Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết nguyễn bình phương nhìn từ t...

Tài liệu Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết nguyễn bình phương nhìn từ thuyết hiện sinh

.PDF
26
359
123

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRẦN HẢI DƯƠNG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG NHÌN TỪ THUYẾT HIỆN SINH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐÀ NẴNG – NĂM 2016 Công trình được hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Bích Hạnh Phản biện 1: TS. Lê Thị Hường Phản biện 2: TS. Nguyễn Thanh Trường Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 10 tháng 09 năm 2016. Có thể tìm hiểu Luận văn tại: - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người là phạm trù căn cốt của thi pháp học hiện đại nhằm giải mã tác phẩm nghệ thuật; thể hiện bản lĩnh sáng tạo và tầm tư tưởng của một nhà văn, một thời đại sáng tác. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tạo nghệ thuật từ sau 1986 thay đổi sâu sắc. Từ con người cộng đồng, sử thi, văn học đã trở về với con người cá thể đầy phức tạp, người đa diện, đa nhân cách. Tiệm cận với chủ nghĩa hậu hiện đại, văn học xem trọng con người cá thể, lấy cái tôi làm tâm điểm luận giải về cuộc đời. Nghệ thuật không nhân danh toàn trị, nhất thể, lí tưởng hóa, mà chuyển dần thành xu thế đa trị, phi trung tâm, giải cấu trúc. 1.2. Trong sự phân nhánh nhiều xu hướng văn xuôi từ sau đổi mới 1986, có sự trở lại của văn học hiện sinh, đậm nhất là ở tiểu thuyết. Hợp lưu của thuyết hiện sinh với những yếu tố của chủ nghĩa hậu hiện đại đã thay đổi sâu sắc quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tiếp nhận tư duy triết mĩ học hiện sinh, tiểu thuyết Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XXI tịnh tiến sâu hơn vào khuynh hướng hiện sinh với những chủ đề âu lo về bản thể, thân phận con người; khát thèm tự do; sự phi lí, sự dấn thân, nổi loạn... 1.3. Nguyễn Bình Phương là cây bút có ý thức đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Nhu cầu cách tân thể loại trong sự vận động tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 tất yếu dẫn nhà văn đến với chủ nghĩa hiện sinh. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương lạ chính là ở chỗ, những câu chữ lễnh lãng của lối viết du hứng cứ dẫn dụ người đọc vào một cái thế giới vừa “nhầy nhụa hiện sinh” vừa thường biến nhập nhằng, hư ảo. Những thân phận người chật vật mưu sinh, oằn oại cô đơn, bất an giữa một cõi đời đầy phi lí, trì đọng, "buồn nôn", luôn khao khát vươn lên, vượt thoát khỏi nguy cơ tha hóa, xác lập địa vị con người. Quan 2 niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương mang phức cảm hiện sinh nhân vị. Nếu quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố cốt lõi để tạo nên giá trị của một tác phẩm văn học thì nó cũng là một phương diện thúc đẩy sự vận động, đổi mới thể loại. Trong khuynh hướng hiện sinh của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nguyễn Bình Phương là một trong số những cây bút khơi động vào tinh thần nhân vị hiện sinh sâu nhất. Chọn đề tài “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ thuyết hiện sinh” là một trong những hướng nghiên cứu xác đáng để giải mã sâu hơn về một hiện tượng văn học Việt Nam đương đại đến nay vẫn còn vẫy gọi. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 2.1. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương luôn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Lê Minh Hiền trong "Dấu ấn hậu hiện đại trong sáng của Nguyễn Bình Phương qua Những đứa trẻ chết già và Thoạt kỳ thủy" và Phùng Gia Thế trong “Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” đồng quan điểm tiểu thuyết của nhà văn này chịu ảnh hưởng của tư duy mảnh vỡ hậu hiện đại khi xây dựng con người. Dưới lí thuyết nhân tính, bằng cái nhìn triết học nhân vị hiện sinh cùng với tham chiếu phê bình phân tâm học, Bùi Bích Hạnh trong “Nhân vị điên trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” đã đặt ra vấn đề nhân vị điên với biểu hiện của tiền sử ấu thơ - miền sâu chấn thương, vô thức đám đông - cảm ứng lây nhiễm tâm thần. Thái Phan Vàng Anh trong bài viết “Khuynh hướng hiện sinh trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986” đã đánh giá: “Đặt cái hữu hạn của kiếp người bên cạnh cái vô hạn của thời gian, Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương tiêu biểu cho những ưu tư hiện sinh không bao giờ dứt của văn chương về thân phận con người”. 3 Nguyễn Thị Hồng Nhung trong “Bàn về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương”, qua khảo sát, soi chiếu hầu hết các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, tác giả khái quát một số kiểu nhân vật, nhấn mạnh kiểu nhân vật điên, nhân vật dị biệt. Đào Thị Dần với “Nhân vật dị biệt trong sáng tác của Tạ Duy Anh và Nguyễn Bình Phương” đã nhận xét nhân vật dị biệt là “một con đường khám phá đời sống vô thức của Nguyễn Bình Phương (…) tìm hướng đi mới cho văn học’’. Phạm Thị Thắm ở “Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” đã dùng lí thuyết hiện sinh để giải phẫu và phân loại những kiểu/ loại người trong sáng tác của Nguyễn Nguyễn Bình Phương: con người hoài nghi, lo âu; con người cô đơn, lạc loài; con người tha hóa; con người với khát vọng dấn thân. Tác giả khẳng định: “Quan niệm về con người của nhà văn Nguyễn Bình Phương vì thế mang màu sắc của chủ nghĩa hiện sinh”. 2.2. Như vậy qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đã có một số công trình, bài viết liên quan xoay quanh phạm vi khảo sát của đề tài. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhà nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề: "Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nhìn từ thuyết hiện sinh". Các bài viết chủ yếu khảo sát ở một vài khía cạnh về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương hoặc có những phát hiện gợi mở, mang tính định hướng. Ngay trong những công trình trực tiếp nghiên cứu về dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng chủ yếu dừng lại ở việc khám phá biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh qua từng kiểu nhân vật chứ chưa vận dụng thuyết hiện sinh để đánh giá toàn diện quan niệm của nhà văn về thế giới và con người. Vì thế, chúng tôi quyết định lựa chọn địa hạt còn nhiều điều thú vị, cần được khám phá này. 4 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Bình Phương, cụ thể là những tác phẩm: - Nguyễn Bình Phương (1991), Vào cõi, Nxb Thanh niên. - Nguyễn Bình Phương (2004), Bả giời, Nxb Quân đội Nhân dân. - Nguyễn Bình Phương (2006), Ngồi, Nxb Đà Nẵng. - Nguyễn Bình Phương (2013), Trí nhớ suy tàn, Nxb Tổng hợp. - Nguyễn Bình Phương (2013), Những đứa trẻ chết già, Nxb Trẻ. - Nguyễn Bình Phương (2013), Người đi vắng, Nxb Tổng hợp. - Nguyễn Bình Phương (2014), Thoạt kỳ thủy, Nxb Trẻ. - Nguyễn Bình Phương (2014), Mình và họ, Nxb Trẻ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài giới hạn phạm vi vấn đề nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là quan niệm nghệ thuật về con người từ góc nhìn của thuyết hiện sinh. 4. Đóng góp của luận văn Trên tọa độ triết thuyết hiện sinh, có sự tham chiếu của những tư tưởng nhân văn hiện đại, luận văn đi sâu nghiên cứu 7 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương và đủ cơ sở để khẳng định "quan niệm nghệ thuật về con người" của nhà văn chịu sự chi phối sâu sắc của cảm thức hiện sinh nhân vị. Nguyễn Bình Phương có những sáng tạo độc đáo không trộn lẫn, nhất là hình tượng nhân vị điên; có những thử nghiệm nghệ thuật đáng ghi nhận đặc biệt là việc sử dụng những "độc thoại/ tham thoại vô thức" trong kĩ thuật dòng ý thức đi sâu khám phá thế giới nội cảm của kiểu người biến dạng, dị biệt. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những đóng góp, giá trị của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, vốn được xem là "kén chọn độc giả". Đề tài này đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh 5 đối với tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, từ đó góp thêm những cơ sở khẳng định phong cách nhà văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp hệ thống, cấu trúc - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp thống kê - Phương pháp đối chiếu, so sánh - Phương pháp phê bình thi pháp học - Phương pháp phê bình hiện sinh 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo luận văn gồm ba chương: Chương 1: Văn xuôi Việt Nam sau 1986 và quan niệm nghệ thuật về con người hiện sinh Chương 2: Nỗi ám ảnh nhân vị - cách nhìn của Nguyễn Bình Phương về con người hiện sinh Chương 3: Dấu ấn hiện sinh trong kĩ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Bình Phương 6 CHƢƠNG 1 VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1986 VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI HIỆN SINH 1.1. VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1986 - NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI 1.1.1. Con ngƣời bất tín - phản tỉnh Từ sau 1975, đổi mới là nhu cầu bức thiết, sống còn của nền văn nghệ, của mỗi nghệ sĩ. Truyện ngắn và tiểu thuyết là đảm lãnh trọng trách mở đường và bắt đầu từ đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học nghệ thuật khước từ những "đại tự sự" để trở về với số phận của mỗi con người. Truyện Bức tranh (Nguyễn Minh Châu) mở đầu cho kiểu nhân vật bội tín - vong thân; nội soi, phán xét lương tâm. Nhân vật ý thức - phản tỉnh trở thành motif nhân vật chính yếu, diễn tả sự phức tạp muôn mặt đời sống hiện đại, làm thay đổi sắc diện nền văn học. Về thi pháp, đây là sự tiến bộ, trong xu hướng văn học thế giới. 1.1.2. Con ngƣời với mặc cảm cô đơn Thoát khỏi chiến tranh, đời sống chuyển hướng, những giá trị ngoại tại lên ngôi, tình cảm lí tưởng một thời mất dần địa vị. Quay cuồng theo vật chất, con người rơi vào đời sống phai nhạt tình người, vô cảm, thấm thía nỗi cô đơn. Con người cô đơn là kiểu nhân vật có tần suất cao trong văn xuôi sau 1986. Thân phận người với nỗi cô đơn tự thân và sự tha hoá bởi sự xói mòn các giá trị tinh thần mang tính bản thể trở thành mối quan tâm, trăn trở của văn học đương đại. 1.1.3. Con ngƣời truy tìm bản thể Văn xuôi sau 1986 ưu tiên xây dựng kiểu con người đi tìm bản thể. Hiện thực đời sống ngày càng bừa bộn, phức tạp; con người càng chìm lút vào đời 7 sống phi lí. Nhiều tác phẩm xuất hiện kiểu con người nổi loạn, dấn thân... Nhưng càng nổi loạn truy tìm, con người càng bế tắc, đành buông xuôi, bất chấp. Đối thoại đa chiều, đi sâu khai thác vô thức; giải thiêng linh giác, hạ bệ thần tượng; đề cao bản năng, phô bày thân xác; nổi loạn phá bĩnh, chối bỏ ra đi..., là những giải pháp truy tìm bản thể của văn chương sau 1986. 1.2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1986 NHÌN TỪ THUYẾT HIỆN SINH 1.2.1. Vài nét về triết thuyết hiện sinh và văn học hiện sinh Chủ nghĩa hiện sinh, về bản chất là sự phản ứng lại triết học trừu tượng, chống lại chủ nghĩa duy lý…, đề cao giá trị con người. Tư tưởng của các triết gia hiện sinh (hữu thần và vô thần) đồng qui ở những vấn đề cốt tủy: "Hiện sinh là triết học về ý nghĩa cuộc nhân sinh, là triết học về con người". Các chủ đề: lo âu, buồn nôn, cô đơn, cái chết, tha hóa…, là những phạm trù cơ bản của hiện sinh. Văn học hiện sinh xuất hiện ở Pháp, sau đó lan rộng ra nhiều nền văn học khác trên thế giới với những tên tuổi kiệt xuất: F. Kafka, J. P. Sartre, A. Camus… Triết học hiện sinh bắt đầu du nhập vào miền Nam Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX, ảnh hưởng sâu rộng đến sáng tạo nghệ thuật. Văn học nghệ thuật từ sau đổi mới, với những chuyển biến tất yếu của xã hội, chủ nghĩa hiện sinh lại có điều kiện bén rễ hồi sinh. 1.2.2. Phức cảm hiện sinh trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của văn xuôi Việt Nam sau 1986 a. Từ xác lập quyền năng của nhân vị Con người “ý thức mình là những nhân vị độc đáo”. Con người không do đấng sáng tạo nào nhào nặn ra, con người bị “ném vào” thế giới, và là kẻ "tự ném" mình vào tương lai. Khi tự dự phóng con người tự tạo ra chính mình. Tôi tự xác lập vị thế/ danh vị làm người; "tôi tự quyết hiện sinh tôi". Triết học hiện sinh đã đưa con người trở về với con người. Các chủ đề cơ bản của chủ nghĩa 8 hiện sinh như cô đơn, phi lí, buồn nôn, vong thân, dấn thân…, tạo nên sự phong phú, hấp dẫn của văn xuôi Việt Nam từ sau 1986. b. … đến đề cao thân xác Với cảm quan hậu hiện đại, vấn đề tính dục, tiếng nói thân xác từ chỗ thường bị xem là yếu tố “ngoại biên” đã dần chuyển thành vấn đề “trung tâm", chi phối sự thể hiện con người. Văn chương hiện đại tiệm cận hậu hiện đại, với những góc nhìn mới về thân xác, về mĩ học tính dục có sự "cộng tác" của chủ nghĩa hiện sinh đã làm nên một thời kì hoàng kim, "phì đại" của "văn chương tính dục". Nhiều tác phẩm đã chạm sâu đến giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa nhân bản từ tư duy “ca tụng thân xác”. c. ... và dự phóng trong những lựa chọn phi lí Văn xuôi Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI tiếp tục thể hiện các quan niệm về tính chủ thể, về tự do, sự phi lí; về dấn thân, nổi loạn. Nhân vật của Đỗ Phấn, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Việt..., thường tạo lập cho mình một hành trình. Đi và kết cục là đi lạc/ mất tích, là cái chết. Đi bất kể đích đến là hư vô, miễn là thoát khỏi những đeo bám tẹp nhẹp. Motif nhân vật tìm lối thoát thực tại chật chội khá phổ biến. Trong dòng chảy của văn học hiện sinh đó, Nguyễn Bình Phương là một cây bút có bản sắc độc đáo từ những trang văn vừa hiện thực sống sít vừa kì bí huyền thoại. Nằm trong dòng chảy đời tư thế sự, nhà văn đã triệt để phơi bày thực trạng nhân tâm như bản chất "thậm phồn" vốn có của nó. Nguyễn Bình Phương có những "vùng tự trị" riêng: "Thoạt kỳ thủy", thế giới uyên nguyên - hoang đàng của người điên; cõi mộng du ảo tượng triền miên... Tất cả xuất phát từ quan niệm sâu sắc về con người cũng như về văn chương của Nguyễn Bình Phương. 9 CHƢƠNG 2 NỖI ÁM ẢNH NHÂN VỊ - CÁCH NHÌN CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG VỀ CON NGƢỜI HIỆN SINH Nhân vị - việc xác lập “ngôi thứ của con người trong vũ trụ, vị thế của con người giữa nhân gian và cách con người tạo lập/ lập nhân giữa tha nhân”. Triết thuyết hiện sinh khẳng định mọi người đều bình đẳng về nhân vị, là chức vị/ bổn phận/ vị thế làm người, tất yếu tồn tại, bất khả bãi miễn, mọi giả thiết đều vô can... Qua 7 cuốn tiểu thuyết, đủ chứng thực cảm quan nghệ thuật về con người của Nguyễn Bình Phương luôn nằm trong miền giá trị hiện sinh nhân vị. 2.1. NHÂN VỊ TỰ THÚ, SỰ GIÃY GIỤA CỦA NHÂN TÍNH 2.1.1. Cởi bỏ mặt nạ của "những đứa trẻ chết già" Lí thuyết mặt nạ carnival của M. Bakhtin là "một lối dẫn vào tiểu thuyết Việt Nam đương đại"; giao với lý thuyết mặt nạ vô thức của phân tâm học. "Nguyên mẫu mặt nạ", là "một phức cảm chức năng", giúp con người thích nghi xã hội. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương là "sân chơi trào tiếu"; tác giả, độc giả cũng bị lôi kéo vào vai diễn "có giới hạn" trong giới hạn "lễ hội trào tiếu" tạm thời. Những đứa trẻ chết già là một cõi người đeo mặt nạ. Những đứa trẻ sinh ra đã mang gương mặt người già nhăn nheo ác nghiệt; chết ngay vì già. Có những kẻ tự nguyện đeo mặt nạ cho đến già. Biết bao số phận "con nít" bị ép đeo "mặt nạ giả trang già". Chêm xen vào đó là những cái mặt nạ của trí thức dỏm. Người đi vắng là cảnh đời "giả diện", đầy những màn "trình diễn mặt nạ". Đó là những vai diễn phổ biến cuộc đời; kẻ diễn dần đánh mất chân diện sau những lần "giả trang mặt nạ nhập vai" đam mê rốt ráo cho kịch bản kẻ khác. Nguyễn Bình Phương còn tố giác "mặt nạ giáo chức", thể hiện cái nhìn cốt cách hiện sinh. 10 Mỗi tiểu thuyết là một đám hội diễn mặt nạ ráo riết phơi bày. Trí nhớ suy tàn, Ngồi: hội diễn trào tiếu theo kiểu cư dân thị thành, công chức tha hóa. Thoạt kỳ thủy: hội diễn trào tiếu hiện sinh cõi người đầy đặc hình nhân mang mặt nạ dị dạng, méo mó... Thế giới nhân vật của Nguyễn Bình Phương tạo nên những đám hội mặt nạ carnival nhân quần diễn xuất nhập vai sinh động, đầy sắc màu hiện sinh. 2.1.2. Xói mòn hành vi nhân tính - tha hóa nhân vị Tha hóa, xói mòn nhân tính là căn nguyên hủy diệt nhân vị. Xói mòn nhân phẩm, nhân cách của tầng lớp trí thức được Nguyễn Bình Phương chạm động: chạy chọt, quan hệ, bất chấp vô lương, thủ đoạn, chia bè, kết phái, đấu đá, thanh trừng, trác táng, dâm dục… Tha hóa là căn nguyên hủy diệt nhân tính, xói mòn nhân vị… Bạo lực là hiểm họa hủy diệt nhân vị. Bạo lực bắt đầu tràn lan tốt xấu lẫn lộn trong Những đứa trẻ chết già. Xã hội Thoạt kỳ thủy là một tình trạng sống dồn nén nhiều năng lượng của tai ương: bạo lực, hiếu sát, điên loạn. Mình và họ tập trung tình trạng hủy diệt nhân vị: tha hóa nhân tính và bạo lực. Bạo lực tràn lan, bao phủ từ quá khứ đến hiện tại, từ rừng núi đến thị thành. Mình và họ là một tiểu thuyết của những cái chết, của xác chết. Chết do tai nạn, chết do trời đánh, chết do bị đốt, bị ám sát, chết do thổ phỉ tàn sát, do chiến tranh, cái chết của người điên… Ngay nhân vật người kể chuyện là một hồn ma, trong ranh giới mong manh giữa sống - chết, cố "trì hoãn" hiện sinh. 2.1.3. Thú nhận những dồn nén dục tính "Tự ngã tính dục mù quáng và độc ác” (Frued), nó thoả mãn các ham muốn bản năng, không cần biết đến hậu quả. Bả giời là trò chơi xác thịt, thứ "bả" trời cho, sung sướng lẫn khổ đau. Những đứa trẻ chết già có rất nhiều cảnh đời sống bê tha, trụy lạc. Người đi vắng là cõi người tự 11 đày đọa trong ham hố nhục dục. Ngồi là câu chuyện được ghép lại từ "xác thịt" và "dạ dày". Trong Mình và họ, xen vào câu chuyện xe lên xe xuống là vô số lần miêu tả hưởng lạc xác thịt. Đặc biệt, sự tha hóa ở nhân vị tính nữ xuất phát từ căn nguyên dồn nén dục tính trở đi trở lại trong những trang văn Nguyễn Bình Phương cho thấy độ đậm đặc của vấn đề náo loạn tính dục nữ. 2.2. NHÂN VỊ VỚI MẶC CẢM HIỆN SINH 2.2.1. Con ngƣời cô đơn - hoài nghi, lo âu Chủ nghĩa hiện sinh chấp nhận cô đơn là "tình trạng khốn khổ, nhưng định mệnh". Cô đơn là chủ đề nổi trội của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Nỗi cô đơn định mệnh của người nghệ sĩ trong Bả giời, trong Vào cõi, những người phụ nữ oằn oại cô đơn, quá khứ đày đọa, hiện tại lay lắt. Một nỗi cô đơn… ủ ê, tuyệt vọng khi con người đã ở cõi chết (Những đứa trẻ chết già). Ngồi là tình cảnh chơ vơ của kẻ trí thức giữa một đời sống đầy bon chen, dẫm đạp vô nghĩa. Ở Người đi vắng mỗi người bám đuổi một kiếp cô đơn trong chính dục vọng bản thân. Cô đơn trong Mình và họ khởi phát từ căn nguyên xung đột giữa hữu thể và hư vô; giữa mình và họ; trong một mái nhà và trên một chiếc giường giữa hai kẻ "đồng sàng dị mộng". Rợn ngợp là cô đơn ngay trong bản thể, giữa tôi và kẻ khác… Mỗi sinh mệnh của Nguyễn Bình Phương dấy lên nỗi niềm ưu tư da diết hiện sinh. 2.2.2. Con ngƣời mặc cảm bị ruồng bỏ Ra đời trong một thời đại đổ vỡ, khủng hoảng niềm tin, "mất Chúa", chủ nghĩa hiện sinh quan niệm con người bị “ném vào thế giới", và đến lượt “tự ném mình vào tương lai", vì thế mà con người luôn mang mặc cảm về sự ruồng bỏ, bơ vơ. Motif con người với mặc cảm bị ruồng bỏ thường xuất hiện trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Nhà 12 văn đặc biệt quan tâm đến thân phận người phụ nữ bị phụ rẫy, bỏ rơi. Nhân vật người anh của Hiếu trong Mình và họ là một điển hình cho nỗi đau thân phận bị người thân bỏ rơi giữa bi kịch đổ vỡ hạnh phúc và sự bành trướng của dư chấn chiến tranh, hóa điên và chết thảm. Cô đơn, bơ vơ, lạc lõng, mặc cảm bị ruồng bỏ là chủ đề chính của chủ nghĩa hiện sinh chi phối cảm quan nghệ thuật nhà văn. 2.2.3. Con ngƣời vong thân Vong thân/ vong bản là một đề tài quan trọng của chủ nghĩa hiện sinh nhân bản. Nguyễn Bình Phương quan tâm đến vấn đề tình trạng mất niềm tin, sống hoài nghi, lo âu về sự tồn tại của bản mệnh, về mục đích của sự hiện sinh, về lí tưởng đích xác của mỗi sinh thể. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương xuất hiện kiểu nhân vật tự đánh mất mình, tìm cách chối bỏ nguồn cội: Sơn, Hà (Người đi vắng), Hùng (Ngồi). Trong Trí nhớ suy tàn, nhân vật "em" hoài nghi, bất tín ngay đến cả trí nhớ bản thân. Tiểu thuyết Ngồi là thế giới người sống vô nghĩa, xa lạ với chính mình. Khẩn là điển hình của bi kịch vong thân, phân rã bản ngã trong dòng chảy “phong nhiêu” thông tin kĩ thuật số. Những đứa trẻ chết già có kẻ cam tâm sống một đời vong thân vì kho báu; những kẻ trí thức vong thân vì lối sống bê tha; những phận đàn bà vong thân vì sống bản năng nhục dục… Người đi vắng đi sâu vào chủ đề vong bản do ham hố vật chất, nhục dục, "thiếu vắng người" sống đúng nghĩa. Đời sống nổi váng lên, hư mục, Thắng nghe tiếng mọt vọng ra từ cơ thể. Một tình trạng sống như đã chết, nhợt nhạt, vô danh, vô vị; đến chết vẫn chưa tỉnh giấc phóng thể. 13 2.3. NHÂN VỊ ĐIÊN - NHỮNG PHẬN NGƢỜI BIẾN DẠNG Nhân vị điên trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương đã làm nên một thế giới Thoạt kỳ thủy - thuở ban đầu - uyên nguyên cõi người điên xộc xệch độc đáo, xưa nay hiếm trong văn chương. 2.3.1. Chấn thƣơng với tiền sử ấu thơ Theo phân tâm học, chấn thương tinh thần từ thuở ấu thơ sẽ luôn để lại trong tiềm thức những vết sẹo vĩnh viễn, không nằm yên mà ủ bệnh sâu, âm thầm tác động và điều dẫn nội tâm. Nhân vật Chung (Người đi vắng) với chấn thương tiền sử ấu thơ ám ảnh bởi lời dọa thiến từ lão thiến dê. Tính (Thoạt kỳ thủy) là một trình trạng hư hoại/ trôi dạt/ thất tán bản ngã do tổn thương sâu tâm lí: sợ trăng, thèm máu, nhìn dao nuốt nước bọt, thích chọc tiết. Tình trạng điên của người anh của Hiếu (Mình và họ) khởi thủy từ bệnh bất lực đàn ông... Tổn thương tinh thần, chấn động tâm não tiền sử ấu thơ là thứ năng lượng vô hình, căn tính nguyên ủy dẫn đến tình trạng náo loạn, dị thường của những nhân vị biến dạng. 2.3.2. Náo loạn trong lây nhiễm tâm thần đám đông Thoạt kỳ thủy là thế giới của người điên, dự trữ năng lượng bất thường của đời sống tâm thần. Quần thể người điên ở làng Phan trong Thoạt kỳ thủy là "dung môi" chứng bệnh điên của Tính. Khi chơi với bầy người điên, vô thức bản năng của Tính kích hoạt bởi sự cổ vũ bầy đàn. Đỉnh điểm dồn nén tâm thức điên loạn của Tính xuất phát từ đám đông điên. Tính say chơi với đám người điên rồi giết thằng bé điên. Hệ lụy lây nhiễm tâm thần đám đông điên là nguyên chứng gây áp lực tâm lí cho nhân vật. Sự cộng hưởng của tính cách/ tâm lí đám đông vì thế là đáng sợ, nếu đó là những tính cách tha hóa, trụy lạc... Chính xu thế bầy đàn đám đông điên trong Thoạt kỳ thủy đã khiến cho nhiều người ở làng Phan bị lây nhiễm, quấy nhiễu tâm thần. 14 2.3.3. Dƣ chấn của hệ lụy chiến tranh Phản ánh chiến tranh, Nguyễn Bình Phương chủ đích khai thác hệ lụy dư chấn của nó. Trong Thoạt kỳ thủy, không khí của chiến tranh diễn ra ở làng Phan tạo thêm áp lực lên tâm não điên loạn và đẩy Tính nhanh vào chứng bệnh điên. Hưng là kẻ đào ngũ trong chiến thời chống Mỹ. Chiến tranh bành trướng nổ ra tận biên giới nhưng đã "chạm nọc" nỗi nhục đào ngũ, khiến Hưng phát cơn điên, cướp súng, giết người, tự sát. Trong Mình và họ người anh Hiếu, lính chống Tàu, trải qua những trận bắn giết kinh hoàng, bị bắt làm tù binh, bị tra tấn dã man,... Trốn thoát được lò sát sinh trở về, người thương binh tiếp tục hứng "đạn" từ bi kịch gia đình. Bất lực đàn ông và vỡ mộng hạnh phúc là đầu mối nổi loạn vô thức, tạo điều kiện cho những kí ức chiến trận kinh hoàng tung những cú giáng choáng váng tinh thần. Dư chấn chiến tranh là tác nhân chủ yếu của nhân vị điên trong Mình và họ. 2.4. NHÂN VỊ MANG TINH THẦN PHẢN KHÁNG 2.4.1. Từ phản tỉnh, nổi loạn "Con người hiện sinh là nhân vị phản kháng". Con người là một phóng thể, thoát khỏi thực trạng buồn nôn, vô nghĩa để xác lập một đời sống xứng đáng với địa vị con người. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có những nhân vị mang khát vọng hoặc chí ít tiềm ẩn dấu hiệu khát vọng nổi loạn, phản tỉnh. Trong Mình và họ, hậu ảnh của con người nổi loạn ngay trong những hành vi thường nhật, bản năng tầm thường dung tục nhất của nhân vật Hiếu. Mô tả những nổi loạn siêu vi thường nhật cũng là một cách phản ứng với thực tại phi lí, trì hãm. Hiếu là motif nhân vật phản tỉnh khá điển hình: dòng phản tỉnh thứ nhất có căn nguyên từ tội bị chị dâu (Hằng) gài thế loạn luân; suy tư phản tỉnh ray rứt nhất của Tính xuất phát từ sự vô cảm bản thân trong căn bệnh điên 15 và cái chết thảm của người anh; một dòng phản tỉnh khác của Hiếu từ lỗi lầm tham gia quái trò đốt Vân Ly do Trang chủ mưu. Ý thức phản tỉnh này là sự sám hối nhân tâm quí báu bảo tồn nhân tính, níu giữ nhân vị trong cuộc mưu sinh hỗn loạn. 2.4.2. … đến khát thèm chứng thực tự do Tự do là bản thể của hiện sinh. Motif nhân vật tự quyết một cuộc hành trình thỉnh thoảng xuất hiện trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Vọng (Vào cõi) quyết định lên thành phố để thay đổi số phận. Ông Phùng (Thoạt kỳ thủy) náo nức về Hà Nội với giấc mộng văn chương. Em (Trí nhớ suy tàn) phấp phỏng một chuyến đi xa. Chạy thoát khỏi thực tại lùng bùng, hít thở thoáng khí, bất chấp tiền đồ, là xu thế nhân vật mang mầm nổi loạn. Có những cuộc trốn chạy hoảng loạn chối bỏ nguồn cội: Sơn (Người đi vắng). Hiếu (Mình và họ) phản tỉnh nhận ra tội lỗi, thực trạng vô nghĩa, phi lí, quyết dấn thân làm một cuộc hành trình đến tận đỉnh Tà Vần trên biên giới… 2.4.3. … và phân thân trong mặt nạ vô thức Nguyên mẫu mặt nạ, "giả diện" là một phức cảm chức năng cần cho sự thích nghi tồn tại. Nếu gọi bản ngã (Ego) là cái mặt nạ che đậy tự ngã (Id), thì siêu ngã (Super-ego) là cái mặt nạ che đậy Ego. Nhiều nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương chối bỏ thực tại phân thân mặt nạ truy tìm bản ngã. Phân thân trong mặt nạ nguyên mẫu sáng tạo, đam mê nghệ thuật, khát vọng khẳng định giá trị bản thân. Ẩn phận mặt nạ của cõi khác/ cõi linh giác, linh hồn khi đã chết là một thử nghiệm táo bạo của Nguyễn Bình Phương. Chết chưa phải là đoạn tuyệt mà là sự kéo dài, "trì hoãn" hiện sinh. Mơ và trốn vào những giấc mơ cũng là một cách thoát khỏi thực tại, một trạng thái phân thân hiện thể khát khao bất thành trong đời sống. 16 CHƢƠNG 3 DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG KĨ THUẬT THỂ HIỆN QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG 3.1. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT 3.1.1. Không gian đám đông Tha hóa tập thể, tiêm nhiễm thói quen, xu thế bầy đàn ám ảnh và chi phối nhân cách cá thể, làm hư hoại hoặc củng cố địa vị hiện sinh được Nguyễn Bình Phương quan tâm. Để phản ánh có sức thuyết phục nội dung này, Nguyễn Bình Phương dựng tả nhiều khung cảnh không gian đám đông. Đó có thể là không gian của những vụ cháy nhà; những đám ma, đám cưới; thậm chí là cả không gian của những "đám trộm cướp"… Độc đáo nhất là đám đông quần thể người điên. 3.1.2. Không gian hiện thực phi lí, “buồn nôn” Các vấn đề nhức nhối của văn học phi lí được đan cài rất dày trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Khung cảnh làng quê là đời sống chung chạ, bậy bạ, loạn luân; đàn ông vô học, thô lỗ, nhục dục; đàn bà lăng loàn, thọc mạch. Không khí nhàm chán, ẩm mốc, bụi bặm của đời sống công chức đô thị dội lên từ Ngồi: quẩn quanh, bí bức, ngột ngạt; thanh trừng, bon chen, giẫm đạp; ngập ngụa trong tệ nạn đề đóm, bài bạc; thác loạn bầy đàn, thả cửa bản năng xác thịt... Tình trạng sống của Khẩn lột tả tột cùng một đời sống phi lí. 3.1.3. Không gian phi thực, kì ảo Không gian nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương vừa mang màu sắc phi lí, vừa phảng phất bóng dáng huyền thoại, nhập nhằng giữa hữu thức và vô thức, hư thực giữa cõi trần chập chờn đan cài ma mị cõi âm; không thể tách biệt giữa trực giác hiện sinh hay ảo giác tâm linh; giữa trực cảm khách quan hay linh cảm vô thức. Ảo giác, linh tính, điềm báo quẩn quanh bủa vây con người. 17 Điều này một mặt tăng cường tính chất phi lí của hiện thực; mặc khác giúp giải mã những bí ẩn cõi tâm thức sâu thẳm; khẳng định giá trị hiện sinh. 3.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THỜI GIAN NGHỆ THUẬT 3.2.1. Thời gian dự thuật, đảo thuật Độ lệch giữa thời gian trần thuật và thời gian xảy ra sự kiện được Genette gọi là “thời sai”; điều này được thực hiện bằng hai kỹ thuật chủ yếu: “đảo thuật” và “dự thuật”. Đảo thuật, dự thuật, sắp đặt thời gian nghệ thuật là đặc tính của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Nhà văn thường dụng kĩ thuật đảo trộn, cắt dán với kết cấu “mảnh vỡ” của tư duy hậu hiện đại. Sau khi bố cục cốt truyện, nhà văn lại "đập vỡ" nó ra, nát vụn, "văng mảnh lung tung" rồi dùng các kĩ thuật kết dính, sắp đặt nó lại theo một ý đồ chủ quan sáng tạo. Một biểu hiện rõ nét của đảo thuật đó là thời gian sự việc được gián đoạn, đảo trộn, sắp đặt giữa thời gian cõi thực, cõi tâm linh và cõi vô thức, ảo giác trong hầu hết các tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Ngồi, Mình và họ là tiểu thuyết sử dụng kĩ thuật dự thuật sáng tạo. 3.2.2. Thời gian đồng hiện, trì hoãn Đồng hiện trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là sự giao thoa phức tạp giữa thời gian của cõi thực và cõi mộng ảo; thời gian của hữu thức và linh giác; thời gian của ý thức và vô thức; thời gian của người tỉnh và người điên… Thời gian lịch sử - hiện tại - tâm linh - ảo giác - cõi chết đồng hiện trong Người đi vắng. Thời gian lịch sử huyền thoại, thời gian cõi mơ lung linh đồng hiện với thời gian sống thực u trệ, sa đọa trong Ngồi. Thời gian cõi sống - cõi chết - trực giác - huyền thoại cùng đồng hiện trong Những đứa trẻ chết già. Đồng hiện trong Mình và họ đồng quy nhiều tuyến thời gian, chằng chịt, chồng chéo. Kĩ thuật đồng hiện kết hợp với đảo thuật, dự thuật, gián đoạn gây áp lực đối với người đọc; thể hiện sâu sắc triết lí hiện sinh. 18 Theo thuyết hiện sinh, căn nguyên của tư duy đồng hiện, chồng xếp thời gian là sự khát thèm “trì hoãn” thời gian. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương gần như có hai thế giới song song tồn tại, thế giới của người sống và người chết. Ám ảnh nhất là hình ảnh những linh hồn, hoang thai vất vưởng, trôi dạt, đi lại, nói cười, cũng đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố như con người. Hoàn trong Người đi vắng, Hiếu trong Mình và họ…, thực chất là những linh hồn của người đã chết đang chênh vênh giữa ranh giới mong manh giữa cõi thực và thế giới bên kia, đang cố gắng bám víu, trì hoãn sự sống. 3.3. KĨ THUẬT XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT 3.3.1. Điểm nhìn trần thuật a. Điểm nhìn bên ngoài - phán xét nhân tính Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thường sử dụng điểm nhìn bên ngoài nhưng không phải lối nhìn đơn điểm của kiểu người kể chuyện biết tuốt, "toàn năng", “áp đặt” độc giả của tiểu thuyết cổ điển. Kết hợp với giọng vô âm sắc, Nguyễn Bình Phương thương dùng phương pháp kể chuyện "bên ngoài đa điểm nhìn", ở mỗi góc nhìn, nhà văn giữ quan sát trung tính, ít cho phép nội tâm tham gia vào diễn biến cốt truyện. Điểm nhìn bên ngoài cộng hưởng giọng điệu lạnh lùng đã làm tăng thêm tính chất dã man, mông muội, thú tính của những kẻ sinh ra mang hình hài người nhưng nội tâm không phải là con người. b. Điểm nhìn bên trong - tự thú miền sâu vô thức Nguyễn Bình Phương không sử dụng cách thức trần thuật nhập vai xưng tôi, sử dụng ở mức hạn chế những chi tiết trực tiếp tham gia vào nội tâm và trữ tình ngoại đề tiết chế. Điểm nhìn trần thuật bên trong chủ yếu thể hiện ở việc vận dụng "kỹ thuật dòng ý thức", biểu hiện nổi bật là độc thoại nội tâm. Điểm độc đáo là việc sử dụng dạng độc thoại nội tâm, (hay những đối thoại xét về bản chất mang hình thức độc thoại) hoàn toàn do vô thức bản năng chi phối.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan