Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập truyện chiếc th...

Tài liệu Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập truyện chiếc thuyền ngoài xa

.PDF
124
62
79

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Là một nhà văn suốt đời khao khát khám phá cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật và ông có một vị trí đặc biệt quan trọng - người “tiền trạm đổi mới” (GS. Phong Lê) trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đó là những bản anh hùng ca chói ngời phẩm chất anh dũng, kiên cường, lí tưởng của con người Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Sau 1975, cả nước sống trong một bầu không khí tinh thần mới, Nguyễn Minh Châu đã có sự chuyển hướng về tư duy nghệ thuật. Những tác phẩm của ông giai đoạn này - đặc biệt là truyện ngắn - hấp dẫn người đọc bởi sự giản dị gần gũi mà chứa đựng chiều sâu nhân bản… Chính tác giả cũng từng nhận thấy “Mình viết văn suốt đời tràng giang đại hải, có khi chỉ còn lại được vài cái truyện ngắn” [42. 430]. Khi tìm hiểu những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn sau 1975, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn phát hiện “Vẫn là một Nguyễn Minh Châu tài hoa, tinh tế trong những phát hiện và phân tích, miêu tả hiện thực cuộc sống và tâm lí nhân vật nhưng trong giai đoạn này, sự tài hoa tinh tế ấy không bay bổng trên đôi cánh lãng mạn, hùng tráng chất sử thi của một thời mà thể hiện qua bút pháp trần thuật trầm tĩnh, đề cập những góc cạnh xù xì, phức tạp của cuộc sống, vì thế nó hướng tới tính đa dạng phổ quát” [15. 18]. Di sản văn chương của Nguyễn Minh Châu trong mấy thập kỉ qua đã thu hút sự chú ý tìm tòi, nghiên cứu của hàng trăm bài bài báo, bài nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 trong và ngoài nước. Song, vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều gợi ý hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới... Qua các công trình nghiên cứu về tác gia Nguyễn Minh Châu và các truyện ngắn của ông sau 1975, chúng tôi thấy: Nguyễn Minh Châu và các truyện ngắn của ông sau 1975 đã được xem xét, nghiên cứu khá sâu sắc, khoa học, khách quan; nhưng cũng còn một số phương diện vẫn để ngỏ. Chúng tôi thấy chưa có một chuyên luận nào đi sâu vào nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa. 1.2. Nghiên cứu văn học với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật đích thực, thi pháp học đã mở ra nhiều hướng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng đã vận dụng một phương diện của lí thuyết thi pháp để phát hiện ra quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong các sáng tác của một số nhà văn hiện thực giai đoạn 1930-1945. Công trình nghiên cứu Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao (Nxb Thanh niên, HN, 2001) đã gợi ý một hướng nghiên cứu mới về vấn đề hoàn cảnh trong văn học, giúp người đọc hình dung cá tính sáng tạo của mỗi tác giả được sâu sắc hơn. Công trình này là “Một khởi đâù tốt đẹp, đầy hứa hẹn” (GS Trần Đình Sử), gợi mở cho chúng tôi tìm hiểu thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của những nhà văn khác. 1.3. Với sự trân trọng văn tài và cảm quan nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi muốn vận dụng lí thuyết thi pháp hoàn cảnh vào khám phá quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nxb Tác phẩm mới, H.1987 - in trong toàn tập Nguyễn Minh Châu, tập III, 2001, Nxb Hội nhà văn), để từ đó góp thêm cái nhìn đầy đủ hơn về tài năng sáng tạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đồng thời, việc tìm hiểu vấn đề này còn góp phần thiết thực cho việc giảng dạy một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong nhà trường phổ thông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Vấn đề quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong văn học, chúng tôi sẽ đề cập trong phần Mấy vấn đề lí luận về hoàn cảnh (chương 1), vì vậy ở đây chúng tôi chỉ điểm lại lịch sử vấn đề quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong 15 truyện ngắn thuộc tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, bắt đầu bằng truyện ngắn Bức tranh như là một dấu mốc, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu thực sự trở thành một hiện tượng văn học có sức hút rất lớn đối với giới nghiên cứu và phê bình. Trong những công trình nghiên cứu về các tác phẩm ở tập truyện trên của Nguyễn Minh Châu, đa số đề cập tới phương diện nội dung, những cách tân nghệ thuật như nhân vật, giọng điệu... Rải rác trong các bài viết có những nhận định tới các yếu tố thuộc cấu trúc của hoàn cảnh nghệ thuật. 2.1. Có những nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh và khẳng định sự thành công trong việc xây dựng hoàn cảnh của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ngô Thảo trong bài “Đọc những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu” đã nhận định về tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, trong đó có đoạn nói về mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh “Ngay trong một hoàn cảnh sống giàu lí tưởng, sự lí tưởng hoá chính mình cũng như mọi người xung quanh, sớm muộn cũng dẫn tới những bi kịch không cần thiết” [15. 304]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài “Bến quê, một phong cách trần thuật giàu chất triết lí” cũng có những nhận xét sâu sắc, tinh tế: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân dung, môi trường, khắc hoạ tâm lí, chỉ trong ít nét mà làm hiện lên một vẻ sống sinh động, điển hình như sinh hoạt khu tập thể, cảnh nhà ga, nông thôn, đô thị” [15. 170]. Như vậy, tác giả đã chú ý tới nghệ thuật xây dựng hoàn cảnh của nhà văn, nhưng chưa triển khai với những minh chứng cụ thể, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 hệ thống. Trịnh Thu Tuyết trong bài “Một số cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” cũng đề cập tới những vấn đề về hoàn cảnh và nhân vật (trong truyện Hương và Phai): “Con người có khi tạo ra những bất ngờ làm thay đổi cả đời người nhưng ngược lại, có những lúc lại hoàn toàn bất lực trước hoàn cảnh... Hình ảnh ông bố thay Phấn “ngồi cắm cúi đạp chiếc máy khâu cổ lỗ” và cái Phai thay chị ngồi làm mứt khế để đưa đi các hàng nước” chính là cái hình ảnh tượng trưng cho sự bất lực của con người trước hoàn cảnh” [15. 329]. Trong cuốn sách “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu”, khi đề cập tới mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh trong một số truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, tác giả Tôn Phương Lan có nhận định khá sâu sắc “Con người là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng con người cũng là một thực thể mang tính độc lập. Một mặt nó chịu sự chi phối và phụ thuộc vào hoàn cảnh. Mặt khác nó cũng tự xoay xoả, bươn chải để tồn tại, hoặc là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh hoặc vươn lên trên hoàn cảnh, chống lại hoàn cảnh” [23. 53]... 2.2. Có nhiều ý kiến đề cập tới những khía cạnh thuộc về phương diện nghệ thuật của hoàn cảnh trong tập truyện trên của Nguyễn Minh Châu. Đó là những ý kiến bàn về hệ thống nhân vật - một hệ thống yếu tố tạo hoàn cảnh cho tác phẩm. Trên báo Văn nghệ, số 27, 28-1985, đã có cuộc tranh luận sôi nổi của nhiều tác giả “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”. Có rất nhiều người khen, chê khác nhau, nhưng tựu chung lại có hai luồng ý kiến. Luồng ý kiến thứ nhất tỏ ra nghi ngại, dè dặt trước những bước đi mới mẻ, khác lạ, những nhân vật “dị thường” do nhà văn sáng tạo: “Đọc truyện của anh ta bị hấp dẫn bởi những chi tiết độc đáo, những đoạn miêu tả cuộc sống bình thường thật sắc sảo, nhưng toàn cục câu chuyện lại thiếu một cái gì đó để người ta đủ tin. Truyện của anh mang màu vẻ ước lệ ấy. Cái vẻ ước lệ thể hiện trong tính cách khác thường của một số nhân vật. Nó còn thể hiện ở một vài hoàn cảnh khác thường, chi tiết khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 thường nữa...” (Xuân Thiều) [15. 248]. Tác giả Nguyễn Kiên nhận xét: “Anh Châu có những truyện có những chỗ dị thường mà dị thường thật. Cuộc phiêu lưu tình cảm ở truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành là một dị thường” [15. 250]. Các nhà văn Vũ Tú Nam, Triều Dương, Đào Vũ có cảm nhận truyện của Nguyễn Minh Châu “rối”, “bàng bạc”... Luồng ý kiến thứ hai đánh giá cao sự tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh Châu: “Trong truyện của anh mọi cái đang vỡ ra tạo nên những khoảng trống phải nghi ngờ, phải nghĩ. Tại sao nhân vật Khúng này lại lạ thế? Đúng là có những khoảng trống như vậy. Nguyễn Minh Châu dần dần tạo ra thế giới nghệ thuật của anh” (Phong Lê) [15. 249]. Xuân Trường cũng khẳng định “Nguyễn Minh Châu muốn soi rọi vào từng con người, để phân biệt, để so sánh, để nhận chân, và cuối cùng để đấu tranh cho cái mới... anh muốn từ cái hằng ngày, cái thường ngày, vượt ra khỏi cái gì đã khô cứng, cái gì như đã thành định kiến, kể cả bản thân mình để đi tìm điều anh mong ước, đi tìm vấn đề và cách thể hiện mới...” [15. 258]. Có thể thấy trong cuộc trao đổi này, vấn đề nhân vật được soi chiếu khá nhiều, nhưng nhìn nhận nó như một phương diện của hoàn cảnh nghệ thuật chưa được đặt ra. Võ Hồng Ngọc qua bài viết “Mảnh đất tình yêu - sự tiếp nôí những câu chuyện tình đời”, đã có những nhận xét khá tinh tế về hai tập: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê (Sau này in chung thành tập Chiếc thuyền ngoài xa (1987)): “Con người hiện thực là một thực thể sống động, không ngừng vận động, phát triển, do đó mọi sự cắt nghĩa và quan niệm về nó đang tạo ra những khả năng to lớn cho phép con người càng bộc lộ đầy đặn hơn bản chất phong phú của mình... Nếu trước đây, mọi vấn đề thuộc về con người chỉ xoay quanh trục địch - ta, mới - cũ... thì giờ đây tầm mắt nghệ thuật của nhà văn đã mở rộng sang những bình diện mới, nắm bắt những tương quan mới, soi rọi những tầng sâu mới trong đời sống thực tiễn - tinh thần của con người” [15. 110]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Như vậy, tác giả bài viết đã bước đầu tiếp cận những nhân vật mới trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, nhưng cũng không phát triển hướng nghiên cứu vai trò của hệ thống nhân vật ấy trong việc tạo dựng hoàn cảnh. Năm 1994, trong bài “Tác phẩm viết về chiến tranh những năm 80, một sự chiêm nghiệm lại về cuộc chiến và người lính cách mạng của Nguyễn Minh Châu”, Hồ Hồng Quang đã nhận định về hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: “Một số nhân vật của anh có những phút sám hối tự thú về những lỗi lầm do chuẩn mực đạo đức và lương tâm con người cắn rứt” [15. 237]. Tác giả Nguyễn Văn Hạnh có bài “Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người”, đã nhận xét về đặc điểm nhân vật của Nguyễn Minh Châu qua một số truyện ngắn: “Con người muốn tìm hiểu mình, đối diện với lương tâm của mình, nói lên với chính mình sự thật, những điều lỗi lầm đáng xấu hổ, mà bấy lâu nay mình vẫn lẩn tránh, che giấu” Và “Nguyễn Minh Châu hay viết về những giây phút “bất chợt”, những “khoảnh khắc hoàn hảo”, khi con người, dưới tác động của trực giác, của tâm linh, của vô thức, bỗng dưng nhận ra một cách sáng tỏ những việc làm nào đó hoặc toàn bộ con người của mình, nhờ đó mà có cách ứng xử đúng đắn” [15. 231]... Tác giả đã khẳng định những nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu “rất có ý thức về mình” [15. 232]... Có ý kiến nói tới yếu tố không khí của các tác phẩm. Tác giả Huỳnh Như Phương qua bài “Đọc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” đã có nhiều đánh giá khá sắc sảo, hấp dẫn về một số tác phẩm cụ thể ở cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trong đó có một số phát hiện về không khí: “Bức tranh lôi cuốn người đọc không chỉ vì tác giả xoáy sâu vào tâm lí con người, mà còn vì nghệ thuật tạo căng thẳng dần: từ cảm giác ân hận bị dìm xuống đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn cắn rứt mãi không thôi” [15. 152]. Khi nói về không khí của truyện Người đàn bà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 trên chuyến tàu tốc hành, tác giả khẳng định “Và hành trình của chị mãi mãi vẫn là một hành trình mang âm hưởng cô đơn... đã không tránh khỏi không khí ảm đạm là vì vậy” [15. 153]. Kết luận chung về tập truyện, Huỳnh Như Phương khẳng định “Tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đến cùng sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó. Sự kết hợp giữa các mảng thời gian, và các khoảng không gian xa cách nhau, sự đan xen giữa ý thức và tiềm thức, hồi ức và tưởng tượng, sự hoà quyện của các giọng văn khác nhau... tất cả đã tạo ra một số truyện đạt đến chiều sâu nhất định cả về phương diện tự sự lẫn về phương diện tâm lí...” [15. 154]. Trong bài “Trở lại “Chuyến tàu tốc hành” của Nguyễn Minh Châu”, Nguyễn Trung Hiếu cảm nhận “Một trong những cái lạ của Nguyễn Minh Châu là “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”. Lạ về nhân vật, lạ về kết cấu và lạ về cả logic của chuyện. Nó gây cảm giác nửa tin nửa ngờ, nhưng nó quả có một sức hấp dẫn bàng hoàng” [15. 163]. Tác giả Tôn Phương Lan trong cuốn sách “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu”, đã phát hiện về không khí của một số tác phẩm “Từ một không khí thiêng liêng, huyền nhiệm bao trùm lên thiên nhiên tạo vật, Nguyễn Minh Châu đặt con người trong cùng một lúc sống ở hai thế giới khác nhau nhưng vẫn là một: thế giới hiện thực cụ thể và thế giới tâm linh...” [23. 150]. Xung đột và mâu thuẫn cũng nằm trong cấu trúc hoàn cảnh nghệ thụât. Nhiều ý kiến nhận xét về yếu tố này. Báo Văn nghệ, số 7-1990 có bài “Về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu” của Phạm Vĩnh Cư. Tác giả khẳng định về phương diện mâu thuẫn, xung đột “Chính ở đây xuất hiện cách tiếp cận mới với với cuộc sống đương thời đầy mâu thuẫn không thể dung hoà những câu hỏi không dễ trả lời, những đau khổ không dễ khắc phục, những tội ác không dễ tìm ra, tội phạm xuất hiện, những hình tượng con người mang trong mình những xung đột nội tâm sâu sắc...” Phát hiện ra những mâu thuẫn, xung đột, nhưng tác giả cũng chưa chú Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 ý tới vai trò tạo hoàn cảnh của những mâu thuẫn, xung đột ấy. Trên Tạp chí văn học số 3-1993, Nguyễn Văn Hạnh trong bài viết “Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người”, đã lưu ý đến yếu tố nội tâm nhân vật gắn với những hoài niệm “Hầu hết những nhân vật chính trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đều sống với kỷ niệm mình đã trải qua. Hoài niệm là nhu cầu, cũng là phẩm giá của họ” [15. 229] và mâu thuẫn, xung đột trong các tác phẩm: “Cội nguồn của bi kịch còn ở sự không phù hợp giữa những cố gắng lớn lao của con người và những kết quả nhỏ nhoi đạt được, ở mâu thuẫn giữa sức người và tầm vóc những công việc phải hoàn thành, những trở ngại phải vượt qua, sức mạnh tàn phá của thiên nhiên mà con người phải chống chọi, ở sự hữu hạn của từng cá nhân, của trời đất” [15. 229]. Trong bài viết “Một hình tượng nông dân điển hình trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu” (Kỷ yếu hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu - Hội Văn nghệ Nghệ An, 1995), tác giả Lê Quang Hưng bình luận “Nhân vật lão Khúng hiện lên trước hết với cái vẻ đẹp cổ sơ trên một nền cảnh hồng hoang và đối chọi laị sắc màu rực rỡ của văn minh đô thị” và “Nhân vật lão Khúng là sự trộn lẫn những sắc màu thẩm mỹ đối lập một cách độc đáo để tạo nên “con người” này: bản năng và lí trí..., hoang sơ và lọc lõi, chấp nhận và đấu tranh, đơn giản mà cũng lắm quanh co giằng xé...” [15. 188]... Trong bài “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu”, tác giả Dương Thị Thanh Hiên đã có khám phá sâu sắc “Nguyễn Minh Châu còn phát hiện những nghịch lí của cuộc đời. Những tình thế chứa đựng nghịch lí giữa cái hữu hạn và vô hạn của khả năng con người; có xung đột gay gắt giữa cái thiện và cái ác, giữa khát vọng cá nhân (thậm chí chỉ trong tiềm thức) với thực tế khắc nghiệt của hoàn cảnh” [15. 319]... Song, trong bài viết đó tác giả cũng không đề cập tới vai trò tạo dệt hoàn cảnh của những mâu thuẫn ấy... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Như vậy, trong các bài nghiên cứu, phê bình, các tác giả đã điểm, nhắc đến hoàn cảnh ở một số phương diện, nhưng những nhận định trên chủ yếu vẫn là những phát hiện còn phân tán lẻ tẻ, chưa có minh chứng thật cụ thể và chưa được hệ thống hoá (vì những bài viết đó không đặt vấn đề hoàn cảnh nghệ thuật làm đối tượng nghiên cứu chính). Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi sẽ đi vào bước đầu tìm hiểu một cách hệ thống quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện trên. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3.1. Về mặt thực tiễn Đề tài nghiên cứu có mục đích dùng ánh sáng của lí thuyết thi pháp hoàn cảnh vào việc tìm hiểu tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, để phát hiện ra cấu trúc nghệ thuật về hoàn cảnh, từ đó khám phá ra quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn Nguyễn Minh Châu. 3.2. Về mặt lí luận Củng cố thêm sự hiểu biết những vấn đề lý luận về thi pháp, để làm cho nhận thức của mình được sâu sắc và phong phú hơn trong việc nghiên cứu tác phẩm văn chương. 3.3.Về mặt phƣơng pháp luận Rút ra những bài học có tính chất phương pháp luận cho bản thân về một hướng tiếp cận văn chương, từ đó mở rộng khả năng cảm thụ và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện Chiếc thuyền ngoài xa (Nxb Tác phẩm mới, H.1987 - In lại trong Tòan tập Nguyễn Minh Châu (2001), tập III, Nxb Văn học, HN). Đây là tập truyện in lại các truyện ngắn trong hai tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985). 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu cơ sở lí thuyết của đề tài: lí thuyết hoàn cảnh, cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh trong tác phẩm văn chương. - Vận dụng lí thuyết vào việc tìm hiểu cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh trong 15 truyện của tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. - Đưa ra những kết luận cụ thể, khách quan về quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu qua tập truyện trên. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Trong tác phẩm văn chương, hình thức bao giờ cũng mang tính quan niệm. Để tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn trong tác phẩm cần phải đi từ việc khảo sát, cắt nghĩa, lí giải các hình thức nghệ thuật được sử dụng, sau đó rút ra các kết luận thiết thực. Vì vậy, cần phải sử dụng phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp. 5.2. Khi phân tích tổng hợp, chúng tôi phải xác định sự xuất hiện nhiều lần của các tín hiệu thẩm mỹ, để phát hiện ra những yếu tố thuộc cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh, từ đó xác định quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nhà văn. Vì vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống và thống kê. 5.3. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp so sánh để thấy sự khác biệt về quan niệm nghệ thuật về hòan cảnh của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn trước 1975 và trong tập truyện này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Nhà nghiên cứu Phong Lê đã nói: “Sáng tác của Nam Cao là cả một trữ lượng bên trong, một kho của dư đầy... có thể đào xới vào rất nhiều tầng vỉa, và vẫn còn hứa hẹn nhiều vỉa mới” [29. 110], chúng ta cũng có thể nói như vậy về văn nghiệp Nguyễn Minh Châu. Với tinh thần đó, đồng thời kế thừa thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra những dẫn chứng, nhận định có ý nghĩa thiết thực về quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của Nguyễn Minh Châu trong tập truyện ngắn nổi tiếng trên qua cái nhìn thi pháp, nhằm thêm một lần nữa khẳng định chiều sâu tư tưởng, cá tính sáng tạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần “Mở đầu” và “Kết luận”, luận văn gồm ba chương: Chƣơng 1: Một số vấn đề lí luận về hoàn cảnh và vài nét về Nguyễn Minh Châu - người “tiền trạm” đổi mới. 1.1. Một số vấn đề lí luận về hoàn cảnh trong văn học. 1.2. Vài nét về tư duy nghệ thụât có ý nghĩa “tiền trạm” đổi mới của Nguyễn Minh Châu. Chƣơng 2: Hệ thống nhân vật và mâu thuẫn xung đột tạo hoàn cảnh trong tập truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” 2.1. Hệ thống nhân vật tạo hoàn cảnh. 2.2. Mâu thuẫn, xung đột tạo hoàn cảnh. Chƣơng 3: Cơ chế và không khí của hoàn cảnh trong tập truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” 3.1. Những cơ chế chủ đạo tạo hoàn cảnh trong tập truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”. 3.2. Không khí của hoàn cảnh trong tập truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ HOÀN CẢNH VÀ VÀI NÉT VỀ ĐỔI MỚI TƢ DUY NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN MINH CHÂU 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ HOÀN CẢNH 1.1.1. Khái niệm “hoàn cảnh” Trong thực tế khái niệm “hoàn cảnh” bao gồm địa điểm hoạt động cụ thể của con người, những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, thời đại, những mối quan hệ cụ thể của cá nhân với mọi người, với cuộc sống xung quanh... Theo “Từ điển Tiếng Việt”, hoàn cảnh là: “Toàn thể nói chung những nhân tố khách quan bên ngoài có tác động đến sự sinh sống, sự hoạt động của con người, đến sự xảy ra hoặc diễn biến của sự việc nào đó...” [45. 450]. Như vậy, theo định nghĩa trên, nói tới hoàn cảnh là nói tới mối quan hệ (cả tự nhiên và xã hội) với tính cách và số phận của con người. Nhưng hoàn cảnh trong tác phẩm văn học không phải là sự phản ánh một cách máy móc hoàn cảnh trong đời sống thực tế. “Hoàn cảnh là một yếu tố của tác phẩm tự sự” (Trần Đình Sử), nó chịu sự tác động của qui luật sáng tạo văn chương, nghĩa là nó cũng được các nhà văn sáng tạo theo cảm quan và cá tính nghệ thuật của riêng mình. Chính vì vậy, khi chúng tôi đề cập đến khái niệm “hoàn cảnh” trong luận văn này là muốn tìm hiểu và khẳng định vị trí của nó với tư cách là một phương diện nghệ thuật của tác phẩm văn học. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà lí luận văn học đã có những ý kiến bàn về “hoàn cảnh” (Đó là một điều tất yếu bởi các khái niệm khoa học (nhất là trong khoa học nhân văn) rất khó có thể đạt tới sự tuyệt đối. Những thuật ngữ, khái niệm không nhất thành bất biến mà luôn được bổ sung để hoàn thiện hơn). Khi bàn tới khái niệm hoàn cảnh, các nhà nghiên cứu văn học (nhất là nghiên cứu văn học hiện thực) thường hay nhắc tới ý kiến của Ăngghen: “Chủ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 nghĩa hiện thực đòi hỏi, ngoài tính cách chân thực của chi tiết ra, sự tái hiện chân thực những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình” [34. 384]. Mặc dù, ý kiến của Ăngghen về chủ nghĩa hiện thực có phần nghiêng về phương diện xã hội nhiều hơn là phương diện nghệ thuật khi nghiên cứu hoàn cảnh trong tác phẩm văn học, song, từ ý kiến của Ăngghen có thể suy rộng ra hoàn cảnh nghệ thuật là môi trường cần phải có để xây dựng những tính cách trong nghệ thuật. Từ đầu thế kỉ XX, những nhà lí luận Nga đã rất quan tâm tới vấn đề hoàn cảnh trong mối quan hệ với tính cách thuộc các tác phẩm văn học hiện thực. L.I.Timôpheep có ý kiến “Hoàn cảnh mà ta hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ môi trường xã hội xung quanh con người đó. Cái vốn có của hoàn cảnh ấy là những mối quan hệ nhất định giữa người và người, thể hiện trong những biến cố xung đột này hay những biến cố xung đột khác... những biến cố xung đột trong đó bộc lộ rõ thái độ của con người đối với hoàn cảnh ấy” [51. 297]. Nhưng, có thể thấy rằng ý kiến này chưa chý ý tới một phương diện khác của hoàn cảnh, đó là toàn bộ môi trường tự nhiên. Đồng thời, tác giả cũng chỉ xem xét hoàn cảnh ở khía cạnh xã hội, mà không thấy hoàn cảnh là một phương diện hình thức, có ý nghĩa thẩm mỹ, thể hiện cá tính nghệ thuật của nhà văn. Cùng khẳng định bản chất xã hội của hoàn cảnh còn có nhận định của nhà nghiên cứu G.N.Pospelov trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học: “Ngay tư tưởng lý luận văn học dân chủ đã khám phá bản chất xã hội của các hoàn cảnh tạo nên tính cách và đó là chìa khóa có tính chất phương pháp luận quan trọng để hiểu văn học hiện thực. Các hoàn cảnh đã được hiểu như các đặc điểm bên ngoài của môi trường, hoàn cảnh tương tự mà như những quan hệ xã hội và cuộc đấu tranh xã hội qui định sự vận động lịch sử của xã hội và do đấy quy định cả từng cá nhân riêng lẻ” [46. 248]. Có thể thấy sự nhận thức mới về hoàn cảnh trong văn học là nhận định của M.B. Khrapchenco: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 “Các nhà hiện thực thế kỉ XX đã thực hiện việc khám phá lĩnh vực hình thành và phát triển những tính cách con người, các mối liên hệ của những tính cách đó đối với môi trường xã hội, những khám phá đó sở dĩ có được là do trong chính thực tại đã nổi rõ lên sự tác động của hoàn cảnh sống đối với thế giới nội tâm và cũng là do tư duy sáng tạo của các nghệ sĩ ngôn từ lớn đã nhằm vào việc nghiên cứu các khái quát bằng nghệ thuật các quan hệ của con người với môi trường xã hội, của cá nhân với xã hội” [22. 88]... Chính tác giả, trong khi nhận xét về một số tác phẩm tiêu biểu của Banzăc về khía cạnh hoàn cảnh đã phát hiện ra hoàn cảnh như một hình tượng nghệ thuật: “Hoàn cảnh sinh hoạt trong tác phẩm Banzăc nhiều khi không chỉ là sự dẫn chuyện, mà còn như một nhân vật văn học độc đáo, bình đẳng nhiều mặt với các nhân vật chính của tác phẩm”. Đặc biệt là nhà nghiên cứu đã gợi mở những phương diện cấu trúc của hoàn cảnh nghệ thuật: “Khi xác định hoàn cảnh sinh hoạt vật chất của các nhân vật, ảnh hưởng của hoàn cảnh đó đối với con người, Banzăc không tách rời cái môi trường theo nghĩa hẹp của từ này, với cái môi trường được hiểu một cách rộng rãi như là tập hợp mâu thuẫn của những nguyên tắc thống trị đời sống. Cái này đan quyện cái kia” [22. 92]... Các nhà lí luận Việt Nam khi bàn về chủ nghĩa hịên thực cũng rất lưu ý tới vấn đề hoàn cảnh. Nhưng, chủ yếu chỉ nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình. Trong công trình nghiên cứu về Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tác giả Phan Cự Đệ đã nhấn mạnh tới sự phân biệt hoàn cảnh xã hội và hoàn cảnh trong tác phẩm: “Hoàn cảnh điển hình trong tiểu truyết không phải là sự sao chép một cách tầm thường hoàn cảnh trong cuộc sống. Hoàn cảnh điển hình phản ánh bối cảnh lịch sử nhưng khái niệm hoàn cảnh điển hình không đồng nhất với khái niệm hoàn cảnh lịch sử. Hoàn cảnh điển hình là một phạm trù thẩm mỹ. Hoàn cảnh điển hình khái quát và nêu lên ý nghĩa bản chất của cuộc đấu tranh xã hội bằng hình thức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 thẩm mỹ cá bịêt hóa. Hoàn cảnh điển hình do nhà văn xây dựng trên cơ sở tưởng tượng hư cấu và nhờ vậy họ làm cho sự xung đột giữa các mâu thuẫn xã hội cơ bản trở nên gay gắt hơn, sự phát triển của hành động trở nên dồn dập căng thẳng hơn” [11. 305]. Khi nhà nghiên cứu khẳng định hoàn cảnh “là một hình thức thẩm mỹ cá biệt hóa” và “xây dựng trên cơ sở tưởng tượng hư cấu”, có nghĩa là đã công nhận hoàn cảnh là kết quả sáng tạo riêng của nhà văn và có ý nghĩa thẩm mỹ nhất định, độc lập với hoàn cảnh lịch sử... Nhưng, tác giả cũng chưa chỉ ra cấu trúc nghệ thuật của khái niệm hoàn cảnh. Có nhiều điểm thống nhất với ý kiến của tác giả Phan Cự Đệ còn có nhận định của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức: “Hoàn cảnh trong tác phẩm văn học không phải là sự phản ánh một cách máy móc hoàn cảnh trong thực tế, mà nó cũng chịu sự tác động của quy luật sáng tạo văn học, nghĩa là nó cũng được nhà văn tiến hành khái quát hóa và cá biệt hóa khi đưa vào tác phẩm... khái quát là ý nghĩa tiêu biểu của hoàn cảnh trong tác phẩm cho nhiều hoàn cảnh khác cùng một thời đại với nó... cùng với tính khái quát hoàn cảnh trong tác phẩm phải có tính các biệt. Đó chính là những đặc điểm riêng biệt, độc đáo, những chi tiết cụ thể, sinh động về địa điểm hoạt động và mối quan hệ của con người sống trên địa điểm ấy” [13. 131]. Từ đó, hoàn cảnh trong tác phẩm này sẽ được phân biệt với hoàn cảnh trong tác phẩm khác, mặc dù chúng cùng miêu tả một phạm vi hiện thực nhất định. Mặc dù đã lưu ý phân biệt hòan cảnh nghệ thuật và hoàn cảnh ngoài đời, nhưng tác giả vẫn chưa nói tới cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh. Khi bàn tới vấn đề hoàn cảnh điển hình, tác giả đã có những khám phá “Hòan cảnh điển hình phải bao gồm những sự kiện, những quan hệ do chính những tính cách tạo nên”. Nhận xét này gợi mở cho chúng ta về một số yếu tố thuộc cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh; đó là những mâu thuẫn và hệ thống nhân vật tạo hoàn cảnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 Ông Hoàng Ngọc Hiến trong cuốn “Năm bài giảng về thể loại” đã phân biệt hoàn cảnh lớn và hoàn cảnh nhỏ trong tác phẩm văn học: “Hoàn cảnh nhỏ là môi trường hoạt động cụ thể, là môi trường sống trực tiếp của nhân vật”... “Hoàn cảnh lớn hiểu theo nghĩa rộng nhất là hoàn cảnh lịch sử chung, là trạng thái nhân thế của xã hội, là tình thế thời đại với những quy luật, những xu thế khái quát nhất bật ra từ mối quan hệ cốt yếu nhất của thời đại” [16. 84-85]. Sự phân biệt và lấy ví dụ trong việc tìm hiểu tác phẩm Chí Phèo của ông Hoàng Ngọc Hiến khá sinh động, nhưng cũng chưa nhìn nhận hoàn cảnh trong tác phẩm văn học là một phương diện nghệ thuật có ý nghĩa thẩm mỹ. Hoàn cảnh trong văn học phong phú và đa dạng, đồng thời nó không chỉ xuất hiện trong văn học hiện thực. Theo tác giả Phong Lê trong cuốn “Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa” có khẳng định: “Bất cứ sự miêu tả nghệ thuật nào về đời sống con người cũng đều phải gắn con người với hoàn cảnh. Nhưng theo sự phát triển của lịch sử và trong đấu tranh giữa các trường phái văn học, quan niệm của nhà văn về hoàn cảnh có khác nhau”. [24. 155]. GS Trần Đình Sử cũng đánh giá “hoàn cảnh trong tác phẩm không chỉ có ý nghĩa phối thuộc, nhiều khi nó xuất hiện như là “nhân vật chính” trong tác phẩm, có ý nghĩa khái quát độc lập” [18. 5]. Năm 2001, trong Luận án Tiến sĩ: “Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong văn xuôi hiện thực (1930-1945) qua một số tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao”, tác giả Phạm Mạnh Hùng sau khi đã chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế trong một số quan niệm của các nhà lí luận trong và ngoài nước về vấn đề hoàn cảnh đã đưa ra nhận định: “hoàn cảnh trong văn học được cấu tạo như một phương diện của thế giới nghệ thuật có những yêu cầu cấu trúc nhất định, chứ không phải là sự sao chép đơn giản hoàn cảnh xã hội bên ngoài” [17. 25]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 1.1.2 Khái niệm “Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh” Trong cuốn Lí luận và phê bình văn học, GS Trần Đình Sử viết: “Có thể xem quan niệm nghệ thuật là khái niệm lí luận quan trọng bậc nhất trong mấy thập niên qua, có ý nghĩa trả về cho văn học bản chất nhân học” [50. 93] Nhưng thực tế là “Cho đến nay khái niệm này vẫn chưa có cách hiểu thống nhất”. Mặc dù vậy, GS Trần Đình Sử cũng đưa ra cách hiểu của mình về khái niệm quan niệm: “quan niệm không phải là khái niệm về đối tượng, về hiện thực mà là khái niệm về sự cắt nghĩa đối với đối tượng và hiện thực... quan niệm xét về bản chất là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện tầm lí giải, tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn ra một sự lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng nghệ thuật...” [50. 98]. Về quan niệm nghệ thuật, ông cho rằng “Trong nghệ thuật thế giới được quan niệm hóa trên cơ sở sự cảm thụ cá nhân về một thế giới, thỏa mãn nhu cầu tồn tại của nó. Nghệ thuật nâng sự cảm thụ thế giới lên tầm quan niệm về thế giới, ứng với một quan niệm nghệ thuật là một thế giới nghệ thuật. Với ý nghĩa này, quan niệm nghệ thuật là phạm trù về các chỉnh thể nghệ thuật, là công cụ để tư duy về các hiện tượng nghệ thuật như những chỉnh thể” [50. 99-100]. Đồng thời, ông cũng khẳng định quan niệm nghệ thuật là “cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật cũng như sự tiến bộ nghệ thuật” [50. 100]. Như vậy, có thể thấy quan niệm nghệ thuật chi phối các hệ thống thi pháp văn học rất sâu sắc (trong thi pháp học, quan niệm nghệ thuật về con người đã được nghiên cứu một cách hệ thống với các biểu hiện cụ thể trong tác phẩm văn học...). Kế thừa và phát triển những quan điểm lí luận của các nhà nghiên cứu đi trước, PGS.TS Phạm Mạnh Hùng đã chỉ ra: “Hoàn cảnh trong văn học là hoàn cảnh nghệ thuật. Nó có cấu trúc, có ý nghĩa riêng và chịu sự chi phối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 của quan niệm nghệ thuật của tác giả. Hoàn cảnh trong văn học không chỉ là sự phản ánh hoàn cảnh ngoài đời mà còn là quan niệm thẩm mỹ và nghệ thuật về hoàn cảnh ấy.” Từ đó tác giả nhận định “Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh là nguyên tắc cắt nghĩa lí giải gắn liền với sự cảm nhận hoàn cảnh của nhà văn. Quan niệm ấy sẽ chi phối tới việc sử dụng các phương tiện nghệ thuật trong tác phẩm. Nó thể hiện trong việc xác lập cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh trong tác phẩm của nhà văn” [18. 27]. 1.1.3. Tổng luận tài liệu nghiên cứu về “Quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh” Một thời gian dài trong nghiên cứu văn học, người ta chỉ quan tâm tới hoàn cảnh trong tác phẩm trên bình diện xã hội lịch sử. (Tất nhiên, đây không phải là cách nhìn sai lệch. “Bởi vì trong thực tiễn nghiên cứu văn học, tiếp cận văn học ở góc độ xã hội học vẫn là một phương hướng tiếp cận có giá trị khoa học...” [18. 50]. Nhưng, đó mới chỉ là cách tiếp cận chủ yếu ở phương diện nội dung mà chưa đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm văn học như là một sinh thể nghệ thuật với những hình thức bên trong tinh tế của nó). PGS.TS Phạm Mạnh Hùng là tác giả đầu tiên nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh... Từ việc xác định rõ ràng: “Hoàn cảnh trong tác phẩm văn học được đan dệt nên bởi những mối quan hệ giữa các nhân vật, nhưng hòan cảnh không đơn thuần chỉ là những mối quan hệ. Nó là toàn bộ thế giới xung quanh con người, từ những gì gần gũi bình thường cụ thể (đồ vật, vật dụng) đến những gì xa xôi trừu tượng (thời gian, không gian...); từ môi trường xã hội đến môi trường thiên nhiên, thơì tiết khí hậu, màu sắc, âm thanh... Tất cả những yếu tố đó đều có khả năng tác động vào tâm lí, sinh lí, ý nghĩ, tình cảm, tư tưởng, hành động... của con người, tác động tới sự hình thành tính cách và ảnh hưởng tới số phận con người” [18. 55], tác giả đã lí giải khá sâu sắc: “Quá trình sáng tạo hoàn cảnh không chỉ phụ thuộc vào vốn sống, kinh nghiệm hiểu biết của nhà văn mà còn phụ thuộc vào cá tính sáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19 tạo của từng tác giả, tức là phụ thuộc vào cái nhìn nghệ thuật độc đáo, vào cách cảm, cách nghĩ của nhà văn, thể hiện ở những nguyên tắc biện pháp nghệ thuật nhằm biểu hiện những hoàn cảnh nghệ thuật” [18. 60]. Như vậy, đương nhiên là cùng trong một hiện thực xã hội, nhưng quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh ở mỗi nhà văn lại khác nhau. Điều đó tạo nên bức tranh văn học đa sắc, phong phú mà độc đáo, hấp dẫn. Trong chuyên luận, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã minh chứng cho luận điểm khoa học của mình bằng những dẫn chứng cụ thể từ các tác phẩm tiêu biểu của ba cây bút lớn trong làng văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945 (Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng). Các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu văn học Việt Nam đã đánh giá cao những đóng góp của tác giả. GS Trần Đình Sử nhận xét: “Công trình nghiên cứu của Phạm Mạnh Hùng về thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố và Nam Cao vừa là bổ sung lí thuyết về hoàn cảnh trong lí luận văn học, vừa là một tìm tòi về tính đa dạng của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Với những đề xuất táo bạo về cấu trúc hoàn cảnh, với ngòi bút phân tích tinh tế, công phu, lần đầu tiên tác giả cho ta cảm nhận được một cách mới mẻ, thú vị, sự miêu tả hoàn cảnh trong các tác phẩm vốn đã rất quen thuộc đối với đông đảo người đọc. Và cũng từ đây ta sẽ hình dung cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn được rõ nét hơn” [18. 6]. Còn GS Phong Lê nhận xét: “Vậy là hoàn cảnh trong “quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh”, tức là xét trên phương diện nghệ thuật của nó, một “cấu trúc nghệ thuật” cho nó, là một thành tố quan trọng của thế giới nghệ thuật, là sản phẩm của một chủ thể sáng tạo, in đậm dấu ấn riêng của mỗi nhà văn, đồng thời cũng in dấu trào lưu sáng tác mà nhà văn phụ thuộc, và thời đại mà nhà văn sống” [18. 359]. Công trình nghiên cứu của PGS. TS Phạm Mạnh Hùng là cơ sở lí thuyết cơ bản để chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 20 1.1.4. Cấu trúc nghệ thụât của hoàn cảnh trong văn học Có thể nói đóng góp lớn nhất của tác giả Phạm Mạnh Hùng chính là việc chỉ ra cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh trong văn học. Hệ thống cấu trúc ấy bao gồm những yếu tố sau: - Hệ thống nhân vật tạo hoàn cảnh. - Mâu thuẫn xung đột tạo hoàn cảnh. - Cơ chế tạo hoàn cảnh. - Không khí tạo hoàn cảnh. 1.1.4.1. Hệ thống nhân vật tạo hoàn cảnh Hoàn cảnh trong văn học, ngoài tư cách là đối tượng miêu tả, phản ánh hiện thực, còn là môi trường, là phương tiện để thể hiện tính cách. Nhìn bề ngoài, nhân vật dường như hoạt động tự do theo ý muốn của nó, nhưng thực ra mọi hành động của nó đều do sự tác động của hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Hoàn cảnh chính là môi trường để nhân vật tồn tại và phát triển.Trong tác phẩm văn học, tính cách nảy sinh từ hoàn cảnh, song, hòan cảnh cũng được đan dệt nên bởi các tính cách. Chính vì vậy, trong cấu trúc nghệ thuật của hoàn cảnh, trước hết chúng ta tìm hiểu hệ thống nhân vật. Nhà nghiên cứu G.N.Pospelov trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học nhận định: “Đối tượng cơ bản của nghệ thuật là con người với tư cách là những tính cách xã hội cả trong các quan hệ bên ngoài lẫn thế giới tinh thần bên trong” [46. 86] . Tồn tại với vai trò là đối tượng cơ bản của văn học nghệ thuật, con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện nghệ thuật được gọi là nhân vật văn học. Bản thân khái niệm nhân vật văn học bao hàm một phạm vi rộng. (Do giới hạn của đề tài nên ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới khái niệm nhân vật trong tác phẩm tự sự). Nó chỉ một con người gắn với tên tuổi nhất định như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng