Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan niệm về tự do trong đạo đức học của i.kant...

Tài liệu Quan niệm về tự do trong đạo đức học của i.kant

.PDF
72
9
83

Mô tả:

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIÊN TRIẾT HỌC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ MAI HOA QUAN NIỆM VỀ TỰ DO TRONG ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA I.KANT Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn: GS.TS.Trần Văn Đoàn Hà Nội - 2010 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CỦA KANT ........................ 7 1.1. Lý tính và những nguyên tắc đạo đức......................................................... 7 1.1.1. Lý tính trong đạo đức học của Kant ........................................................... 7 1.1.2. Lý tính thiết lập những nguyên tắc đạo đức ................................................ 14 1.2. Ý chí và những nguyên tắc đạo đức .............................................................. 21 1.2.1. “Sự tự trị của ý chí” trong đạo đức học của Kant....................................... 21 1.2.2. Ý chí thiết lập những nguyên tắc đạo đức ................................................... 25 Chương 2: Ý NIỆM “TỰ DO” TRONG ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT . .. .. ...................................................................................................... ..…..31 2.1. “Tự do” và những nguyên tắc đạo đức ....................................................... 31 2.1.1. Những nguyên tắc đạo đức là cơ sở để nhận thức về “tự do” ................. 31 2.1.2. “Tự do” là cơ sở cho sự tồn tại của những nguyên tắc đạo đức ................ 43 2.1.3. “Tự do” là cơ sở cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con người ........................................................................................................................ 49 2.2. “Tự do” và những ý niệm siêu nghiệm ........................................................ 54 2.2.1. “Tự do” là cơ sở nhận thức về “sự-Thiện-tối cao” ................................... 54 2.2.2. “Tự do” là cơ sở cho “sự bất tử của linh hồn” và sự hiện hữu của “Thượng đế” ........................................................................................................... 60 2.3. Những giá trị và hạn chế trong quan niệm về “tự do” của Kant ............. 67 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 75 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong cuộc sống loài người nói chung và cá nhân nói riêng, đạo đức được coi là nền tảng thiết yếu để tạo dựng nhân cách và giá trị sống. Có thể nói rằng, đạo đức đã và đang góp phần quan trọng vào việc làm cho nhân cách và cuộc sống của con người ngày càng hoàn thiện và tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy tưởng tượng, nếu không có những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức chỉ dẫn hành vi, con người sẽ mãi chìm trong bóng đêm của thời kỳ man rợ, sống cuộc đời của những con vật không có nhân cách và đấu tranh sinh tồn theo quy luật của tự nhiên. Xã hội loài người cũng không thể phát triển và trở nên văn minh như ngày nay, nếu chỉ dựa vào những con người vô nhân cách như vậy. Chính vì thế, dù ở thời đại nào, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của đạo đức trong việc giáo dục con người về mặt nhân cách cũng như trí tuệ, nhờ đó, con người có thể đóng góp một phần công sức của mình vào việc xây dựng và phát triển xã hội. Xã hội loài người càng văn minh, đạo đức càng khẳng định được vai trò của nó trong việc giáo dục ấy, bởi đạo đức tạo ra những giá trị vĩnh hằng thúc đẩy con người không ngừng vươn lên hoàn thiện nhân cách của bản thân cũng như toàn xã hội. Như vậy, đạo đức chính là một trong những nhân tố quan trọng giúp con người không ngừng trưởng thành về mặt nhân cách cũng như trí tuệ, đồng thời tạo ra những tiền đề cơ bản để xây dựng một xã hội lành mạnh và nhân văn. Nhận thức được vai trò cải biến con người và xã hội đó của đạo đức, ngay từ rất sớm, các nhà văn, nhà thơ, nhà triết học, nhà thần học... đã bỏ ra nhiều công sức tìm tòi, nghiên cứu và bàn luận về việc thiết lập những nguyên tắc đạo đức có thể giúp ích cho cuộc sống của con người. Cụ thể, họ mong muốn tìm ra những phương thức tích cực giúp cho con người yêu thương nhau giống như yêu chính bản thân mình và cử xử với nhau cũng giống như cư xử với chính bản thân mình. Bởi họ hiểu rằng, đó là cách thức tốt nhất có thể làm cho xã hội loài người trở nên tốt đẹp và hoàn hảo giống như một thiên đường trên trần thế. Với tư cách là một triết gia sống trong thời kỳ xã hội loài người có nhiều biến động, Kant đã dành trọn cuộc đời để suy tư và trăn trở về những vấn đề đạo đức như vậy; ông viết: “Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi” [7, tr. 278]. Chính vì thế, ông đã cố công xây dựng một học thuyết đạo đức chặt chẽ và khoa học với mục đích hướng dẫn hành vi của con người vươn tới điều thiện (“sự-Thiện tối cao”). Ông bắt đầu bằng việc xét hỏi, trong cuộc sống, con người phải hành động như thế nào cho đúng? Nói cách khác, con người phải hành động theo những nguyên tắc nào? Sau đó, ông nhận ra rằng, chính những nguyên tắc nghiêm ngặt mà lý tính tạo ra mới xứng đáng để chỉ dẫn hành vi của con người, chứ không phải là những nguyên tắc xa lạ bên ngoài con người. Tuy nhiên, Kant không chỉ thiết lập những nguyên tắc đạo đức với mục đích hướng dẫn con người trong việc phân biệt đúng - sai, thiện - ác, tốt - xấu, mà còn nhằm thúc đẩy sự phát triển “nhân cách” hay “phẩm giá” của con người. Để thực hiện mục đích đó, Kant đã viện dẫn đến khái niệm “tự do” - tự do kiến tạo giá trị sống và nhân cách của con người. Và, “tự do” đã trở thành khái niệm cơ bản mà nhờ đó ông xây dựng toàn bộ đạo đức học của mình. Vì vậy, chúng ta có thể coi khái niệm “tự do” giống như một chiếc chìa khóa để khám phá đạo đức học của triết gia vĩ đại này. Trên cơ sở nhận thức được vai trò thiết yếu của đạo đức đối với cuộc sống con người; đồng thời lĩnh hội được những luận điểm cơ bản trong đạo đức học của Kant, đặc biệt là khái niệm “tự do”, tôi chọn đề tài nghiên cứu này. Tuy nhiên, tôi không có tham vọng lớn mà chỉ muốn trình bày một cách có hệ thống những luận giải của ông về nguyên tắc đạo đức (nguyên tắc thực hành), thông qua đó, trình bày quan niệm của ông về “tự do”. Để làm được điều này, tôi chủ yếu tìm hiểu trong hai tác phẩm đạo đức học cơ bản của ông, đó là, Đặt cơ sở cho siêu hình học về đạo đức và Phê phán lý tính thực hành. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, trong những năm qua, nhiều học giả đã công bố và xuất bản chính thức các công trình nghiên cứu về triết học cổ điển Đức nói chung và triết học Kant nói riêng. Trong đó, các học giả cũng dành một phần đáng kể để luận giải về đạo đức học của ông, đặc biệt khái niệm “tự do”. Cụ thể, trong cuốn I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển đức của Viện Triết học, do nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1997, các tác giả không chỉ luận giải về triết học Kant, mà còn đề cập đến những vấn đề trọng tâm trong đạo đức học của ông như, con người và tương lai của loài người, “tự do”, “quy luật đạo đức”, “đức tin”… Tương tự, trong Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIX - triết học Imanuin Cantơ của Nguyễn Văn Huyên, do nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1996, tác giả cũng đề cập một cách trực diện đến những khái niệm quan trọng trong đạo đức học của Kant như, “mệnh lệnh tuyệt đối”, “tự do”. Còn, trong Triết học cổ điển Đức: những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học của trường đại học Khoa xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà nội, do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 2005, các học giả cũng không bỏ qua cơ hội để cùng nhau bàn luận về các chủ đề chính yếu trong đạo đức học của Kant; chẳng hạn như, “bổn phận”, “trách nhiệm”, “nghĩa vụ”, “mệnh lệnh tuyệt đối”, “tự do”, “ý chí tự do”, “mục đích tự thân”, những nguyên tắc đạo đức, “hạnh phúc”, “đức tin”, ý nghĩa của học thuyết đạo đức của Kant… Tuy nhiên, theo chúng tôi, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở chỗ luận giải một cách tản mạn về một số vấn đề trong đạo đức học của Kant, chứ chưa phải là sự trình bày chặt chẽ, đầy đủ và có hệ thống; đặc biệt, các học giả chưa khai thác triệt để “tự do” vốn là khái niệm trọng tâm trong học thuyết đạo đức của ông, để từ đó làm rõ hơn nữa giá trị nhân văn mà học thuyết này mang lại cho xã hội loài người nói chung và cá nhân nói riêng. Riêng cuốn Triết học Kant của Trần Thái Đỉnh, do nhà xuất bản Văn hóa thông tin tái bản lần thứ ba năm 2005, tác giả đã trình bày khá đầy đủ và hệ thống về đạo đức học của Kant. Tác giả cũng đã dành phần lớn công sức của mình để luận giải về “tự do”. Song, ở đây, tác giả mới chỉ luận giải về mối quan hệ của “tự do” và “quy luật đạo đức”, “tự do” và “sự tự chủ”, “tự do” và đối tượng của đạo đức học (“sự Thiện hoàn hảo”), chứ chưa đi sâu phân tích nội hàm khái niệm “tự do” cũng như nguồn gốc ra đời của khái niệm này trong đạo đức học của Kant. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam đã đề cập và luận giải được những vấn đề trọng tâm trong đạo đức học của Kant. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào dành riêng cho việc luận giải về “tự do” cũng như nội hàm của nó trong học thuyết này, mà đó vẫn là sự lồng ghép với những nghiên cứu khác về Kant. Vì thế, luận văn này sẽ là sự bổ sung cho mảnh đất trống đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở phân tích những luận giải về những nguyên tắc đạo đức của Kant, luận văn muốn làm sáng tỏ quan niệm “tự do” của ông và chỉ ra những giá trị cũng như hạn chế trong quan niệm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, trình bày một cách có hệ thống những luận giải của Kant về những nguyên tắc đạo đức. Thứ hai, phân tích và làm sáng tỏ quan niệm “tự do” của Kant. Thứ ba, chỉ ra những giá trị và hạn chế trong quan niệm “tự do” của Kant. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận của luận văn Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, đi từ trừu tượng đến cụ thể. - Luận văn còn sử dụng các trích dẫn trong một số tác phẩm đạo đức học của Kant. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn đã trình bày một cách có hệ thống những luận giải của Kant về những nguyên tắc đạo đức. - Luận văn đã làm sáng tỏ quan niệm “tự do” của Kant, đồng thời chỉ ra những giá trị và hạn chế trong quan niệm này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Luận văn đã góp phần vào việc hệ thống hóa những luận giải của Kant về những nguyên tắc đạo đức và “tự do”. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu về triết học cũng như đạo đức học của Kant. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có nội dung gồm 2 chương và 5 tiết. Chương 1 NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CỦA KANT 1.1. Lý tính và những nguyên tắc đạo đức 1.1.1. Lý tính trong đạo đức học của Kant Trong lĩnh vực đạo đức, Kant là người kiên quyết phản đối chủ nghĩa duy nghiệm, bởi ông cho rằng, việc xây dựng những nguyên tắc đạo đức mà dựa vào những yếu tố cảm tính (thiện - ác, sướng - khổ, tốt -xấu, hạnh phúc…) sẽ dẫn con người đến những điều ảo tưởng và tội lỗi, thậm chí không thể phân biệt giữa đạo đức và sự vô đạo đức. Ông viết: “Thuyết duy nghiệm cắt đứt tận gốc tính luân lý của những ý đồ (chính trong những ý đồ chứ không phải chỉ trong những hành vi mới chứa đựng giá trị cao cả mà con người có thể và cần phải mang lại cho chính mình), và thay thế nghĩa vụ bằng cái gì hoàn toàn khác, đó là một lợi ích thường nghiệm được những xu hướng nói chung kín đáo theo đuổi; và thuyết duy nghiệm, do liên mình với mọi loại xu hướng (bất kể theo kiểu biểu hiện nào), hạ thấp tính người khi những xu hướng ấy được nâng lên thành phẩm giá của một nguyên tắc thực hành tối thượng; và vì lẽ những xu hướng dễ dàng chiều theo lề lối cảm tính của con người nên thuyết duy nghiệm càng nguy hiểm hơn so với thuyết thần bí vốn không bao giờ có thể tạo nên trạng thái lâu bền nơi số đông người” [7, tr. 126]. Vì thế, ông chủ trương xây dựng đạo đức học dựa trên những nguyên tắc (quy tắc) của lý tính, độc lập hoàn toàn với những yếu tố cảm tính. Vậy, chúng ta hãy tìm hiểu xem trong lĩnh vực này, ông quan niệm như thế nào về lý tính? Kant chủ yếu sử dụng khái niệm lý tính theo nghĩa là “lý tính thuần túy thực hành” trong các tác phẩm đạo đức học để phân biệt với “lý tính thuần túy tư biện” mà ông đã sử dụng trong các tác phẩm triết học trước đó. Với mục đích sử dụng đó, ông cũng muốn phân định một cách rõ ràng ranh giới mà lý tính thực hiện năng lực của nó. Theo Kant, giữa lý tính thực hành và lý tính tư biện có sự khác nhau về nhiệm vụ, mục đích và lĩnh vực hoạt động. Ông cho rằng, lý tính tư biện có nhiệm vụ thiết lập những nguyên tắc từ những dữ liệu cảm tính về sự vật với mục đích hướng tới nhận thức bản thân sự vật đó. Quá trình này được ông mô tả như sau: lý tính bắt đầu từ những dữ liệu cảm tính vốn có thể trực quan, đi đến thiết lập những khái niệm và cuối cùng, hình thành những nguyên tắc để tiến tới nhận thức các sự vật trong thế giới cảm tính. Với đặc điểm như vậy, theo Kant, lý tính tư biện chỉ có thể phát huy năng lực của nó trong lĩnh vực kinh nghiệm, tức là nhận thức bề ngoài của những đối tượng cảm tính, còn trong lĩnh vực của những “vật tự thân” thì nó hoàn toàn bị giới hạn (lý tính tư biện hoàn toàn không thể giúp con người nhận thức về “những cái thực chất đứng đằng sau các sự vật”). Ông viết: “Bên ngoài những đối tượng của kinh nghiệm, tức là liên quan đến những sự vật xét như những “Noumenen” [những Vật - tự thân], việc bác bỏ mọi nhận thức khẳng định đối với lý tính tư biện là hoàn toàn đúng đắn… Tất nhiên, lý tính này không thể mang lại cho ta bất kỳ sự mở rộng nhất định nào về nhận thức của ta đối với những đối tượng như thế, trái lại, hoàn toàn cắt đứt mọi triển vọng [nhận thức xác định] về chúng” [7, tr. 72 - 73]. Còn, lý tính thực hành có nhiệm vụ thiết lập những nguyên tắc đạo đức (những nguyên tắc thực hành) từ những châm ngôn của ý chí không phải với mục đích nhận thức các sự vật cảm tính, mà để “quy định” ý chí của con người. Ông viết: “Lý tính thuần túy là thực hành do tự nơi chính mình và mang lại (cho con người) một quy luật phổ biến được ta gọi là quy luật luân lý” [7, tr. 58]. Do đó, lý tính thực hành không làm việc với những dữ liệu cảm tính về sự vật, mà chỉ làm việc với những châm ngôn của ý chí. Ông viết: “Lý tính - vốn không thể bị đồi bại và có tính tự chế - lúc nào cũng đối chiếu châm ngôn của ý chí với ý chí thuần túy trong bất kỳ hành vi nào, nghĩa là với chính mình, bằng cách xem chính mình như là có tính thực hành một cách tiên nghiệm” [7, tr. 58]. Như vậy, trong quan niệm của Kant, lý tính thực hành là lý tính hoạt động trong lĩnh vực đạo đức (lĩnh vực thực hành) có khả năng thiết lập những nguyên tắc đạo đức quy định ý chí của con người. Ông viết: “… lý tính thuần túy có thể là thực hành, nghĩa là, có thể trực tiếp quy định ý chí mà thôi” [7, tr. 77]. Vậy, tại sao những nguyên tắc đạo đức mà lý tính thực hành thiết tạo lại được Kant coi là cơ sở quy định ý chí của con người? Trong các tác phẩm đạo đức học của mình, Kant đã luận giải rất rõ về vấn đề này. Ông cho rằng, trong quá trình thiết lập những nguyên tắc đạo đức, lý tính thực hành đã tiến hành loại bỏ toàn bộ những gì liên quan đến kinh nghiệm ra khỏi những nguyên tắc này và chỉ giữ lại hình thức thuần túy của chúng. Vì thế, những nguyên tắc này có được tính chất tiên nghiệm và vô điều kiện làm cơ sở quy định ý chí trước sự chi phối của những “ham thích sinh lý” và động cơ cảm tính bên ngoài. Kant tin rằng, những nguyên tắc hiển nhiên và chắc chắn như vậy sẽ buộc ý chí con người phải tuân theo mệnh lệnh của lý tính, nhờ đó, con người có thể làm chủ hành vi của chính mình trong mọi tình huống của cuộc sống. Ông viết: “lý tính thuần túy có thể là thực hành, nghĩa là, có thể tự mình quy định ý chí một cách độc lập với cái gì thường nghiệm - và chứng minh điều này bằng một Sự kiện (Faktum), trong đó lý tính thuần túy nơi ta tự thể hiện chính mình một cách thực hành, đó là sự tự trị tỏ rõ trong nguyên tắc cơ bản của luân lý, nhờ đó lý tính quy định ý chí trong hành động” [7, tr. 71]. Kant còn khẳng định rằng, những nguyên tắc đạo đức chỉ có thể trở thành cơ sở quy định ý chí khi mà lý tính thực hành kiên quyết loại bỏ mọi “sự pha trộn” với những yếu tố kinh nghiệm trong những nguyên tắc này, thậm chí đó là “sự pha trộn” nhỏ nhất; bởi theo ông, mọi “sự pha trộn” đều dẫn đến nguy cơ phá vỡ những nguyên tắc đạo đức cũng như “sự tự trị của lý tính”. Ông viết: “mọi cơ sở quy định của ý chí - ngoại trừ duy nhất là quy luật của lý tính thuần túy thực hành (quy luật luân lý) - đều có tính thường nghiệm, và, vì thế, với tư cách ấy, thuộc về nguyên tắc của hạnh phúc, nên tất cả chúng đều phải được tách biệt khỏi nguyên tắc tối cao của luân lý và không bao giờ được kết hợp với nó như là một điều kiện, bởi điều này sẽ phá hủy mọi giá trị luân lý, cũng giống như bất kỳ sự pha trộn thường nghiệm nào vào những nguyên tắc hình học ắt sẽ thủ tiêu mọi tính hiển nhiên vốn là điều tuyệt vời nhất trong toán học…” [7, tr. 167]; “…những tư tưởng về nghĩa vụ và quy luật luân lý nói chung không có sự pha trộn với những điều kiện thường nghiệm bên ngoài, chỉ có lý trí là duy nhất có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới trái tim con người hơn bất cứ một loại động cơ nào khác (cái mà cần đến lĩnh vực kinh nghiệm), lý trí và chân giá trị của nó xem thường những yếu tố kinh nghiệm và trở thành ông chủ của chúng; mặt khác, một học thuyết luân lý mà trong đó có sự pha trộn các động cơ cảm tính, sở thích với những khái niệm của lý tính, sẽ làm cho ý chí của chúng dao động giữa các động cơ đó (cái mà không được điều khiển bởi bất cứ nguyên tắc nào), và ngẫu nhiên dẫn chúng ta đi đến những hành động tốt, và cũng có thể thường xuyên dẫn chúng ta đi đến những hành động tội lỗi” [7, tr. 65]. Với quan niệm như vậy, Kant đã cho chúng ta thấy rằng, những nguyên tắc đạo đức mà lý tính thực hành thiết lập hoàn toàn có đủ thẩm quyền để đảm nhận vai trò là cơ sở quy định ý chí của con người. Với Kant, lý tính thực hành nhờ vào những nguyên tắc đạo đức còn có khả năng thiết lập một “thế giới siêu cảm tính” (“thế giới trí tuệ”) trong lòng thế giới cảm tính (“thế giới tự nhiên”). Ông viết: “Quy luật luân lý” “…mang lại cho thế giới của giác quan - vốn là một hệ thống về tự nhiên - hình thức của một thế giới của giác tính, tức là của một hệ thống siêu-cảm tính về tự nhiên mà không hề vi phạm đến cơ chế [máy móc] của thế giới cảm tính” [7, tr. 73]. Theo ông, đó là thế giới thuần túy của lý tính và những nguyên tắc đạo đức mà nó thiết lập, độc lập hoàn toàn với những động cơ hay quy luật của thế giới cảm tính. Mặc dù vậy, “thế giới siêu cảm tính” vẫn được coi là cơ sở (nguyên nhân) quy định sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới cảm tính. Chính vì thế, Kant gọi “thế giới siêu cảm tính” là “thế giới nguyên mẫu”, còn thế giới cảm tính là “thế giới bản sao”. Đến đây, chúng ta thấy rằng, lý tính thực hành hoàn toàn không quan tâm đến việc mô tả thuộc tính của các sự vật để nhận thức về chúng, mà chỉ chuyên tâm vào việc tìm kiếm cơ sở tận cùng (nguồn gốc nguyên thủy) của các sự vật đó. Ông viết: Lý tính thực hành “không đòi hỏi phải giải thích làm sao những đối tượng của quan năng ham muốn lại có thể có được” [7, tr. 76], mà “làm sao nó có thể là một cơ sở quy định trực tiếp của ý chí, tức là, của tính nhân quả của hữu thể có lý tính về phương diện tính hiện thực của những đối tượng” [7, tr. 75]. Theo đó, cũng có thể nói rằng, lý tính thực hành có khả năng dẫn dắt con người nhận thức về “những cái thực chất đứng đằng sau các sự vật”, tức là xâm nhập vào lĩnh vực “vật tự thân”. Đó là điều mà lý tính tư biện dù có nỗ lực cũng không thể làm được. Hơn thế, Kant cho rằng, lý tính thực hành nhờ vào những nguyên tắc đạo đức còn có thể dẫn dắt con người đi tới nhận thức về những “ý niệm siêu nghiệm” - “sự Thiện-tối cao”, “sự tự do”, “sự bất tử của linh hồn” và “Thượng đế”. Theo ông, đó là đặc quyền của lý tính thực hành; bởi lẽ, lý tính tư biện chỉ dựa vào những yếu tố kinh nghiệm không thể giúp con người nhận thức trọn vẹn về các đối tượng cảm tính, đặc biệt là về những ý niệm tối cao như vậy. Ông viết: “… mọi nguyên tắc của lý tính thuần túy tư biện ấy chỉ có giá trị để làm cho kinh nghiệm có thể có được, hoặc là kinh nghiệm về những đối tượng đã được cho, hoặc về những đối tượng có thể được mang lại một cách vô tận (ad infinitum) nhưng không bao giờ được mang lại một cách trọn vẹn” [7, tr. 76]; vì thế, “…không bao giờ có thể được dùng cho một Lý thuyết (Theorie) về những Hữu thể - siêu cảm tính, và do đó, về phương diện này, chúng hoàn toàn không có khả năng làm cơ sở cho một nhận thức tư biện, và sự sử dụng chúng chỉ đơn giản được giới hạn trong việc thực hành quy luật luân lý” [7, tr. 239]. Đó cũng chính là lý do vì sao Kant lại coi “lý tính thực hành là sự mở rộng của lý tính tư biện”; mặc dù, đó chỉ là sự mở rộng trê۬n phương diện thực hành, chứ không phải trên phương diện lý thuyết. Như vậy, với Kant, duy chỉ có lý tính thực hành mới có khả năng giúp con người thực hiện mơ ước được tiếp cận với thế giới những “ý niệm siêu nghiệm” của mình. Hay, có thể nói rằng, duy chỉ có những nguyên tắc đạo đức nội tại trong con người mới có khả năng can thiệp vào thế giới của những “ý niệm siêu nghiệm”, ngoài ra không một nguyên tắc nào khác có đủ thẩm quyền để thực hiện công việc đó, kể cả những nguyên tắc hay phương pháp của khoa học. Việc sử dụng thuật ngữ “lý tính tư biện” và “lý tính thực hành” của Kant khiến cho chúng ta lầm tưởng rằng, trong con người có hai loại lý tính khác nhau. Song, với ông “vẫn chỉ có một và cùng một lý tính - từ quan điểm lý thuyết hay thực hành” [7, tr. 218], tức là vẫn chỉ có một lý tính duy nhất và thống nhất trong mỗi con người. Do đó, về thực chất, lý tính thực hành và lý tính tư biện không phải là hai loại lý tính khác nhau, mà chỉ khác nhau ở mục đích sử dụng lý tính. Kant quan niệm, lý tính được sử dụng trong lĩnh vực lý thuyết là lý tính tư biện, còn lý tính được sử trong lĩnh vực đạo đức (lĩnh vực thực hành) là lý tính thực hành. Ông viết: Lý tính thực hành “không phải là những gì được thêm vào cho nhận thức của mình, mà là những gì được mở rộng trong sự sử dụng của nó ở phương diện khác, đó là phương diện thực hành; và điều này tuyệt nhiên không đi ngược lại sự quan tâm của nó là phải hạn chế sự tư biện vô độ” [7, tr. 219]. Mặc dù, Kant thừa nhận sự khác nhau trong mục đích sử dụng lý trí, nhưng ông vẫn không ngừng khẳng định sự thống nhất của lý tính. Điều đó giải thích vì sao ông cho rằng, lý tính tư biện dù không có đủ luận cứ để chứng minh cho những gì thuộc về lĩnh vực đạo đức, nhưng nó vẫn phải chấp nhận những cái đó như một phần của lý tính. Ông viết: “Nó phải chấp nhận chúng, dù đó là cái gì được mang lại cho nó từ một suối nguồn xa lạ, là cái gì không mọc lên từ chính mảnh đất của nó, nhưng vẫn được chứng thực đầy đủ, và nó phải ra sức so sánh và nối kết chúng với tất cả những gì nó có trong năng lực của mình với tư cách là lý tính tư biện” [7, tr. 219]. Khi luận giải về sự thống nhất này, Kant cũng đồng thời chỉ ra rằng, lý tính thực hành tất yếu phải trở thành cơ sở quy định của lý tính tư biện, nếu không như vậy, tự bản thân lý tính sẽ nảy sinh sự xung đột, bởi lẽ, “…mọi sự quan tâm kỳ cùng đều có tính thực hành, và ngay bản thân sự quan tâm của lý tính tư biện cũng là có-điều kiện và chỉ hoàn chỉnh ở trong sự sử dụng thực hành” [7, tr. 219]. Như vậy, trong quan niệm của Kant có sự khác biệt về lĩnh vực vận dụng lý tính - “lĩnh vực lý thuyết” và “lĩnh vực thực hành”; do đó, chúng ta phải làm rõ khái niệm “lý tính” ở từng lĩnh vực để tránh việc hiểu sai về Kant cũng như đạo đức học của ông. Tóm lại, chúng ta có thể hiểu về lý tính thực hành của Kant như sau: Thứ nhất, lý tính thực hành là lý tính hoạt động trong lĩnh vực đạo đức (lĩnh vực thực hành) có khả năng thiết tạo những nguyên tắc đạo đức có tính chất tiên nghiệm và vô điều kiện làm cơ sở quy định ý chí của con người. Thứ hai, lý tính thực hành nhờ vào những nguyên tắc đạo đức có khả năng thiết tạo “thế giới siêu cảm tính” quy định toàn bộ thế giới cảm tính của con người. Hay, có thể nói rằng, lý tính thực hành thông qua những nguyên tắc đạo đức có khả năng dẫn dắt con người đi tìm nguồn gốc (nguyên nhân) của các sự vật cảm tính, tức là xâm nhập vào lĩnh vực “vật tự thân”. Thứ ba, lý tính thực hành nhờ vào những nguyên tắc đạo đức có khả năng tiếp cận với thế giới những “ý niệm siêu việt” “sự Thiện-tối cao”, “sự tự do”, “sự bất tử của linh hồn” và “Thượng đế”. Thứ tư, lý tính thực hành và lý tính tư biện không phải là hai loại lý tính khác nhau, mà chỉ khác nhau ở mục đích sử dụng lý tính. Lý tính được sử dụng trong lĩnh vực lý thuyết là lý tính tư biện, còn lý tính được sử trong lĩnh vực đạo đức là lý tính thực hành. 1.1.2. Lý tính thiết lập những nguyên tắc đạo đức Với những phân tích ở phần trên, chúng ta biết rằng, lý tính thực hành có khả năng thiết lập những nguyên tắc tiên nghiệm và vô điều kiện quy định ý chí của con người. Kant gọi đó là những nguyên tắc đạo đức hay “nguyên tắc thực hành”. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem lý tính thực hành thiết lập những nguyên tắc đó như thế nào? Nói cách khác, chúng ta sẽ tìm hiểu xem lý tính thực hành “ban bố quy luật luân lý” như thế nào? Kant là người chủ trương ủng hộ việc con người sử dụng lý tính để điều chỉnh hành vi của bản thân trong cuộc sống. Song, ông không tán thành việc con người sử dụng lý tính như những gì mà tự nhiên ban cho họ, tức là sử dụng lý tính một cách thụ động. Bởi theo ông, việc sử dụng lý tính như vậy không thể nâng giá trị con người lên khỏi tầm con vật. Chính vì thế, ông cho rằng, con người cần phải sử dụng lý tính của mình một cách tích cực hơn, tức là sử dụng lý tính vào việc thiết lập những nguyên tắc đạo đức. Ông viết: “…việc sở hữu lý tính không đủ để nâng giá trị con người lên trên thú vật; trong trường hợp ấy, lý tính hóa ra chỉ là một phương cách đặc thù được tự nhiên sử dụng để trang bị cho con người cùng những mục đích như với thú vật, chứ không quy định cho con người một mục đích nào cao hơn cả. Đành rằng một khi tự nhiên đã ban cho lý tính, con người cần đến lý tính trong việc xem xét điều tốt xấu, nhưng ngoài điều ấy ra, con người còn sở hữu lý tính cho một mục đích cao hơn, đó là, không chỉ dùng để xem xét cái gì là thiện hay ác trong tự thân nó…, mà còn để phân biệt hoàn toàn sự đánh giá này với sự đánh giá nói trên [về “tốt-xấu” theo nghĩa “sướng-khổ” và làm cho lý tính trở thành điều kiện tối thượng cho việc đánh giá này” [7, tr. 112-113]. Kant đã mô tả quá trình lý tính thiết lập những nguyên tắc đạo đức như sau: Lý tính sử dụng những châm ngôn của ý chí, sau đó, tiến hành loại bỏ những yếu tố thường nghiệm ra khỏi những châm ngôn ấy, cuối cùng, giữ lại duy nhất hình thức của chúng. Kant gọi hình thức của những châm ngôn là “hình thức ban bố quy luật” hay “nguyên tắc tiên nghiệm”, nguyên tắc đạo đức. Trên cơ sở đó, ông đưa ra công thức: “Hãy hành động sao cho châm ngôn của ý chí của bạn lúc nào cũng đồng thời có thể có giá trị như là nguyên tắc của một sự ban bố quy luật phổ biến” [7, tr. 56]. Trong các tác phẩm đạo đức học, Kant đã diễn giải về quá trình này dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tựu chung lại, đó là quá trình mà lý tính sử dụng những yếu tố thuần túy tiên nghiệm của nó để tạo ra những nguyên tắc làm cơ sở (nguyên nhân) quy định ý chí con người. Nói cách khác, lý tính lấy chính bản thân nó làm cơ sở quy định ý chí con người. Ông viết: “Nếu giả định rằng lý tính thuần túy chứa đựng trong bản thân nó một cơ sở hay một nguyên cớ (Grund) thực hành, nghĩa là một cơ sở thích hợp đủ để quy định ý chí, thì ắt có các quy luật thực hành” [7, tr. 39]. Khi nói về quá trình thiết lập những nguyên tắc đạo đức của lý tính, Kant cũng đồng thời phân biệt những nguyên tắc này với những nguyên tắc thông thường. Đối với ông, các nguyên tắc thông thường “chỉ có giá trị đối với ý chí riêng của chủ thể” [7, tr. 39], đó là những châm ngôn chủ quan của từng chủ thể; trái lại, các nguyên tắc đạo đức không chỉ có giá trị đối với ý chí của từng chủ thể mà còn “có giá trị đối với ý chí của bất kỳ hữu thể nào có lý tính” [7, tr. 39], đó là “các mệnh đề bao hàm một sự quy định quy định phổ biến đối với ý chí” [7, tr. 39]. Như vậy, trong quan niệm của Kant, các nguyên tắc đạo đức là sản phẩm thuần túy của lý tính và có giá trị phổ biến đối với mọi chủ thể. Kant không chỉ giúp chúng ta phân biệt những nguyên tắc đạo đức với những nguyên tắc thông thường, mà ông còn luận giải về tính chất của những nguyên tắc này. Theo ông, trước hết, các nguyên tắc đạo đức phải có tính phổ biến. Điều này có nghĩa rằng, các nguyên tắc đạo đức phải trở thành cơ sở quy định ý chí của “mọi hữu thể có lý tính” trong thế giới này, không có trường hợp ngoại lệ. Nếu một chủ thể nào đó mà không tuân theo những nguyên tắc đạo đức, ngay lập tức bản thân những nguyên tắc này sẽ trở thành mệnh lệnh cưỡng buộc đối với chủ thể đó. Chính vì thế, Kant gọi chúng là nguyên tắc của cái “phải là”. Ông viết: “Sự hiện diện của các nguyên tắc khách quan là cần thiết cho ý chí, và được gọi là những chỉ thị của lý tính, còn hình thức của những chỉ thị này được gọi là mệnh lệnh. Tất cả những mệnh lệnh này được miêu tả bằng cái “phải là”, chúng biểu thị mối quan hệ giữa những nguyên tắc khách quan của lý tính với ý chí… Những mệnh lệnh này nói với ý chí của chúng ta rằng, làm hoặc không làm một điều gì đó là tốt, cũng như không nên làm một điều gì đó chỉ bởi vì điều đó được coi là tốt để chúng ta làm điều đó” [16, pg. 66-67]. Như vậy, khi thừa nhận tính phổ biến như là tính chất tất yếu của các nguyên tắc đạo đức, Kant cũng chỉ rõ rằng, bản thân các nguyên tắc này phải được coi là những mệnh lệnh của lý tính đối với ý chí. Ông gọi những mệnh lệnh của lý tính là “mệnh lệnh tuyệt đối”. Trong các tác phẩm đạo đức học, ông nói nhiều đến “mệnh lệnh tuyệt đối”, đó là mệnh lệnh mà luôn “coi một hành động là tất yếu khách quan tự bản thân nó mà không liên quan tới một mục đích nào khác” [16, pg. 67]. Điều này có nghĩa rằng, mệnh lệnh tuyệt đối “không quan tâm tới nội dung và kết quả của hành động, nhưng quan tâm đến hình thức và những quy tắc mà hành động của chúng ta tuân theo” [16, pg. 69]. Theo ông, “mệnh lệnh tuyệt đối” khác biệt hoàn toàn với “mệnh lệnh giả thiết” là mệnh lệnh mà luôn “coi một hành động như là phương tiện để đạt được cái gì đó mà chúng ta mong muốn” [16, pg. 67]. Trong Đặt cơ sở cho siêu hình học về đạo đức, ông nói rất rõ về sự khác biệt này: “… Nếu bản thân một hành động thiện mà chỉ giống như là các phương tiện để đạt được một cái gì đó, thì mệnh lệnh của nó mang tính giả thiết, còn nếu một hành động mà tự thân nó là thiện, cần thiết cho ý chí mà phù hợp với lý trí, và là nguyên tắc của chính nó, thì mệnh lệnh của nó là tuyệt đối” [16, pg. 67]. Bên cạnh tính phổ biến, Kant còn nói tới “tính thực tại khách quan” của những nguyên tắc đạo đức. Theo ông, những nguyên tắc đạo đức là những nguyên tắc “hiển nhiên” của lý tính thực hành, sự tồn tại của bản thân những nguyên tắc này chính là bằng chứng biện minh cho “tính thực tại khách quan” của chúng, ngoài ra chúng không cần đến bất kỳ một bằng chứng nào khác từ các yếu tố kinh nghiệm có thể trực quan được. Ông viết: “…tính thực tại khách quan của quy luật luân lý không thể nào chứng minh được bằng bất kỳ sự diễn dịch nào từ những nỗ lực của lý tính lý thuyết, dù là tư biện hay được hỗ trợ bằng kinh nghiệm; và, thậm chí nếu ta khước từ tính chắc chắn hiển nhiên của nó, nó vẫn không thể được chứng minh một cách hậu nghiệm bằng kinh nghiệm; tuy thế, nó vẫn được xác lập một cách vững chắc tự bản thân mình” [7, tr. 78]. Hơn nữa, việc những nguyên tắc này trực tiếp quy định ý chí và hành vi của con người cũng đã chứng minh một cách rõ ràng cho “tính thực tại khách quan” của chúng. Như vậy, với Kant, những nguyên tắc đạo đức mặc dù là sản phẩm thuần tuý của lý tính thực hành, tồn tại bên trong con người, nhưng chúng vẫn có được “tính thực tại khách quan”. Theo đó, chúng ta có thể nói rằng, sự quy định của những nguyên tắc đạo đức đối với ý chí và hành vi của con người là sự quy định có tính hiện thực, chứ không phải là ảo tưởng. Đó cũng chính là lý do vì sao Kant lại gọi lĩnh vực đạo đức là lĩnh vực thực hành của lý tính và những nguyên tắc tiên nghiệm của nó. Với Kant, những nguyên tắc đạo đức không chỉ có tính khách quan và phổ biến, mà nhất thiết chúng còn phải có tính vô điều kiện. Ông hiểu tính vô điều kiện có nghĩa là tính chất độc lập hoàn toàn của những nguyên tắc đạo đức với những động cơ thường nghiệm, dù đó là động cơ chủ quan hay khách quan. Lúc đó, các nguyên tắc này chỉ còn lại duy nhất hình thức thuần túy của chúng, không chứa đựng bất kỳ nội dung thường nghiệm nào. Bởi, theo ông, “mọi nguyên tắc thực hành tiền-giả định một đối tượng (chất liệu) của quan năng ham muốn như là cơ sở quy định cho ý chí thì đều có tính chất thường nghiệm và không thể mang lại các quy luật thực hành” [7, tr. 42], chúng “có thể tạo ra cho chúng ta những châm ngôn, chứ không phải là những quy luật”, chúng “cũng có thể tạo ra những nguyên tắc chủ quan mà dựa vào đó chúng ta có thể hành động theo thiên hướng và sở thích của chính mình, nhưng đó không phải là những nguyên tắc khách quan mà dựa vào đó chúng ta có thể điều khiển hành vi của mình” [7, tr. 77]. Thậm chí, ông còn khẳng định rằng, “các cơ sở quy định thường nghiệm không thích dụng cho việc ban bố quy luật phổ biến ngoại tại, càng không thích hợp cho việc ban bố quy luật nội tâm, vì mỗi người lấy cá nhân mình làm cơ sở cho xu hướng của mình; và trong cùng một chủ thể, khi thì xu hướng này, khi thì xu hướng khác chiếm ưu thế. Việc tìm ra một quy luật có thể ngự trị tất cả chúng dưới cùng một điều kiện này, tức là, mang tất cả chúng vào trong một sự hòa hợp, là điều tuyệt đối không thể làm được” [7, tr. 52-53]. Như vậy, theo Kant, những nguyên tắc mà không đảm bảo tính vô điều kiện, không thể trở thành cơ sở quy định ý chí cũng như hành vi của con người trong thế giới này. Chúng ta vừa phân tích về tính khách quan, phổ biến và vô điều kiện của các nguyên tắc đạo đức. Tuy nhiên, theo Kant, các nguyên tắc này cần phải có thêm tính vô mục đích. Nói cách khác, đó phải là những nguyên tắc chỉ dẫn ý chí của con người mà không quan tâm tới kết quả hay mục đích đạt được. Ông viết: “các quy luật thực hành chỉ liên quan đến ý chí, chứ không xét đến việc có thể đạt được gì thông qua tính nhân quả ấy và ta có thể trừu tượng hóa [hay gạt bỏ] tính nhân quả (vốn thuộc về thế giới cảm tính) ấy đi để có được chúng một cách thuần túy” [7, tr. 41-42]. Bởi, với ông, những nguyên tắc mà hướng con người tới một mục đích xác định nào đó, không phải là những nguyên tắc thống nhất và phổ biến có thể đảm nhận nhiệm vụ dẫn dắt con người tiến tới những giá trị đạo đức tối cao; chúng chỉ được coi là những nguyên tắc không chắc chắn, “vốn chỉ gắn liền với ý chí một cách bất tất” [7, tr. 41], xuất phát từ xuất phát từ “lòng yêu chính mình” và “sự tư lợi” của con người, tức là những “mệnh lệnh giả thiết”, không phải những “mệnh lệnh tuyệt đối”. Mặc dù vậy, Kant không có ý muốn nói rằng, những nguyên tắc đạo đức hướng dẫn con người hành động không có mục đích hay không có phương hướng, bởi điều này là hoàn toàn vô lý đối với những "hữu thể có lý tính". Trái lại, theo ông, đó là những nguyên tắc có “mục đích tự thân”. Ông viết: “…nếu có một nguyên tắc thực hành tối cao liên quan tới ý chí của con người, một mệnh lệnh tuyệt đối, thì nguyên tắc đó phải xuất phát từ sự hiện diện của mục đích tự thân, đó sẽ là một nguyên tắc khách quan của ý chí và có thể được sử dụng như một quy luật thực hành phổ quát. Cơ sở của nguyên tắc này là: bản thân lý tính tồn tại như một mục đích tự thân” [7, tr. 79]. Ở đây, ông hiểu “mục đích tự thân” có nghĩa là bản thân mỗi nguyên tắc đạo đức đóng vai trò là mục đích của chính nó, do đó, nó không cần đến mục đích ngoại tại nào khác. Như vậy, trong quan niệm của Kant, những nguyên tắc đạo đức là những nguyên tắc vô mục đích theo nghĩa thường nghiệm; còn theo nghĩa thực hành, đó là những nguyên tắc có “mục đích tự thân”. Những nguyên tắc đạo đức của Kant không chỉ có những tính chất trên, mà còn biểu tả “nghĩa vụ” (“cái phải là”) của con người. Điều này có nghĩa rằng, những nguyên tắc đạo đức phải trở thành những nguyên tắc phổ quát có thể giúp con người nhận thức được những việc mà bản thân nhất thiết phải thực hiện trong mọi trường hợp. Ông viết: “…khi tôi nghĩ về mệnh lệnh giả thiết nói chung, tôi không biết trước được nó sẽ bao gồm những gì. Nhưng, khi tôi nghĩ về một mệnh lệnh tuyệt đối thì ngay lập tức tôi biết nó bao gồm những gì” [7, tr. 73]. Nói cách khác, đó phải là những nguyên tắc có thể đưa ra mệnh lệnh hay chỉ thị cưỡng chế hành vi của con người trong mọi tình huống. Ông viết: những nguyên tắc đạo đức chính là “quy luật của nghĩa vụ, của sự cưỡng chế luân lý, và của sự quy định những hành vi bằng sự tôn kính đối với quy luật này và từ lòng kính sợ đối với nghĩa vụ của mình” [7, tr. 153]. Vì thế, nghĩa vụ được Kant hiểu là sự phục tùng một cách tuyệt đối mệnh lệnh của những nguyên tắc đạo đức. Hơn thế, nghĩa vụ còn là sự tôn kính đối với những nguyên tắc này. Rõ ràng, trong học thuyết của Kant, nghĩa vụ (“cái phải là”) không phải là cái gì xa lạ, mà chính là “cái luân lý” luôn hiện hữu bên trong con người. Nhờ đó, chúng ta có thể hiểu vì sao nghĩa vụ lại được ông xem như là thước đo “nhân cách của con người”. Nói tóm lại, quá trình lý tính thiết tạo những nguyên tắc đạo đức của Kant chính là quá trình mà lý tính sử dụng những yếu tố thuần túy tiên nghiệm của nó để tạo ra những nguyên tắc làm cơ sở (nguyên nhân) quy định ý chí của con người. Hay, đó là quá trình mà lý tính lấy chính bản thân nó làm cơ sở quy định ý chí của con người. Trong quá trình ấy, theo Kant, những nguyên tắc đạo đức phải có được các tính chất quan trọng như, tính khách quan, phổ biến, vô điều kiện và vô mục đích, đồng thời biểu tả được “nghĩa vụ” của con người. Bằng cách thiết tạo như vậy, Kant cho rằng, con người có thể có được những nguyên tắc thuần lý và biến chúng trở thành cơ sở chỉ dẫn hành vi của bản thân trong thế giới thường nghiệm vốn bất tất và nhiều cám dỗ này.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan