Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan niệm của hồ chí minh về con người mới xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng con...

Tài liệu Quan niệm của hồ chí minh về con người mới xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng con người việt nam hiện nay

.PDF
122
135
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  B I THỊ U NH U N NI M CỦ HỒ CHÍ MINH V CON NGƢ I M I H I CHỦ NGH VÀ VI C Â DỰNG CON NGƢ I VI T N M HI N N LUẬN VĂN THẠC S TRIẾT HỌC HÀ N I - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  B I THỊ U NH U N NI M CỦ HỒ CHÍ MINH V CON NGƢ I M I H I CHỦ NGH VÀ VI C Â DỰNG CON NGƢ I VI T N M HI N N Y LUẬN VĂN THẠC S TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Tr t ọc Mã số: Ngƣờ 60 22 80 ƣớng dẫn k oa ọc: GS. TS. HOÀNG CHÍ BẢO HÀ N I - 2013 L I C M ĐO N Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của GS. TS. oàng h o ác số liệu, tài liệu tham kh o trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. à Nội, ngày 06 tháng 9 năm 2013. Tác g ả luận văn u n MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 C ƣơng 1. NHỮNG U N NI M CƠ BẢN CỦ HỒ CHÍ MINH V CON NGƢ I M I H I CHỦ NGH ..................................................... 8 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về con người mới xã hội chủ nghĩa........... 8 1.1.1. Vị trí và vai trò của con người mới xã hội chủ nghĩa ........................... 8 1.1.2. Tiền đề hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa .......................... 15 1.2. Nội dung xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.......................... 37 1.2.1. Xây dựng con người phát triển toàn diện .......................................... 37 1.2.2. Đặc trưng của con người mới xã hội chủ nghĩa ................................. 40 1.2.3. Chiến lược xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa........................ 48 1.2.4. Con đường hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa..................... 52 C ƣơng 2. VẬN DỤNG U N NI M CỦ HỒ CHÍ MINH V CON NGƢ I M I H I CHỦ NGH VI T N M HI N N VÀO VI C Â DỰNG CON NGƢ I .................................................................. 66 2.1. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay .... 66 2.2. Một số định hướng cơ bản vận dụng quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa vào sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam hiện nay .............................................. 80 2.2.1. Kết hợp chặt chẽ giữa dạy ''chữ', dạy ''nghề'' với dạy ''người'' trong giáo dục, đào tạo ................................................................. 81 2.2.2. Đổi mới quan điểm đánh giá và tiêu chuẩn tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức và lực lượng lao động của xã hội .......... 92 2.2.3. Tạo môi trường thuận lợi để con người Việt Nam có cơ hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển toàn diện .............. 98 KẾT LUẬN ..................................................................................................109 D NH MỤC TÀI LI U TH M KHẢO .............................................................111 MỞ ĐẦU 1. Tín cấp t t của đề tà Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá trong kho tàng lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đó là tư tưởng của "Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất", người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, người thầy vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam. Trong di sản tư tưởng phong phú và vô giá của Hồ Chí Minh có tư tưởng: về con người mới xã hội chủ nghĩa, một tư tưởng nhân văn rất đặc sắc. Đây là sự tiếp nối và nâng cao những giá trị tinh túy nhất tư tưởng nhân văn của truyền thống dân tộc Việt Nam và thế giới. Đây cũng là sự kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con người. Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu, đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn thế nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử. Là sản phẩm của lịch sử, con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Chính vì vậy, Đảng ta luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa đã góp phần to lớn vào việc đào tạo cho dân tộc Việt Nam những người con ưu tú, đủ sức đưa dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo, liên tục giành được những thắng lợi ngày càng to lớn, làm thay đổi địa vị của dân tộc Việt Nam trên chính trường thế giới. Hồ Chí Minh là tấm gương điển hình của con người mới - con người xã hội chủ nghĩa. Người chủ trương phát triển con người toàn diện về đạo đức, trí tuệ, tài năng, thể lực, phải có những con người như thế để xây dựng xã hội mới trong hiện tại và tương lai. 1 Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang đi vào chiều sâu. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp thiết đang đặt ra đòi hỏi các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau phải nghiên cứu và giải quyết, trong đó có vấn đề xây dựng và thực hiện chiến lược về con người thật sự khoa học, phù hợp với hoàn cảnh nước ta, nhằm phục vụ cho việc phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, muốn hoàn thành nó trước hết phải có những định hướng đúng. Trong thực tế, quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa đã cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu, sáng suốt để xây dựng và thực hiện thành công chiến lược con người trong điều kiện mới, nhằm đào tạo cho đất nước những con người mới đủ tâm lực, trí lực, thể lực đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang từng bước xây dựng là xây dựng con người và làm cho:“ on người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xét đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới những giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa đều vì con người. Con người là thực thể cao nhất của giới tự nhiên bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế giới Người - thế giới Văn hóa. Lịch sử loài người là lịch sử con người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất - xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là không bao giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nô dịch, kìm hãm về mặt xã hội. Điều quan trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ, tình cảm và năng lực vốn có để thực hiện những khát vọng cao đẹp của mình. Sự phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. 2 Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"... như C.Mác đã nói. Đặc trưng Người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có, đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội văn hóa cao. Nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc về vấn đề con người mới xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của Hồ Chí Minh là vấn đề cấp thiết hiện nay đồng thời có ý nghĩa cơ bản, lâu dài. Tác giả chọn vấn đề: “ uan n ệm của Hồ C í M n về con ngườ mớ xã ộ c ủ ng ĩa và v ệc xây dựng con ngườ V ệt Nam ện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ triết học với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong tiến trình phát triển đất nước. 2. Tìn ìn ng ên cứu đề tà Trong các tác phẩm kinh điển mácxít, đặc biệt là những tác phẩm của Hồ Chí Minh, vấn đề con người và xây dựng con người mới xã hôi chủ nghĩa được đề cập đến một cách có hệ thống mang ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ lâu, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (6 1991) của Đảng cộng sản Việt Nam. Đã có cả một chương trình quốc gia nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiên cứu và nghiệm thu. Năm 1978, Viện Triết học đã cho xuất bản cuốn: "Về vấn đề con người và xây dựng con người mới" (Giáo sư Phạm Như Cương chủ biên) trong đó giới thiệu một cách tương đối hệ thống những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và các nhà lãnh đạo của Đảng ta về vấn đề con người. Trong những 3 năm tiếp theo, nhiều bài viết đã đề cập tới vấn đề: làm thế nào để tạo ra được những con người lao động kiểu mới, những con người biết tổ chức, biết quản lý nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ năm 1991 đến năm 1995, công trình khoa học cấp nhà nước KX - 07: " on người Việt Nam - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội" do GS. TS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm đã tiến hành nghiên cứu con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Cùng với quá trình thực hiện chương trình nghiên cứu cơ bản này, đã có hàng trăm bài báo và các báo cáo khoa học của các nhà khoa học trong nước viết về con người được liên tục đăng tải trên các tạp chí Cộng sản, Triết học, Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý luận, Khoa học xã hội... Các tác giả như Nguyễn Duy Quý, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Thị Ngọc Trầm, Dương Phú Hiệp, Lê Thi, Phạm Như Cương, Nguyễn Ngọc Long, Phạm Ngọc Quang, Đặng Hữu Toàn,... đã công bố nhiều bài báo đề cập đến các góc độ khác nhau của việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vấn đề con người mới xã hội chủ nghĩa nói đã và đang có sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học như: GS. TS. Hoàng Chí Bảo có các bài viết: “ on người mới xã hội chủ nghĩa - lý luận và phương pháp luận nghiên cứu”, Tạp chí Triết học. Số 2/ 1988; "Quyền con người trong chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Triết học. Số 2/ 1989; “Giáo dục lối sống lao động, lối sống tập thể trong xã hội xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Triết học. Số 1/ 1990. GS. Vũ Khiêu có bài: "Trồng cây và trồng người", Tạp chí Triết học số 4/ 1990. Một số công trình nghiên cứu đã được công bố trên các sách báo và tạp chí khoa học như: " ác Mác với vấn đề con người và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa" (tác giả Lê Thi, tạp chí Triết học, số 4, tháng 12/1983); Đại tướng Võ Nguyên Giáp với bài viết: " hủ tịch ồ h Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới", Tạp chí Cộng sản, số 6 năm 1990. "Mấy vấn đề về "trồng người" trong tư tưởng ồ h Minh" (tác giả Lê Sỹ Thắng, tạp chí Triết học, 4 số 2, tháng 6/1995); "Nhân tố con người và những giá trị văn hóa" (tác giả Trường Lưu, tạp chí Triết học, số 1, tháng 3/1993)... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đề cập đến con người ở những khía cạnh khác nhau và từ các góc độ khác nhau: triết học, xã hội học, tâm lý học, sử học, kinh tế học,... Có thể nói, cho đến thời điểm này, dưới góc độ triết học việc nghiên cứu một cách có hệ thống về nguồn lực con người, đặc biệt là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với tất cả tiềm năng, hiện trạng, đặc điểm và sức mạnh của nó trong điều kiện ngày nay, cùng với những giải pháp để khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn lực quan trọng này trong quá trình đổi mới của đất nước, đang là vấn đề vừa cấp bách vừa cơ bản và lâu dài. Song các công trình nghiên cứu về lĩnh vực con người, con người mới xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của Hồ Chí Minh thì chưa thật đa dạng, phong phú và còn thiếu những công trình có quy mô tương xứng với tầm vóc của vấn đề đặt ra. Hơn nữa, việc nghiên cứu quan niệm của Hồ Chí Minh về con người nói chung và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa nói riêng vẫn còn nhiều mặt, nhiều nội dung chưa được đề cập đến nhất là vấn đề về bản chất, vai trò, đặc trưng, tiêu chuẩn về con người mới xã hội chủ nghĩa vấn đề mà Hồ Chí Minh hết sức quan tâm nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhu cầu về lý luận và thực tiễn hiện nay trong công cuộc đổi mới của nước ta đòi hỏi phải có những công trình chuyên khảo nhằm làm sâu sắc và đầy đủ hơn quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa và vận dụng quan niệm đó vào sự nghiệp đổi mới nước ta . 3. Mục đíc và n ệm vụ ng ên cứu của luận văn 3.1. Mục đíc của luận văn Làm rõ những nội dung cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa từ đó khẳng định giá trị khoa học của quan niệm và vận dụng vào việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam hiện nay. 5 3.2. N ệm vụ của luận văn Để đạt mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Khái quát những nội dung cơ bản quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Nêu lên những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng con người ở nước ta hiện nay. - Vận dụng quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa từ đó đưa ra một số định hướng cơ bản xây dựng con người Việt Nam hiện nay. 4. Đố tƣợng và p ạm v ng ên cứu 4.1. Đố tượng ng ên cứu: luận văn nghiên cứu vấn đề con người mới xã hội chủ nghĩa. 4.2. P ạm v ng ên cứu: trong quan niệm của Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và p ƣơng p áp ng ên cứu 5.1. Cơ sở ng ên cứu - Luận văn vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về con người. Luận văn còn sử dụng các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan. 5.2. P ương p áp ng ên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng một số phương pháp như: phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, thống kê, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa... 6. Đóng góp mớ về mặt k oa ọc của luận văn - Luận văn góp phần nhận thức rõ hơn những nội dung cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa từ đó làm sâu sắc thêm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. 6 - Luận văn đề xuất một số định hướng cơ bản để vận dụng quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa vào việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay. * Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề con người, con người mới xã hội chủ nghĩa và giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học và cao đẳng. 7. K t cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. 7 C ƣơng 1 U N NI M CƠ BẢN CỦ HỒ CHÍ MINH V CON NGƢ I M I H I CHỦ NGH 1.1. Một số vấn đề lý luận c ung về con ngƣờ mớ xã ộ c ủ ng ĩa 1.1.1. V trí và va trò của con ngườ mớ xã ộ c ủ ng ĩa 1.1.1.1. on người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Sự nghiệp cách mạng của chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sẽ chiến thắng vượt qua những thách thức mới của thời đại, chủ yếu là bằng sức mạnh sáng tạo của chính con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Con người luôn đứng ở trung tâm của mọi quá trình lịch sử, trên đất nước ta đã như vậy, ở các nước khác trên thế giới và trong toàn bộ lịch sử loài người cũng như vậy. Con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã sáng tạo ra lịch sử của dân tộc mình, làm nên những sự tích phi thường, xây dựng nên truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Con người ấy sớm có tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước nồng nàn, chí khí đấu tranh bất khuất, dũng cảm và thông minh trong chiến đấu, cần cù và sáng tạo trong lao động. Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm khẳng định vai trò của con người trong phát triển xã hội. Theo Hồ Chí Minh: "Trong những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến lên, con người là nhân tố quan trọng bậc nhất, là nhân tố quyết định". Vì vậy, "Vô luận việc gì, đều do con người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả" [67, tr.24]. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị cả vật chất và tinh thần, cũng như loài người đã sản sinh ra "mọi phương thức sinh hoạt và các biểu hiện của nó" giúp con người tồn tại và phát triển. Hồ Chí Minh có lòng bao dung rộng lớn trên cơ sở của niềm tin khoa học, tin vào sức mạnh, phẩm giá, khả năng vươn tới cái chân, thiện, mỹ của con người. Theo Hồ Chí Minh "con người dù là xấu, tốt, văn minh hay dã 8 man đều có tình". Cũng như thế Người cho rằng trong mấy mươi triệu người Việt Nam có người thế này người thế khác nhưng đều là nòi giống Lạc Hồng, ai cũng có ít nhiều lòng yêu nước, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhung cả năm ngón đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Do vậy mà "người trong một nước phải thương nhau cùng". Người chỉ rõ: "Mỗi con người đều có phần thiện và ác trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp cho họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời". Trong thư gửi các ngụy binh, Hồ Chí Minh đã viết: "Tuy các người đã phạm tội nặng là cầm súng chống lại Tổ quốc, song, Chính phủ kháng chiến độ lượng khoan hồng, thương hại các người như những đứa con lầm đường, cho nên nặng về giáo dục, nhẹ tay xử phạt, để dìu dắt các người bỏ đường tà, theo đường chính... Chính phủ sẽ khoan hồng với những người sớm quay về với Tổ quốc, sẽ trọng thướng những người và nhóm người đái tội lập công lớn". Về quan niệm con người, Hồ Chí Minh không chỉ thấy "người trong một nước", mà "rộng hơn nữa, chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa". Do vậy: (Lọ là thân thích ruột rà, công nông thế giới đều là anh em). Hoặc là: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người chung giai cấp phải thương nhau cùng". Chính vì vậy, trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân Người nói những lời chân thành, xúc động: "Công việc đầu tiên là công việc đối với con người..., "tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế", "Lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi". Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý 9 dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Do đó, "trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Lòng thương người của Hồ Chí Minh nổi bật nhất là tình yêu thương dành cho các dân tộc bị áp bức. Tình yêu thương đó luôn đi cùng với triết lý nhân sinh và hành động vì con người. Đi tìm và khai phá con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc luôn đặt vấn đề tự do song hành với hạnh phúc của dân tộc. Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải trải qua nạn đói khủng khiếp do Pháp - Nhật gây ra. Trong tình cảnh khó khăn ấy, Người chủ trương phát động nhân dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Bản thân Người gương mẫu mỗi tháng nhịn ăn ba bữa, góp gạo cứu đói. Ngay cả khi đi chiến dịch Biên giới, Người không chịu cưỡi ngựa mà cùng đi bộ với các cán bộ, chiến sĩ để ngựa thồ hành lý cho anh em. Khi đi thăm trại tù binh về, Người không còn áo khoác vì Người đã cho một tù binh bị rét cóng. Tình yêu thương của Hồ Chí Minh dành cho mọi kiếp người, mọi số phận là như vậy. Một trong những học trò xuất sắc của Người là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách mạng của Bác, cũng như trong đời sống hàng ngày của mình, Hồ Chí Minh luôn đối xử với người có lý, có tình. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Cụ 10 Hồ nói rằng: “người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”. [24] Con người mới, con người cách mạng còn có vai trò mở đường, dẫn đường, lôi kéo quần chúng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, tạo thành phong trào cách mạng ngày càng rộng lớn. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải có những con người tiên tiến mở đường, lôi cuốn quần chúng vào con đường cách mạng, tạo thành phong trào cách mạng ngày càng rộng lớn. Ở Việt Nam, từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc là người tiên tiến nhất trong nhũng người tiên tiến và Đảng cộng sản là tổ chức tiên tiến nhất đã gánh vác sứ mệnh lịch sử ấy. Hồ Chí Minh đã sớm nêu lên những tiêu chuẩn của người cách mạng, người cộng sản, đồng thời cũng từng bước nêu ra tiêu chuẩn của con người mới Việt Nam. Hai loại tiêu chuẩn đó có nhũng nội dung giống nhau nhưng lại khác nhau ở mức độ cao thấp, nhiều ít, rộng hẹp, ở trách nhiệm đối với Đảng, với dân tộc. Vì vậy, không ph i mọi con người mới đều là đ ng viên, nhưng mọi người đ ng viên thực sự thì ph i là con người mới. Chính những con người tiên tiến, tiêu biểu cho con người mới là lực lượng đã lôi cuốn cả dân tộc vào cuộc chiến đấu khổng lồ vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 1.1.1.2. on người vừa là mục tiêu gi i phóng vừa là động lực phát triển của cách mạng Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt, lợi ích cả dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân - dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh. Người đã từng nhắc nhở chúng ta như vậy 11 Trong khi khẳng định mục tiêu cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực hiện. Trong tuyên ngôn hành động của mình, Hồ Chí Minh nói rõ: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Chính vì vậy, Nguyễn Ái Quốc là người viết nhiều nhất tố cáo chế độ thực dân, bênh vực mạnh nhất quyền của các dân tộc bị áp bức, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù để giành lại nhân phẩm và tự do cho con người. Hồ Chí Minh xác định cách mạng là sự nghiệp của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người. Tuy nhiên dân chúng cũng có nhiều hạng, song, công nông phải là gốc, là chủ cách mạng. Việc phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam đã tạo nền tảng vững chắc cho lòng tin của Người đối với nhân dân. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc và tin tưởng vững chắc rằng sức mạnh của nhân dân được thức tỉnh và được tổ chức là một sức mạnh vô địch. Ngay từ năm 1921, trong tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Người viết: "Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em". Khi nhân dân đã được thức tỉnh, nghĩa là "dân khí mạnh thì không có súng ông nào, vũ khí nào có thể thắng nổi”, sẽ "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, trên cơ sở: "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công" [71, tr.108]. Đặc biệt, Hồ Chí Minh xác định trước hết phải thức tỉnh và tổ chức giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo, nghĩa là trước hết phải có Đảng cách mạng và học thuyết cách mạng. Vì lợi ích của con người, Hồ Chí Minh đã suốt đời để công sức xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, phát huy sức mạnh vô tận của con người trong sự nghiệp cách mạng. Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. 12 Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước kiểu mới lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng. Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người và vì con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy" [66, tr.161]. Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước, dân là gốc của nước. Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào các động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đồng thời, Người cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không 13 dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo. Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Là nhà duy vật mácxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các động lực với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi". Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó căn bệnh cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng. Con người - mục tiêu và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như 14 Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Như vậy, con người mới xã hội chủ nghĩa có vai trò quyết định thắng lợi cho sự nhiệp cách mạng, làm lên lịch sử oai hùng cho dân tộc trong thời đại mới. Và con người mới còn được xác định là mục tiêu và động lực phát triển của cách mạng, do tất cả mọi vấn đề đều xuất phát từ con người và vì con người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh. 1.1.2. Cơ sở ìn t àn con ngườ mớ xã ộ c ủ ng ĩa 1.1.2.1. Kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc về vấn đề con người Trong những dòng chảy hợp thành của lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng đào tạo, xây dựng và phát triển con người là một bộ phận quan trọng, góp phần làm nên giá trị to lớn, nhiều mặt cho tư tưởng truyền thống Việt Nam. Có thể nói, từ rất sớm cha ông ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề sống còn này của đất nước. Trải bao thăng trầm của lịch sử, bao sự hưng vong của các triều đại, tư tưởng đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam đã tỏ rõ những giá trị cao đẹp nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế của nó cần phải khắc phục và vượt lên. Nhìn một cách tổng quát, Hồ Chí Minh đã kết thừa những giá trị của tư tưởng, giáo dục, đào tạo, xây dựng và phát triển con người của dân tộc Việt Nam ở những điểm chủ yếu sau đây: Một là, kế thừa một số khái niệm, phạm trù đạo đức cơ b n: Giáo dục, bồi dưỡng đạo lý làm người một trong những nội dung quan trọng mà cha ông ta hết sức chú trọng, giáo dục con người giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề "trung", "hiếu", với "ái quốc". Giáo dục nhân nghĩa, thương dân, coi trọng dân. Giáo dục trí dục, đề cao tinh thần hiếu học, đức dũng, sống ngay thẳng, trong sạch, tôn trọng lẽ phải, nền nếp, trật tự, kỷ cương, gia phong... thông qua các phạm trù: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Chính, Cần, Kiệm, Trung, Hiếu, Tài, Đức..., những khái niệm, phạm trù của văn hóa Hán, nhất là của Nho giáo mà cha ông ta tiếp thu và vận dụng vào việc giáo dục, đào tạo, phát 15 triển con người có hiệu quả, có tác động tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người Việt Nam trong lịch sử đã được Người kế thừa một cách sáng tạo. Trong quan niệm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người rất hay sử dụng các khái niệm như: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, khi đề cập đến phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới, nhất là đối với cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng, cũng như trời có bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông; đất có bốn phương đông, tây, nam, bắc; người có bốn đức cơ bản là cần, kiệm, liêm, chính, "thiếu một đức không thành người"; "tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính" [67, tr.406], đối với cán bộ đảng viên Người yêu cầu "ai cũng phải thực hành bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính" [67, tr.622]; "đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính" [68, tr.490 ]; "phải thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính" "cố gắng làm đúng bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính" [67, tr.203]; "mở một chiến dịch giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính" [66, tr.8]. Có thể nói, tần số xuất hiện của các khái niệm: Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong quan niệm về con người mới xã hội chủ nghĩa là nhiều nhất trong các khái niệm, phạm trù mà Hồ Chí Minh kế thừa từ tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông ta. Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm cũng là những khái niệm mà Hồ Chí Minh hay dùng, nhất là khi nói về phẩm chất, năng lực của người quân nhân cách mạng, của người làm tướng "tướng giỏi (đủ cả trí, nhân, dũng, liêm) thì nước mạnh" [65, tr.519]; "nhiệm vụ của người làm tướng là phải trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung" [67, tr.479]; "Quân sự giỏi song nếu không có đạo đức cách mạng thì cũng khó thành công. Muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều sau đây: Trí, tín, nhân, dũng, liêm [67, tr.223]. Khái niệm Trung, hiếu đã được Hồ Chí Minh tiếp thu sáng tạo và sử dụng rất nhiều để giáo dục, đào tạo các thế hệ cách mạng Việt Nam. Từ tác phẩm "Đường cách mệnh", cuốn sách giáo khoa cách mạng đầu tiên (1927) 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng