VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TƢ
QUAN NIỆM CỦA V.I.LÊNIN VỀ NHÀ NƢỚC
TRONG “NHÀ NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG” VÀ Ý NGHĨA
CỦA QUAN NIỆM ĐÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Đặng Hữu Toàn
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Tƣ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG, BỐI CẢNH RA ĐỜI, NỘI DUNG CƠ BẢN
VÀ KẾT CẤU CỦA “NHÀ NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG” ......................................6
1.1. Tiền đề tư tưởng ......................................................................................... 6
1.2. Bối cảnh ra đời “Nhà nước và cách mạng”.............................................. 24
1.3. Nội dung cơ bản và bố cục của “Nhà nước và cách mạng”..................... 27
Chƣơng 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN NIỆM CỦA
V.I.LÊNIN VỀ NHÀ NƢỚC TRONG "NHÀ NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG” .....31
2.1. Về bản chất và nguồn gốc của nhà nước.................................................. 31
2.2. Về những đặc trưng cơ bản của nhà nước ............................................... 38
2.3. Về cách mạng bạo lực và nhà nước chuyên chính vô sản ....................... 41
2.4. Về chế độ dân chủ và sự tiêu vong của nhà nước .................................... 46
Chƣơng 3. GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI VÀ Ý NGHĨA VẬN DỤNG TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN THEO QUAN NIỆM CỦA V.I.LÊNIN
VỀ NHÀ NƢỚC TRONG “NHÀ NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG” ..........................51
3.1. Giá trị thời đại quan niệm của V.I.Lênin về nhà nước trong “Nhà nước
và cách mạng”. ................................................................................................ 51
3.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. ........................... 54
KẾT LUẬN .............................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, vấn đề về nhà nước luôn là tâm điểm tranh luận của
triết học, luật học, chính trị học trên thế giới, bởi lẽ nhà nước là một hiện
tượng xã hội rất phức tạp, đa dạng, luôn vận động và thay đổi theo thời gian.
Nếu chúng ta không có được nhận thức toàn diện, đúng đắn về vị trí, vai trò
và chức năng của nhà nước thì khó có thể quản lý xã hội, vì mục tiêu phát
triển bền vững và vì con người. Mặt khác, nhắc đến đời sống chính trị là chủ
yếu nhắc đến vấn đề nhà nước, bởi vậy, vấn đề nhà nước từ xưa đến nay, luôn
chiếm giữ vị trí then chốt trong toàn bộ đời sống chính trị nhân loại. Vì vậy,
ngay từ khi nhà nước mới ra đời, các nhà tư tưởng trên thế giới luôn quan tâm
nghiên cứu, tìm hiểu bản chất thực sự của hiện tượng phức tạp này. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, quan điểm của các nhà tư tưởng
trước Mác hầu như chưa xác định đúng nguồn gốc, bản chất, chức năng của
nhà nước,... Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác, với lập trường duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, chính là những người đầu tiên đề xướng học thuyết
khoa học về nhà nước. Học thuyết này sau đó đã được V.I.Lênin phát triển
ngày càng hoàn bị hơn. Học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin
đã thể hiện rõ và bảo vệ cho lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đồng thời, đây còn là cơ
sở lý luận khoa học để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới xây
dựng nhà nước kiểu mới của mình – đó là nhà nước do giai cấp công nhân lãnh
đạo, nhà nước mà chủ thể quyền lực thuộc về quần chúng nhân dân lao động.
Sự nghiệp cách mạng ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Do vậy, để xây dựng và ngày
càng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện và tình hình mới, chúng ta tiếp tục
phải quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước.
1
Từ thực tiễn xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hơn 70 năm qua
cho thấy, sự lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn
đúng đắn. Trong bối cảnh lịch sử hiện nay đã minh chứng rằng, sự lựa chọn
ấy của Đảng và dân tộc ta vẫn là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt
nhất, dù cho tình hình trong nước và thế giới hiện nay đang có nhiều thay đổi
to lớn. Tuy vậy, công cuộc đổi mới đất nước hiện nay ở Việt Nam cũng đặt ra
nhiều vấn đề lý luận phức tạp cần phải giải quyết triệt để, trong đó có vấn đề
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu tư tưởng của chủ nghĩa Mác nói chung, của V.I.Lênin nói
riêng về nhà nước và vận dụng tư tưởng đó nhằm góp phần xây dựng nhà
nước ta trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay không những có
ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận, mà còn cung cấp cho chúng ta những bài
học kinh nghiệm quý giá để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức thực sự là “công bộc của dân”, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, loại trừ những thói hư tật xấu trong nhà nước, phát huy quyền làm
chủ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học
của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Quan
niệm của V.I.Lênin về nhà nước trong “Nhà nước và cách mạng” và ý
nghĩa của quan niệm đó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên nghành triết học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nhà nước trong “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lênin và vấn
đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu, có thể kể đến như sau :
- Nguyễn Thanh Tuấn, Trần Ngọc Linh, Trần Nguyễn Tuyên - đồng chủ
biên (2008), Quan điểm chính trị trong một số tác phẩm kinh điển Mác –
Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2
- Ngô Đình Xây (2010), Vận dụng tư tưởng nhà nước tiêu vong của
Ph.Ăngghen trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Xuân Phong (2011), Giới thiệu một số tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trương Quốc Chính (2013), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
theo quan điểm mácxít, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Tạ Ngọc Tấn, Kikẹo Khảykhămphithun đồng chủ biên (2015), Xây
dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Lào, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội…
Trong các công trình nghiên cứu và đã được công bố như trên, các tác
giả đã trình bày một cách có hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề nhà nước trong một số tác phẩm kinh điển. Vấn đề nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam nói riêng.
Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan
đến đề tài; nhưng vấn đề “ Quan niệm của V.I.Lênin về nhà nước trong “Nhà
nước và cách mạng” và ý nghĩa của quan niệm đó trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay” vẫn là một vấn đề cần được quan tâm làm rõ
thêm. Có thể thấy rằng, việc đi sâu vào nghiên cứu vấn đề mà luận văn lựa
chọn tuy không còn là vấn đề mới, song vẫn chưa phải vấn đề đã được giải
quyết triệt để.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài có mục đích sau :
- Làm rõ tư tưởng của V.I.Lênin về nhà nước, nhất là về bản chất cách
mạng và khoa học của nhà nước chuyên chính vô sản trong “Nhà nước và
cách mạng”, qua đó khẳng định ý nghĩa của tư tưởng này trong xây dựng nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ như sau:
3
Một là, làm rõ tiền đề tư tưởng, hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản
của tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Hai là, phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của V.I.Lênin
về nhà nước trong “Nhà nước và cách mạng”.
Ba là, rút ra ý nghĩa trong tư tưởng của V.I.Lênin về nhà nước đối với
thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Những quan điểm cơ bản của V.I.Lênin về nhà nước trong “Nhà nước
và cách mạng”.
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu là ý nghĩa lý luận của V.I.Lênin về
nhà nước đối với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm của Lênin về nhà nước chủ
yếu trong V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva; đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề trên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận.
Quá trình nghiên cứu, luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng, Nhà nước về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp lịch sử : Luận văn sử dụng phương pháp này để phân
tích tiền đề của tư tưởng về nhà nước trong lịch sử triết học.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp : Sử dụng phương pháp này để phân
tích về nhà nước, bản chất nhà nước do V.I.Lênin đưa ra.
4
- Phương pháp so sánh được dùng để so sánh các mô hình nhà nước
khác nhau, đặc biệt là nhà nước vô sản với tư sản để từ đó tìm thấy ưu điểm
của nhà nước vô sản do V.I.Lênin chỉ ra, đặc biệt là đối với vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền ở nước ta trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin nói
chung và tư tưởng của V.I.Lênin về nhà nước nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được bố cục thành 3 chương, 10
tiết như sau:
Chương 1. Tiền đề tư tưởng, bối cảnh ra đời, nội dung cơ bản và kết
cấu của “Nhà nước và cách mạng”.
Chương 2. Một số nội dung cơ bản trong quan niệm của V.I.Lênin về
nhà nước trong “Nhà nước và cách mạng”.
Chương 3. Giá trị thời đại và ý nghĩa vận dụng trong xây dựng nhà
nước pháp quyền quan niệm của V.I.Lênin về nhà nước trong “Nhà nước và
cách mạng”.
5
Chƣơng 1
TIỀN ĐỀ TƢ TƢỞNG, BỐI CẢNH RA ĐỜI, NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ
KẾT CẤU CỦA “NHÀ NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG”
1.1. Tiền đề tƣ tƣởng
1.1.1 Tư tưởng về nhà nước trong lịch sử tư tưởng trước C.Mác
Vấn đề nhà nước luôn là một vấn đề hết sức phức tạp và đây cũng
chính là vấn đề trung tâm của tất cả các cuộc đấu tranh trong xã hội có các
giai cấp đối kháng. Trong lịch sử triết học có nhiều lí giải khác nhau về vấn
đề nhà nước, tuy nhiên, do nhà nước là nơi gắn liền với lợi ích của nhà cầm
quyền, cho nên, nó thường không được nhìn nhận một cách khách quan, khoa
học. Vấn đề nhà nước đã được đề cập trong lịch sử triết học ngay từ thời cổ
đại. Những tư tưởng về nhà nước tiếp tục được phát triển hơn nữa qua các
thời kỳ trung cổ, cận đại và hiện đại. Điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc xây dựng và hoàn thiện lý luận chung về nhà nước của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Ở phương Tây, mầm mống về tư tưởng nhà nước đã xuất hiện như sau:
Từ thời cổ đại, tư tưởng về nhà nước xuất hiện rất sớm trong triết học
Hy – La cổ đại, ban đầu khi mới xuất hiện những tư tưởng này còn ảnh hưởng
từ thần thoại, chưa tách khỏi thần thoại và chưa trở thành một ngành tri thức
khoa học độc lập, nhưng đã xây dựng nên nền tảng tư tưởng quan trọng về
nhà nước sau này với những đại diện tiêu biểu đó là:
Đêmôcrit (460 – 370 Trước công nguyên) xây dựng mô hình Nhà nước
cộng hòa dân cử (A-ten), là bộ máy nhà nước mà những người làm việc trong
đó đều do dân (trừ nô lệ) bầu ra, tức là, từng nhóm người hàng năm bầu ra
những người đại diện cho mình…Từ việc Đêmôcrit đưa ra mô hình nhà nước
như thế có thể thấy điểm tích cực nhất trong quan niệm của ông là biểu hiện
tính chất dân chủ nhất định, người dân (trừ nô lệ) có quyền bầu ra những
người đại diện cho mình, nói lên tiếng nói của quần chúng trong nhà nước.
6
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của quan niệm này là tạo ra sự không ổn định
trong nhà nước. Ông tiếp tục quan niệm rằng, hoạt động quản lý nhà nước là
một nghệ thuật cao nhất, đem lại vinh quang cho con người; nhà nước lập ra
để duy trì trật tự xã hội, chính luật pháp là công cụ hữu hiệu để thực hiện điều
đó. Ông là người đầu tiên trong lịch sử triết học đưa ra những luận chứng
quan trọng về sự tất yếu của nhà nước với luật pháp như là cách thức liên kết
các cá nhân thành cộng đồng xã hội.
Nhà triết học Platon (428-347 TCN) đã đưa ra quan niệm của ông về
Nhà nước lý tưởng mà theo đó, mọi người luôn được sống êm đềm, hạnh
phúc, được thỏa mãn bởi những gì mà họ đã tạo ra. Nhà nước lý tưởng ấy
phải được xây dựng trên ba đẳng cấp cơ bản: các nhà triết học, các chiến binh,
thứ ba, những người lao động chân tay và buôn bán. Chính nhà nước như thế
là nhà nước lý tưởng. Nó uyên thâm bởi trí tuệ của các nhà triết học, nó hùng
mạnh bởi sự gan dạ và dũng cảm của các chiến binh, nó hợp lý bởi sự phục
tùng một cách nghiêm túc từ bộ phận công dân đông đảo nhất trong xã hội.
Nhà triết học Arixtốt (384 – 322 TCN) cho rằng, con người “là động
vật chính trị”. Bản tính của con người là sống trong cộng đồng. Do vậy, con
người không thể sống ngoài cộng đồng, bên ngoài sự giao tiếp. Nhà nước là
một hình thức giao tiếp cộng đồng cao nhất, trên cả gia đình, dòng họ, làng
xã. Con người về bản chất phải thuộc về nhà nước. Chỉ có động vật thuần túy
hay Thượng đế mới tồn tại bên ngoài nhà nước. Sứ mạng của nhà nước là
đảm bảo cho mọi người (trừ nô lệ, vì nô lệ không phải là con người mà chỉ là
công cụ biết nói) trong cộng đồng một cuộc sống hạnh phúc với mức độ phúc
lợi ngày càng cao. Để thực hiện sứ mạng này nhà nước phải tiến hành hoạt
động trên ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và phân xử. Theo ông, chính quyền
không nên thuộc về người giàu mà cũng chẳng nên thuộc về tầng lớp chủ nô
trung lưu. Chế độ chính trị tốt nhất không phải là chế độ dân chủ hay chế độ
quân chủ mà là chế độ cộng hòa quý tộc. Nhưng do hạn chế của lịch sử, và
7
bản thân là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô quý tộc nên về mặt triết học ông
do dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, về mặt chính trị ông chỉ
bảo vệ lợi ích cho tầng lớp chủ nô trung lưu của chính mình.
Như vậy, thông qua những tư tưởng của các nhà triết học thời kỳ Hy –
La cổ đại về nhà nước nói trên, chúng ta thấy rằng, dù những tư tưởng đó về
nhà nước được diễn đạt với những ý khác nhau, dưới nhiều cách nhìn khác
nhau, tưởng như độc lập với nhau, nhưng giữa chúng đều có điểm chung là,
bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đi ngược lại với nhân dân lao động,
khích lệ việc đề cao pháp luật.
Đến thời kỳ Trung cổ (kéo dài từ thế kỷ IV – XVI), sự thống trị của
thần quyền, tôn giáo về tất cả các mặt về kinh tế, đời sống chính trị xã hội.
Đây là giai đoạn diễn ra các cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các vua chúa thế
tục và giáo hội. Những tri thức khoa học luôn bị kìm hãm bởi những tín điều,
tôn giáo. Những thành tựu văn hóa mà nhân loại đã đạt được trong thời Hy
Lạp cổ đại có xu thế thoái trào.
Đến thời kỳ Phục hưng và Cận đại, tư tưởng về nhà nước thực sự có
bước phát triển mới và quan trọng. Sự ra đời và phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ lớp vỏ đen tối, tính chất khép kín, bảo thủ
của nền kinh tế manh mún dưới thời trung cổ. Mặt khác, nó đã tạo ra luồng
gió mới trong nhận thức của con người về thế giới hiện thực. Nếu như thời kỳ
trung cổ, những tri thức khoa học luôn bị kìm hãm bởi những tín điều tôn
giáo, thì nay là sự kết hợp giữa triết học với khoa học, tạo nên một bước tiến
quan trọng trong nhận thức của con người về thế giới, mà ở đó, con người cần
phải có khoa học, khoa học là để phục vụ cho con người. Để có được nền
khoa học như thế, đòi hỏi con người, trước hết là các nhà tư tưởng phải có
cách nhìn mới về khoa học.
Nhà triết học J.Lốccơ (1632-1704) trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai
về chính quyền – Chính quyền dân sự” [16, tr.9] đã đưa ra luận giải về nguồn
8
gốc, bản chất của quyền lực nhà nước, ông cho rằng, sự kết hợp giữa con
người với tự nhiên có trước sự kết hợp giữa con người với con người. Trong
đó, những quyền được sống, quyền tự do, quyền sở hữu…là những quyền tự
nhiên của con người, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên trong trạng thái tự nhiên,
các quyền này có nguy cơ bị xâm phạm. Do vậy, nhà nước đã được thiết lập
để bảo vệ các quyền tự nhiên của con người. Nhà nước thực chất là một “khế
ước xã hội”, trong đó, các công dân nhượng một phần quyền của mình để
hình thành quyền lực chung – quyền lực nhà nước. Vì vậy, khi chính quyền
làm sai, các công dân có quyền hủy bỏ “khế ước” đã ký. Để chống độc tài,
J.Lốccơ cho rằng, quyền lực phải được phân chia theo ba lĩnh vực: lập pháp,
hành pháp và liên hợp.
S.L.Môngtétxkiơ (1689-1755) – nhà triết học khai sáng Pháp thì lại cho
rằng, cùng với sự phát triển của loài người thì chiến tranh ngày càng khốc liệt,
mâu thuẫn trong xã hội ngày càng lớn hơn, do đó, cần phải có nhà nước, cần
có pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa các quốc gia với nhau. Nhà nước là một cộng đồng người bị quy định bởi
luật pháp. Ông còn cho rằng, sự phân chia quyền lực trong chính thể dân chủ
là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền. Đồng thời,
ông có điểm tiến bộ, đi trước thời đại bởi quan niệm quyền lực chỉ có thể bị
kiềm chế bởi quyền lực.
J.J.Rútxô (1712-1778) – nhà triết học nổi tiếng người Pháp với học
thuyết “Khế ước xã hội”. Theo J.J.Rútxô, lịch sử của xã hội loài người không
gì khác, mà chính là kết quả hoạt động của con người. Lịch sử xã hội loài
người trải qua ba trạng thái từ trình độ thấp đến cao, đó là: trạng thái tự nhiên
nghĩa là, khi con người mới tách ra khỏi động vật thì chưa có tư hữu và sống
bình đẳng với nhau; trạng thái công dân nghĩa là, xã hội loài người phát triển
đến một lúc nào đó thì làm xuất hiện chế độ tư hữu và nảy sinh trong đó áp
bức, bất công; trạng thái tự nhiên (nhưng ở trình độ cao hơn). Ông coi sự xuất
9
hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự biến dạng các mối
quan hệ mang tính tự nhiên của con người. Theo ông, con người sinh ra ai
cũng được tự do, có quyền được sống, có quyền được sở hữu và một số quyền
khác. Nhưng các quyền cơ bản ấy của con người luôn có nguy cơ bị xâm
phạm, do đó, họ buộc phải đấu tranh với nhau. Đó chính là nguyên nhân ra
đời của nhà nước, thông qua sự thỏa thuận, “khế ước xã hội” giữa các thành
viên trong xã hội, họ sẽ giao một phần quyền của mình cho các cơ quan quyền
lực xã hội nhằm bảo vệ các quyền tự nhiên của mình, đó chính là nhà nước.
Tuy nhiên, ở quan niệm đó của J.J.Rútxô chứa đựng những hạn chế nhất định,
đó là việc ông cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của nhà nước
chỉ là sản phẩm mang tính chủ quan của con người; nhà nước là một hiện
tượng tồn tại vĩnh viễn. Điều đó phần nào làm sai lệch bản chất của nhà nước.
Do vậy, quan niệm của J.J.Rútxô về nguồn gốc ra đời, bản chất của nhà nước
chưa triệt để, vẫn ẩn chứa dấu ấn duy tâm chủ quan, chưa đưa ra được một
biện pháp cụ thể để hiện thực hóa bản chất ấy của nhà nước.
Đến đầu thế kỷ XIX, các nhà tư tưởng X.Ximông, S.Phuriê, R.Ôoen đã
tìm kiếm những con đường cải tạo các quan hệ xã hội đương thời. Các ông
kịch liệt phê phán sự bất bình đẳng, sự bất công của xã hội tư sản, một xã hội
chỉ đem lại hạnh phúc cho người giàu và tai họa cho người nghèo. Tuy nhiên,
các ông chỉ thấy giai cấp công nhân là giai cấp nghèo khổ mà không thấy
được sứ mệnh lịch sử của họ trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
tương lai cũng như quy luật vận động của xã hội tư sản. Do đó, các mô hình
xã hội mà các ông đưa ra theo sự suy nghĩ chủ quan của mình đã trở thành
không tưởng. Các ông cho rằng, có thể cải tạo xã hội trên cơ sở “lý trí”, “tình
cảm”, thậm chí trên cơ sở một tôn giáo mới. V.I.Lênin đánh giá: “Họ
(X.Ximông, S.Phuriê, R.Ôoen) cự tuyệt mọi hành động chính trị và nhất là
mọi hành động cách mạng; họ tìm cách đạt mục đích của họ bằng phương
pháp hòa bình, và thử mở một con đường đi tới một kinh phúc âm xã hội mới
10
bằng hiệu lực của sự nêu gương, bằng những thí nghiệm nhỏ, cố nhiên những
thí nghiệm khoa học này luôn luôn thất bại” [23, tr.641].
Tóm lại, lịch sử tư tưởng chính trị phương Tây là lịch sử đấu tranh
quyết liệt giữa tư tưởng của giai cấp thống trị và tư tưởng của giai cấp bị trị
xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Trong thời
chiếm hữu nô lệ, bên cạnh những tư tưởng phản động, những tư tưởng tích
cực thời Hy Lạp cổ đại có vai trò vạch đường, đặt nền móng cho sự phát triển
của tư tưởng nhà nước. Đến thời Trung cổ, giáo hội Thiên chúa giáo cấu kết
với vua chúa phong kiến xây dựng và củng cố chế độ quân chủ hà khắc.
Trong thời kỳ tăm tối này, các giá trị tiến bộ bị kìm hãm nặng nề nhưng vẫn
có sự phát triển nhất định. Thời Cận đại là thời kỳ phát triển rực rỡ của các
trào lưu tư tưởng chính trị ở Tây Âu: Tư tưởng Phục hưng, tư tưởng Khai
sáng, tư tưởng dân chủ tư sản, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không
tưởng…Những tư tưởng trên có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống
lại tư tưởng thần quyền, chuyên chế phong kiến hà khắc, góp phần đem lại sự
thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản sau này. Đây cũng là những tiền đề
lý luận quan trọng để thúc đẩy sự hình thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ở phương Đông, mặc dù không bàn trực tiếp đến nguồn gốc, bản chất,
đặc trưng, kết cấu của nhà nước, nhưng tư tưởng về nhà nước được ẩn dấu
đằng sau các học thuyết về chính trị - đạo đức. Ngay từ thời Xuân thu - chiến
quốc, xã hội Trung Quốc đã có sự chuyển mình sâu sắc từ chế độ chiếm hữu
nô lệ sang chế độ phong kiến. Với sự ra đời của công cụ lao động bằng đưa
đến sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội. Trong xã hội xuất hiện mâu
thuẫn diễn ra gay gắt giữa giai cấp thống trị với nhân dân lao động, giữa quý
tộc cũ với quý tộc mới. Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chỉ ra, ở đâu có xung
đột giai cấp, tất yếu sẽ đưa đến đấu tranh giai cấp. Trung Hoa cổ đại cũng
không ngoài quy luật ấy. Các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến
diễn ra triền miên. Trước bối cảnh đó, tầng lớp trí thức ở Trung Quốc cố gắng
11
tìm ra cách lý giải nguyên nhân và đưa ra giải pháp để lập lại trật tự xã hội,
theo đó có nhiều học thuyết về nhà nước ra đời, đáng chú ý nhất là tư tưởng
của hai trường phái Nho gia và Pháp gia.
Tiêu biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Tư tưởng chính trị của Khổng
Tử trước hết là vì sự bình ổn của xã hội “thái bình thịnh trị”. Ông cho rằng, xã
hội loạn lạc là do mỗi người không ở đúng vị trí của mình, Lễ bị xem nhẹ. Do
đó, để xã hội ổn định thì theo ông, phải coi trọng Lễ, củng cố điều Nhân, mỗi
người phải hành động trong khuôn khổ của mình. Để thực hiện lý tưởng ấy
của mình, ông đề ra học thuyết “Nhân – Lễ - Chính danh”. Khổng Tử chủ
trương cai trị đất nước bằng đức trị, nghĩa là người quân tử phải dùng đức để
trị người. “Nhà vua trước hết phải là tấm gương hiền về đạo đức, phải chăm
sóc dân, dưỡng dân, giáo hóa dân, an dân”. Thực chất, quan niệm của Khổng
Tử về nhà nước chỉ là phép ứng xử về đạo đức giữa con người với con người,
học thuyết này không được xây dựng trên một cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực
nên không được nhà cầm quyền cùng thời áp dụng.
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau.
Hàn Phi Tử (khoảng 230 – 233 TCN) là người tổng kết và phát triển tư tưởng
đó thành học thuyết hoàn chỉnh. Ông cho rằng, bản tính con người là ham lợi.
Điều lợi chi phối đến các mối quan hệ trong xã hội. Vì lợi ích mà con người
sẵn sàng tranh giành, giết hại lẫn nhau. Do đó, con ngươi cần phải có những
biện pháp cứng rắn. Từ nhận thức đó, ông đưa ra học thuyết chính trị của
mình được xây dựng trên sự thống nhất giữa pháp – thuật – thế. Theo đó,
“pháp” là những quy ước, chuẩn mực do vua ban ra và được phổ biến rộng rãi
trong dân chúng thực hiện. Pháp luật phải công bằng, để kẻ mạnh không lấn
áp kẻ yếu, phải rõ ràng, dễ hiểu và phù hợp với trình độ dân chúng. "Pháp luật
không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong.
Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không
dám tránh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không
12
bỏ sót kẻ thất phu" [2, tr.73]. “Thuật” là thủ đoạn cai trị của nhà vua. “Thuật”
phải kín đáo, vua không được để lộ sự yêu ghét của mình và không cần phải
làm gì (vô vi) mà bắt quần thần phải làm việc cai trị dân. “Thế” là uy thế,
quyền lực của người cầm quyền. Nhà cầm quyền phải nắm chắc thưởng và
phạt phân minh, phải căn cứ trên cơ sở luật pháp. Vua cũng phải phục tùng
pháp luật. Khi có thế, quyền uy của vua cũng sẽ tăng lên. Nhìn chung, tư
tưởng của phái Pháp gia nhằm bảo vệ chế độ chuyên chế tàn bạo, hà khắc của
giai cấp thống trị, đồng thời đối lập với ý chí của nhân dân.
Như vậy, những tư tưởng triết học về nhà nước kể trên ở phương Đông
có thể nhận thấy, tuy còn nhiều hạn chế nhưng góp phần đặt nền tảng đầu tiên
cho sự phát triển tư tưởng về nhà nước ở những thời kỳ tiếp sau nó. Cuộc đấu
tranh giữa chủ trương Đức trị (Nho gia) và Pháp trị (Pháp gia) phản ánh mâu
thuẫn gay gắt giữa giai cấp quý tộc cũ bảo thủ, lạc hậu và giai cấp địa chủ mới
có tư tưởng cấp tiến. Điểm chung của các học thuyết này là muốn cho xã hội
ổn định…
Tóm lại, mặc dù các nhà triết học trước Mác (ở cả phương Đông và
phương Tây) do nhiều nguyên nhân khác nhau, lập trường duy tâm, lập
trường giai cấp, điều kiện lịch sử... khi luận giải vấn đề nhà nước không thể
tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tuy vậy, những tư tưởng đó dù sơ khai,
mộc mạc, duy tâm về thế giới quan, siêu hình về phương pháp luận, nhưng
đem lại những cơ sở quan trọng để C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin tiếp tục
nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa hệ thống lý luận của mình về nhà nước.
1.1.2. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên tư tưởng về nhà nước thông
qua nhiều tác phẩm kinh điển, trong đó có thể kể đến một số tác phẩm như:
“Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, “Bản thảo kinh tế
1857 – 1859, góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, “Phê phán cương
13
lĩnh Gôta”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”...
Tác giả xin điểm qua nội dung của những tác phẩm trên.
* Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”.
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (viết từ tháng 01/1845 đến tháng 4/1846)
được xem là một trong những tác phẩm mà lần đầu tiên C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày một cách có hệ thống những quan điểm duy vật về lịch
sử, trong đó có vấn đề nhà nước.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, các ông đưa ra những khái niệm
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đó là sản xuất vật chất, phương thức sản
xuất vật chất, hình thức giao tiếp (sau này gọi là quan hệ sản xuất), sức sản
xuất (sau này gọi là lực lượng sản xuất), cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng,
ý thức xã hội…
Trong tác phẩm này, các ông đưa ra quan niệm về quan hệ sản xuất
được hình thành trong hoạt động sản xuất vật chất, con người có nhu cầu trao
đổi với nhau và bị lực lượng sản xuất quy định. Từ đó, nó tạo thành cơ sở
nhất định của chế độ nhà nước. “Hình thức giao tiếp – cái mà trong tất cả các
giai đoạn lịch sử từ trước đến nay đều được quyết định bởi lực lượng sản xuất
và đến lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất” [22, tr.51].
Tiếp đó, C.Mác làm sáng tỏ cách hiểu về xã hội công dân, như tổng thể
các quan hệ sản xuất, “xã hội công dân là cơ sở hạ tầng, bản chất và nền kinh
tế là tư sản, chính là bản thân chế độ kinh tế đó sinh ra và quyết định nhà
nước” [22; tr.52]. Ông tiếp tục làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai
cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là
lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống
trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng
chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần. Những tư tưởng thống trị
không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ
14
vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện ra
dưới hình thức tư tưởng” [22, tr.66-67]. Đây thực chất là mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra tính quyết định của sản xuất
vật chất đối với thượng tầng tư tưởng; hay nói cách khác là chỉ ra sự quyết
định của xã hội công dân (cơ sở hạ tầng) với nhà nước (kiến trúc thượng
tầng). Từ đó, các ông chỉ ra kinh tế quyết định chính trị là một luận điểm quan
trọng trong quan niệm về nhà nước.
Khái niệm về nhà nước như là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt
của giai cấp thống trị, đó là “hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp
thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ” [22, tr.90]. Bàn về bản chất
của nhà nước, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định “thực chất – là đại biểu,
công cụ bảo vệ cho một lực lượng xã hội là giai cấp thống trị trong xã hội”
[22, tr.90].
Tóm lại, “Hệ tư tưởng Đức” là một tác phẩm mẫu mực, đánh dấu sự
chín muồi thực sự của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước cả về mặt tư duy lý
luận và nhận thức. Đó là các tư tưởng về sản xuất vật chất, phương thức sản
xuất vật chất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tồn tại xã hội và ý thức
xã hội… Cũng trong tác phẩm này, các ông đã đưa ra những tư tưởng cơ bản
nhất, quan trọng nhất về lý luận nhà nước, làm tiền đề lý luận quan trọng là cơ
sở để cho ra đời nhiều tác phẩm khác về sau.
* Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được xuất bản lần đầu vào tháng 21848 và giữ một vị trí đặc biệt trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Sự ra đời của tác phẩm này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận
của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác bao gồm:
triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm này
không chỉ là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo của C.Mác và
Ph.Ăngghen, là “khúc ca tuyệt tác của chủ nghĩa Mác”, mà còn là cương lĩnh
15
“có đầy đủ chi tiết về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn” của giai cấp vô sản
toàn thế giới và chính đảng của nó [32, tr.11].
Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến vấn đề nhà
nước thông qua tư tưởng về chính trị và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị. Các ông đã phác họa nên một bức tranh sinh động về quá trình
hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, bóc trần những mâu thuẫn nội
tại vốn có của nó. Với quan điểm duy vật về lịch sử, các ông chỉ ra mối quan
hệ giữa chính trị và kinh tế. Trong đó, trong xã hội có giai cấp, kẻ nào nắm
sức mạnh về kinh tế thì sẽ nắm được quyền lực chính trị.
C.Mác và Ph.Ăngghen đứng trên lập trường thế giới quan duy vật để
làm sáng tỏ vấn đề nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước. Các ông
cho rằng, nhà nước xuất hiện là một tất yếu khách quan từ nhu cầu chấn áp
giai cấp. Đồng thời nhà nước cũng nảy sinh chính từ những xung đột giai cấp
ấy. Nhà nước nhân danh xã hội nhưng thực chất là nhà nước của giai cấp
thống trị về mặt kinh tế, thông qua nhà nước thì giai cấp thống trị tiếp tục
thống trị xã hội về mặt chính trị và tư tưởng.
Các ông phân tích: “Nhà nước tư sản làm chức năng là công cụ thống
trị xã hội là cơ quan trấn áp riêng của giai cấp tư sản”. Ngoài ra, khi bàn đến
chức năng của nhà nước, cũng cần nhắc đến chức năng xã hội của nhà nước.
Điều đó có nghĩa là, giai cấp thống trị muốn bảo vệ địa vị thống trị của mình
thì phải thỏa mãn phần nào lợi ích của toàn xã hội. Luận điểm này được trình
bày ở cuối chương I tác phẩm. Do đó, việc tiếp cận vấn đề nhà nước từ cơ sở
kinh tế cho thấy tính hiện thực của tác phẩm. Tính hiện thực của nó được đảm
bảo trên cơ sở kinh tế nhất định.
Trên cơ sở phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến vấn đề nhà nước vô sản. Các ông cho
rằng sự xuất hiện của nhà nước là một tất yếu khách quan trong lịch sử, như
sự thay thế của các nhà nước trước kia trong lịch sử. Nhà nước vô sản là nhà
16
nước của giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị và đại diện cho
lợi ích của đa số nhân dân lao động.
Như vậy, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” cho thấy rằng, nhà nước là
hiện tượng xã hội có bản chất giai cấp và do điều kiện sinh hoạt vật chất quy
định, đều là công cụ thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Do
vậy, giai cấp vô sản chỉ có thể giành được chính quyền thì giai cấp vô sản mới
tổ chức quyền lực chính trị của mình.
* Tác phẩm “Bản thảo kinh tế 1857 – 1859, góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị”.
Đây cũng là một trong những tác phẩm quan trọng của chủ nghĩa Mác
về lý luận nhà nước. C.Mác đã chỉ ra vai trò của xã hội công dân, trong đó, xã
hội công dân là các hoạt động sản xuất vật chất, kinh tế và một số hoạt động
cơ bản khác của con người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, ở
một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội, đã xuất hiện những nhu cầu
phải được tập hợp theo một quy tắc chung. Những quy tắc chung đó, lúc đầu
chỉ là những thói quen, nhưng sau đó đã trở thành pháp luật “có pháp luật thì
những cơ quan có nhiệm vụ duy trì pháp luật đó tất yếu phải xuất hiện: quyền
lực công cộng, tức là nhà nước” [24, tr.378]. Tuy nhiên, trong mối quan hệ
giữa nhà nước và xã hội, thì xã hội luôn luôn là cái quyết định “ nói chung
không phải nhà nước chế định và quyết định xã hội công dân mà xã hội công
dân chế định và quyết định nhà nước, rằng do đó phải lấy những quan hệ kinh
tế và sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải thích chính trị và lịch sử chính
trị, chứ không phải ngược lại” [26, tr.321].
Tóm lại, với những tác phẩm kinh điển như trên, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã trình bày có hệ thống những tư tưởng cơ bản về nhà nước như: nguồn gốc,
bản chất, đặc trưng của nhà nước. Những tư tưởng ấy được phát triển hơn,
trình bày rõ hơn nữa trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước”.
17
- Xem thêm -