trực tiếp trước Quốc hội. Phương pháp thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, bao gồm cả giám sát văn bản và giám sát hoạt động thực tiễn như sau: Quốc hội định kỳ nghe các cơ quan Nhà nước trung ương báo cáo; theo tinh thần Hiến pháp, Đại biểu Quốc hội có thể chất vấn bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không phụ thuộc vấn đề đó có hay không nêu ra trong nội dung kỳ họp, Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội còn cho chất vấn ngoài kỳ họp; giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở cơ sở, địa phương của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các hội đồng và Ủy ban của Quốc hội hoặc của Ủy ban kiểm tra đặc biệt, Ủy ban lâm thời của Quốc hội; giám sát qua việc xét đơn thư khiếu nại của nhân dân, theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuỳ thuộc nội dung vấn đề cần giám sát và đối tượng chịu sự giám sát mà Quốc hội lựa chọn những phương thức giám sát khác nhau. 3, Phương hướng hoàn thiện, nâng cao quyền lực tối cao của Quốc hội trong hệ thống chính trị. Muốn nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội trước hết cần tăng cường hơn nữa chức năng lập pháp của Quốc hội. Cần hướng Quốc hội hoạt động nhiều hơn nữa vào việc lập và quyết định chương trình xây dựng luật và pháp lệnh; xác định rõ phạm vi thẩm quyền nội dung lập pháp của Quốc hội; cần khắc phục tình trạng nghị định và pháp lệnh lạm quyền của luật trong việc điều chỉnh nhiều vấn đề quan trọng; cần thành lập các uỷ ban chuyên trách để trực tiếp soạn thảo và thẩm tra các dự án luật, không để tiếp tục tình trạng nhiều tổ chức cùng tham gia soạn thảo như hiện nay. 7 Về lĩnh vực quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Hiến pháp hiện hành hạn chế một số quyền hạn của Chủ tịch nước và Ủy ban thường vụ Quốc hội so với trước kia quy định, ví dụ như: trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền quyết định tyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và trình Quốc hội phê chuẩn, nay Hiến pháp hiện hành bãi bỏ quyền này của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đây không hẳn là một thay đổi đúng đắn bởi Quốc hội không hoạt động thường xuyên mà hoạt động theo định kỳ, việc dồn thảy quá nhiều trách nhiệm lên Quốc hội sẽ làm cho những quyết định quan trọng không thể kịp thời với nhu cầu cấp thiết của xã hội. Đây là một vấn đề rất cần xem xét lại cẩn thận. Trong việc tổ chức các cơ quan nhà nước cấp cao, Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 đã bỏ đi quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp được quyết định việc phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của Chính phủ mà để Quốc hội quyết định tại các kỳ họp. Đây là một việc làm hạn chế quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, thật sự mang lại nhiều bất cập hơn, bởi lẽ Thủ tướng Chính phủ không thể kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh đối với các thành viên Chính phủ, hơn nữa điều này cũng làm giảm đi tính trách nhiệm đối với người đứng đầu, hạn chế sự năng động trong công việc của Chính phủ. Về vấn đề giám sát của Quốc hội, trong mấy nhiệm kỳ gần đây đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động này vẫn tồn tại nhiều hạn chế, hiệu quả hoạt động chưa cao. Quốc hội cần khắc phục tình trạng chỉ giám sát theo bề rộng mà hạn chế chiều sâu. Hướng đổi mới là cần tập trung vào việc giám sát ngân sách và thực thi công vụ của các chức danh Nhà nước, đánh giá hiệu quả hạot động của các cơ quan trong sử dụng ngân sách Nha nước và nhất là giám sát để làm rõ trách nhiệm chính trị của những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Giám sát không nên chỉ dừng lại ở hoạt động chất vấn, nghe báo cáo, nhận phản ánh cử tri… mà Quốc hội cần phải chủ động tìm ra những hành vi vi hiến, vi phạm pháp luật để có biện pháp xử lý kịp thời, đúng đắn. KẾT LUẬN 8 Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất cũng là cơ quan mang trách nhiện nặng nề nhất trong hệ thống bộ máy Nhà nước ta. Chính thế cho nên, càng ngáy Quốc hội càng cần phải hoàn thiện về mọi mặt để đáp ứng đòi hỏi của xã hội và hoàn thành trách nhiệm cao cả mà nhân dân giao phó. 9 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………. 1 NỘI DUNG CHÍNH……………………………………………………… 2 1, Quá trình phát triển của Quốc hội trong lịch sử lập hiến Việt Nam…………... 2 2, Cụ thể hóa quyền lực tối cao của Quốc hội qua chức năng và quyền hạn của Quốc hội theo Hiến pháp hiện hành……………………………………………………….. 3 2.1) Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp....................................................................... 3 2.2) Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước…………….... 4 2.3) Trong lĩnh vực tổ chức Nhà nước………………………………………………… 5 2.4) Trong lĩnh vực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật………………………………………………………….. 6 3, Phương hướng hoàn thiện, nâng cao quyền lực ……………………………… ..7 KẾT LUẬN……………………………………………………………….8 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Tư pháp, Hà Nội – 2006. 2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, NXB. CAND, Hà Nội, 2008, 2009. 3. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992; năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). 4. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. 5. Luật tổ chức Quốc hội. 6. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. 7. Các website: http://www.chinhphu.vn http://www.moj.gov.vn http://www.dangcongsan.vn 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng