Bài 1
QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
-----------------------ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, có mô
hình kinh tế chúng ta thấy vai trò của Nhà nước rất mờ nhạt, có mô hình kinh tế chúng
ta lại thấy Nhà nước can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế. Vậy, Nhà nước nên can
thiệp vào nền kinh tế như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế tối đa mặt tiêu cực
của nó ?
Các nhà kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng, để vận hành nền kinh tế không thể
thiếu đi vai trò của Nhà nước cũng như của thị trường. Song, điều đó không có nghĩa là
Nhà nước làm thay công việc của thị trường, mà vai trò của Nhà nước thể hiện ở sự
quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế.
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa - 1 nền kinh tế kết hợp cả những nguyên tắc, quy luật của thị
trường và những nguyên tắc của Chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, vai trò quản lý vĩ mô
của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta là để đảm bảo cho nền kinh tế
phát triển phục vụ cho mục tiêu xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, để hiểu rõ nội dung, chức năng, vai trò của quản lý nhà nước và những
vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường, chúng ta tiến hành
nghiên cứu bài: “ Quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
* Mục đích - yêu cầu
- Giúp học viên nắm được những kiến thức cơ bản của quản lý nhà nước về kinh
tế: Khái niệm, vai trò, chức năng, nội dung, cũng như hệ thống tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế ở Việt Nam.
1
- Giúp học viên nhận thức những vấn đề thực tiễn đặt ra trong công tác quản lý nhà
nước về kinh tế để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản
lý nhà nước về kinh tế.
- Từ những kiến thức đã được học, trên cương vị công tác của mình, học viên vận
dụng vào để quản lý kinh tế của địa phương, của ngành, góp phần đạt được mục tiêu
kinh tế - xã hội.
* Tài liệu
- Tài liệu bắt buộc: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Trung
cấp lý luận chính trị “Kinh tế chính trị Mác - Lênin và một số vấn đề về tổ chức, quản lý
kinh tế ở Việt Nam”, Tập II, Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội - 2004.
- Tài liệu tham khảo:
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý kinh tế, Giáo trình
“Quản lý kinh tế” (hệ cử nhân chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.
2. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Quản lý kinh tế, Giáo trình “Nguyên
lý quản lý kinh tế”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2003.
3. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Quản lý kinh tế, Giáo trình “Kinh tế
phát triển”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội - 2001.
4. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Kinh tế chính trị, Giáo trình “Kinh tế
chính trị Mác - Lênin trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001.
6. Các Tạp chí “Quản lý nhà nước”, “Nghiên cứu kinh tế”, “Kinh tế và dự báo”,
“Con số và sự kiện”.
7. Báo địa phương.
2
* Thời gian giảng: 8 tiết
* Đối tượng học viên: Trung cấp lý luận chính trị.
* Kết cấu bài giảng
I/ Khái niệm và vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế ở nước ta
1. Khái niệm
2. Vai trò của quản lý nhà nước về kinh tế
II/ Chức năng và nội dung quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
1. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
2. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
III/ Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
1. Kiểu Nhà nước Việt Nam
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
IV/ Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước về kinh tế
3
Tiến trình bài giảng
I/ KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH
TẾ
Ở
NƯỚC
TA
1. Khái niệm
1.1, Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác
động của các cơ quan nhà
nước có chức năng, thẩm
quyền tới các quá trình kinh tế
- xã hội, bằng hệ thống công
cụ có tính chất nhà nước
nhằm đạt mục tiêu đã định.
- Ở đây, chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan nhà
nước có chức năng, thẩm quyền nhất định, được luật
pháp quy định. Trong các cơ quan nhà nước đó lại chia
thành các cấp khác nhau, cụ thể:
+ Cơ quan nhà nước cấp Trung ương: Thực hiện
quản lý vĩ mô trên phạm vi cả nước.
+ Cơ quan nhà nước ở địa phương, cơ sở: Thực hiện
quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương, cơ sở. Tuy
nhiên, quản lý nhà nước ở cấp cơ sở không được trái
pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Các lĩnh vực mà quản lý nhà nước tác động tới bao
gồm rất nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, môi trường,
4
đối nội, đối ngoại,...
Ví dụ: Trong lĩnh vực giáo dục, chủ thể quản lý nhà
nước (hay cơ quan quản lý nhà nước) theo thẩm quyền
chuyên môn:
. cấp vĩ mô là Bộ Giáo dục - đào tạo, thực hiện quản
lý nhà nước về giáo dục - đào tạo trên phạm vi cả nước.
. cấp địa phương là Sở Giáo dục - đào tạo, thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo trong phạm vi
tỉnh, TP trực thuộc TW; Phòng Giáo dục, thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục trong phạm vi huyện,
quận.
- Các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước
thông qua hệ thống các công cụ mang tính quyền lực
nhà nước, đó là pháp luật, các chính sách, kế hoạch,...
=> Tóm lại: Quản lý nhà nước là sự tác động của các
chủ thể mang quyền lực nhà nước.
1.2, Quản lý nhà nước về
kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh
tế là sự tác động của các cơ
quan quản lý nhà nước về
kinh tế đối với các đơn vị kinh
tế cơ sở, các ngành, địa
phương, vùng kinh tế cũng
như tổng thể nền kinh tế quốc
dân, nhằm đạt tới mục tiêu
kinh tế - xã hội đề ra.
5
=> Chú ý:
* Xét về chủ thể quản lý nhà
nước về kinh tế, đó là:
- Mọi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quản lý nhà
nước về kinh tế.
- Các tổ chức được giao
thẩm quyền quản lý nhà
nước về kinh tế.
- Các tổ chức xã hội được
nhà nước giao thẩm quyền
quản lý nhà nước về kinh
tế.
- Những cán bộ được nhà
nước giao thẩm quyền
quản lý nhà nước về kinh
tế.
* Xét về phạm vi quản lý nhà
nước về kinh tế, có:
- Phạm vi thẩm quyền: Gồm
cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chung (như: Chính
phủ, UBND các cấp) và cơ
quan nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn (như:
Bộ, Sở, Ban, Ngành).
- Phạm vi không gian lãnh
6
thổ: Gồm TW, địa phương,
cơ sở (xã, phường).
* Xét về khách thể của quản
lý nhà nước về kinh tế, đó
chính là duy trì trật tự mội
trường kinh doanh và trật tự
trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
(Cần phân biệt khách thể của
quản lý sản xuất kinh doanh là
nhằm hướng tới đạt được lợi
nhuận cao nhất).
* Xét về công cụ của quản lý
nhà nước về kinh tế, Nhà
nước sử dụng các công cụ
mang tính quyền lực nhà
nước, đó là luật pháp, các văn
bản dưới luật, các chính sách,
chiến lược, kế hoạch,... để tác
động, điều chỉnh, dẫn dắt,
định hướng các hoạt động
kinh tế - xã hội nhằm đạt mục
tiêu của Nhà nước đề ra.
2. Vai trò của quản lý nhà
nước về kinh tế
2.1, Quá trình nhận thức
vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước trong lịch sử
7
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó ra đời khi xã
hội có phân chia giai cấp, nó chính là công cụ để giai
cấp thống trị điều hành, quản lý mọi mặt của đất nước,
nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp đó. Nhà nước có
2 chức năng: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Một trong những hoạt động mà nhà nước thực hiện
chức năng xã hội là Nhà nước có nhiệm vụ duy trì trật
tự xã hội, dần dần do yêu cầu đặt ra, ngoài việc đảm
bảo an ninh trật tự xã hội, Nhà nước còn phải đảm nhận
duy trì trật tự đối với các hoạt động kinh tế để các hoạt
động này diễn ra một cách bình thường, thuận lợi. Càng
ngày, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước càng được
chú trọng. Cùng với sự biến đổi của chế độ chính trị và
trình độ phát triển lực lượng sản xuất cũng như yêu cầu
tăng trưởng kinh tế của các nước trong từng giai đoạn
lịch sử, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước cũng biến
đổi theo cho phù hợp. Cụ thể:
* Dưới chế độ Phong kiến, nền kinh tế chủ yếu dựa
vào nông nghiệp, Nhà nước thực hiện sự quản lý kinh
tế ở việc quản lý ruộng đất (đất đai thuộc sở hữu của
Nhà nước phong kiến nhưng được phong cấp cho nông
dân - Nhà Lý thế kỷ X; Thế kỷ XIV Hồ Quý Ly ban
hành chính sách hạn điền, hạn nô; Thế kỷ XV Nhà Lê
thực hiện chế độ quân điền và lộc điền,...); tổ chức thu
thuế; đào mương, đắp đập, làm đường sá...
* Dưới Chủ nghĩa tư bản, vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước ở từng thời kỳ có khác nhau.
- Khi cơ chế thị trường vận hành, cạnh tranh tăng lên,
8
đòi hỏi giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước, đó là nền
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh theo mô hình của
A.Smith (cuối TK XVIII, TK XIX, đầu TK XX), theo
ông, bàn tay vô hình của tự do cạnh tranh sẽ bảo đảm
cho xã hội những gì sản xuất ra phù hợp với nhu cầu
của các thành viên của nó và theo những số lượng
mong muốn, nó sẽ đưa tới kết quả là sự hài hòa xã hội.
Lúc này vai trò của Nhà nước chỉ là “người gác đêm”
cho Chủ nghĩa tư bản, thể hiện ở khẩu hiệu “Nhà nước
tối thiểu”
- Nền kinh tế thị trường tự do đã không kéo theo sự
hài hòa xã hội, mà dẫn đến suy thoái, khủng hoảng chu
kỳ, mất cân đối về cơ cấu kinh tế, cạnh tranh gay gắt
dẫn đến độc quyền, phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi
trường và hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh, kết cục
là các cuộc đấu tranh xã hội, làm cho địa vị giai cấp Tư
sản bị lung lay. Đến đây, buộc các nhà kinh tế tư sản
phải nhìn nhận lại học thuyết kinh tế của mình và điều
chỉnh cho thích hợp. Lúc này Nhà nước buộc phải can
thiệp sâu hơn vào nền kinh tế để khắc phục những mặt
tiêu cực do tự do cạnh tranh gây ra và bảo vệ lợi ích
cho giai cấp mình. Lý thuyết kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước của J.M.Keynes (đầu TK XX)
đáp ứng yêu cầu đó. Ông chủ trương “mở rộng những
chức năng của Nhà nước”, đề xuất một chính sách xã
hội cao do Nhà nước thực hiện như: phát tiền các trợ
cấp gia đình, bảo đảm sức mua của tiền công và hưu
bổng, thuế đánh vào tư bản,...thực hiện “Nhà nước
9
phúc lợi”. Tuy nhiên, những cải cách này không hề đi
ngược lại quyền lợi của các tập đoàn tư bản độc quyền,
mà trái lại, làm cho tư bản độc quyền tiếp tục tồn tại và
phát triển, đồng thời cứu Chủ nghĩa tư bản thoát khỏi
đổ vỡ. Chính vì vậy lý luận của Keynes chiếm vị trí
thống trị trong hệ thống tư tưởng kinh tế ở các nước tư
bản từ những năm 30 TK XX đến sau Chiến tranh thế
giới thứ II.
- Sau CTTG II, với sự phát triển vũ bão của cách
mạng khoa học - công nghệ và xu hướng quốc tế hóa,
toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, các tập đoàn tư bản
xuyên quốc gia, đa quốc gia ngày càng chiếm địa vị
khống chế trên thị trường thế giới thì vai trò điều tiết
nền kinh tế thị trường có lúc vượt ra ngoài tầm tay của
các nhà nước tư sản. Lúc này lý luận của Keynes không
còn phù hợp; các nhà kinh tế học sau Keynes đã đưa ra
lý luận về “Chủ nghĩa tự do mới” hay còn gọi là “Chủ
nghĩa tự do cổ điển mới”: kết hợp chủ nghĩa tự do cổ
điển của A.Smith với trường phái trọng thương cũ và
mới, trường phái Keynes mới. Khẩu hiệu của họ là “thị
trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn”, nghĩa là
mở rộng tự do cạnh tranh trên thị trường, tăng cường vị
trí của khu vực tư nhân, giảm vai trò điều tiết kinh tế
của Nhà nước xuống mức thấp, giảm tỷ lệ chi tiêu công
cộng, điều chỉnh phân phối thu nhập có lợi cho chủ tư
bản, thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư trên
phạm vi thế giới.
Nhà triết học Pháp Coóc-nê-li-út Ca-xtơ-ri-a-đi cho
10
rằng “với việc áp dụng Chủ nghĩa tự do mới, Nhà nước
trút bỏ trách nhiệm của mình và tự đặt cho mình dưới
sự chi phối của các thị trường tiền tệ”.
Mô hình này được nhiều nước tư bản phát triển áp
dụng như Mỹ (thời Tổng thống Rigân), Anh (thời Thủ
tướng Thát-Chơ) và các nước đang phát triển như
Braxin,... Sau khoảng trên dưới 1 thập kỷ áp dụng, mô
hình này đã để lại hậu quả nghiêm trọng: khủng hoảng,
rối loạn, thất nghiệp, đói nghèo,... tạo ra một xã hội
lưỡng cực: sự giàu có và sự nghèo khổ.
Ví dụ: Năm 1960, khoảng cách thu nhập giữa 20%
người giàu nhất và 20% nghèo nhất của dân số thế giới
là 30 lần; năm 1991 tăng lên 61 lần.
12 nước EC (gia nhập trước 1994), số người nghèo
tăng từ 38 triệu năm 1975 lên 53 triệu năm 1992.
- Như vậy với nền kinh tế được điều tiết hoàn toàn bởi
bàn tay thị trường, hay với nền kinh tế có sự can thiệp
quá lớn của bàn tay nhà nước thì đều dẫn đến nền kinh
tế rơi vào tình trạng hoạt động không hiệu quả. Để khắc
phục khiếm khuyết đó, nhà kinh tế học người Mỹ
P.Samuelson đã đưa ra lý thuyết “2 bàn tay”, đó là nền
kinh tế được vận hành với sự kết hợp vài trò của thị
trường và của nhà nước (nền kinh tế hỗn hợp). Do đó
không thể loại trừ hay xem nhẹ một trong hai yếu tố đó.
Hiện nay trên thế giới, hầu hết các nước tư bản đều
đánh giá cao lý thuyết này.
* Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, vào cuối những
11
năm 20 TK XX, với mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã
hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nên
các nước đã thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung cao độ, Nhà nước có vai trò to lớn , can thiệp sâu
vào các hoạt động kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính,
tuyệt đối không chấp nhận thị trường. Với cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước của các nước
xã hội chủ nghĩa đã thực hiện được những mục tiêu
kinh tế - xã hội quan trọng, đó là xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho phát triển kinh tế, tăng cường an ninh,
quốc phòng; chăm lo đến các chính sách xã hội: giáo
dục, y tế; thực hiện công bằng xã hội, thể hiện tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tuy nhiên, do duy trì một nền kinh tế phi hàng hóa
với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung lâu dài đã
phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, như: khủng hoảng kinh
tế - xã hội, sử dụng lãng phí các nguồn lực, nền kinh tế
không xuát phát từ thị trường, thiếu hàng hóa trầm
trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; bộ máy
nhà nước cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu quả; mọi
động lực phát triển đều bị triệt tiêu,... Thêm vào đó,
tình hình thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, buộc các
nước phải đổi mới tư duy kinh tế, tiến hành cải tổ, cải
cách, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Song trong quá
trình chuyển đổi, một số nước đã có những cách làm
không phù hợp, không tuân thủ đúng nguyên tắc cho
nên dẫn tới thất bại, đổ vỡ, không giữ vững mục tiêu
chính trị, đã chuyển sang phát triển nền kinh tế thị
12
trường tư bản chủ nghĩa (các nước Đông Âu). Còn một
số nước (trong đó có Trung Quốc, Việt Nam) đã có
những bước chuyển đổi phù hợp, vừa tiến hành xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa
đảm bảo giữ vững mục tiêu Chủ nghĩa xã hội. Mặc dù
còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trong suốt
20 năm qua kể từ khi chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi
mới, bộ mặt đất nước đã thay đổi, nền kinh tế liên tục
tăng trưởng với tốc độ cao, an ninh - chính trị được giữ
vững, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, dân
chủ ngày càng được phát huy, công bằng xã hội đang
dần được thiết lập.
Như vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, có thể
khẳng định rằng cho dù ở các nước có chế độ chính trị
khác nhau, đều phát triển nền kinh tế thị trường - một
thành quả của nền văn minh nhân loại, coi đó là
phương tiện để thúc đẩy kinh tế phát triển, đi liền với
nó là sự điều tiết của nhà nước. Tuy nhiên, không hẳn
sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ở các nước
đều như nhau, mà ở mỗi nước, do mục đích, động lực,
bản chất xã hội của từng nhà nước mà sự quản lý, điều
2.2, Tính tất yếu khách tiết nền kinh tế là khác nhau.
quan của quản lý nhà nước
Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, chúng
về kinh tế trong nền kinh tế ta coi trọng vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà
thị trường định hướng xã nước đối với nền kinh tế thị trường để đảm bảo định
hội chủ nghĩa
hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
13
- Thứ nhất, Nhà nước ta đại
diện cho sở hữu công cộng và
nắm giữ tài sản cho toàn dân,
là chủ thể quản lý cao nhất đối
với các hoạt động kinh tế - xã
hội của đất nước.
Quản lý nhà nước nói chung, đặc biệt quản lý vĩ mô
của Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, vì:
Trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, vấn đề tổ
chức quản lý của nhà nước được đặt lên hàng đầu là
quản lý kinh tế. Lênin cho rằng: “Nhiệm vụ quản lý nhà
nước trước hết và trên hết được quy lại thành nhiệm vụ
thuần tuý kinh tế ... nói tóm lại nhiệm vụ đó được quy
thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế”
Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là người đại diện chủ
sở hữu tài sản công, vừa là người đại diện cho lợi ích
- Thứ hai, sự phát triển mạnh của nhân dân lao động, vì thế chức năng quản lý kinh tế
mẽ của khoa học, công nghệ là một tất yếu khách quan. Chỉ có sự quản lý của nhà
hiện đại làm nảy sinh nhiều nước, nền kinh tế mới có thể phát triển bền vững, chế
vấn đề đòi hỏi nhà nước và
14
chỉ nhà nước mới có chức độ người bóc lột người và bất công xã hội mới được
năng, thẩm quyền thực hiện xóa bỏ, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
giải quyết.
Tuy nhiên vai trò của nhà nước có được phát huy hay
không còn tuỳ thuộc vào phẩm chất và năng lực của đội
ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý kinh tế - xã hội các
cấp.
- Thứ ba, sự đa dạng về sở
hữu trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta đòi hỏi nhà
nước phải tăng cường vai trò
quản lý.
Sự phát triển của KH - CN hiện đại sẽ thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt cơ cấu ngành, vùng
và cơ cấu sản phẩm, đồng thời, cơ cấu lao động cũng
thay đổi. Điều đó cần phải có một sự định hướng chiến
lược của nhà nước trong chính sách ưu đãi ngành,
vùng, trong chính sách giáo dục - đào tạo, cũng như
nghiên cứu KH-CN.
- Thứ tư, toàn cầu hóa, quốc tế
Nếu như trước đổi mới, nền kinh tế nước ta với 2
hóa nhiều lĩnh vực đòi hỏi nhà hình thức sở hữu (toàn dân và tập thể), tương ứng với
nước phải tăng cường vai trò nó là 2 thành phần kinh tế (quốc doanh và HTX), thì
quản lý của mình.
cho đến nay, với các hình thức sở hữu khác nhau (toàn
15
dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp) và 6 thành phần kinh tế
hoạt động đan xen nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
nếu không tăng cường vai trò nhà nước thì không thể
bảo đảm cho các thành phần kinh tế cạnh tranh bình
đẳng, tuân thủ đúng pháp luật...
Trong xu thế quốc tế hóa, TCH đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ, chúng ta không thể đứng ngoài vòng xoáy
- Thứ năm, những khuyết tật đó, mà phải tích cực chủ động hội nhập vào nền kinh tế
của kinh tế thị trường đặt ra thế giới. Tuy nhiên, đối với một nước kinh tế kém phát
yêu cầu phải có sự quản lý, triển, pháp luật chưa hoàn thiện, khả năng thua thiệt,
yếu thế là khó tránh khỏi (vụ cá tra, cá ba sa, tôm xuất
điều tiết của nhà nước.
khẩu, thương hiệu nước mắm Phú Quốc...). Chính vì
vậy, nếu không có bước đi, lộ trình thích hợp, không có
các chính sách, chiến lược kinh tế đúng đắn, không có
sự định hướng phát triển thì thách thức trong quá trình
hội nhập ngày càng lớn.
Nền kinh tế thị trường là phương tiện để các nước
đạt được sự tăng trưởng cao. Song, kinh tế thị trường
không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết tốt mọi
vấn đề. Bên cạnh mặt tích cực, nó cũng chứa đựng
những hạn chế, tiêu cực như: cạnh tranh gay gắt dẫn
16
- Thứ sáu, tăng cường quản lý đến độc quyền, hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, làm
nhà nước về kinh tế để giữ hàng giả, phân hóa giàu nghèo, môi trường sinh thái bị
vững định hướng xã hội chủ hủy hoại cạn kiệt, tệ nạn xã hội nảy sinh, lối sống chạy
nghĩa.
theo đồng tiền,... Đối với Việt Nam, chúng ta vẫn đang
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy sự điều
tiết của nhà nước là hết sức cần thiết để giảm bớt những
khuyết tật của kinh tế thị trường, phát huy tối đa mặt
tích cực để phục vụ cho phát triển kinh tế.
Chúng ta xác định mục tiêu cuối cùng là xây dựng
2.3, Vai trò
* Đảm bảo cho nền kinh tế ổn
định và phát triển bền vững
thành công Chủ nghĩa xã hội, cho nên phát triển kinh tế
chính là nhằm phục vụ cho mục tiêu đó. Mặc dù hiện
nay chúng ta đang trong TKQĐ lên CNXH, nhưng
trong từng bước phát triển đều phải đảm bảo giữ vững
định hướng XHCN. Trong điều kiện một nền kinh tế
nhiều thành phần, nhà nước đảm bảo định hướng
XHCN thông qua vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
- lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng
điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời hướng
các thành phần vào làm ăn có hiệu quả, thực hiện tốt
các chính sách xã hội.
17
Thể hiện:
- Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô: Đảm bảo giá trị
* Đảm bảo hiệu quả kinh tế -
đồng tiền; đảm bảo những cân đối lớn của nền kinh
xã hội
tế như: cân đối hàng hóa - tiền tệ, cung - cầu, xuất
khẩu - nhập khẩu, đầu tư cá nhân - đầu tư cộng
đồng, cân đối giữa các ngành,...
- Đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế liên tục: Tổng sản
phẩm quốc dân và thu nhập bình quân đầu người
năm sau tăng hơn năm trước.
- Đảm bảo sự phát triển kinh tế giai đoạn trước không
gây tổn hại đến giai đoạn sau, môi trường sinh thái
được bảo vệ.
Tức là nền kinh tế có sự tăng trưởng liên tục, đi liền
với nó là những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và tiến bộ xã hội.
* Thúc đẩy nhanh sự phát
triển
+ Tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện
ở chỗ: Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng; tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm
trong GDP.
+ Tiến bộ về mặt xã hội thể hiện: Về lao động: Tỷ lệ
lao động trong CN và DV ngày càng tăng; tỷ lệ lao
động trong NN ngày càng giảm; Tỷ lệ lao động được
18
* Đảm bảo định hướng xã hội đào tạo tăng lên; Môi trường sinh thái được bảo vệ; Đời
chủ nghĩa
sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được
cải thiện và nâng lên.
Nhà nước xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, các
vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tăng cường và
khuyến khích đầu tư để tạo động lực cho sự phát triển
nhanh.
Xuất phát từ bản chất của chế độ XHCN, nhà nước
thông qua các công cụ, chính sách để đảm bảo sự bình
đẳng giữa các chủ thể kinh tế, giảm bớt sự chênh lệch
giàu nghèo giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp dân
cư trong xã hội, phát triển kinh tế cộng đồng vì mục
tiêu mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
=> Nói tóm lại, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế
II/ CHỨC NĂNG VÀ
NỘI hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định
DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC hướng XHCN, cùng với sự tác động mạnh mẽ của các
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
ĐỊNH
HƯỚNG
XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế
yếu tố bên ngoài đã và đang tạo ra những cơ hội và
thách thức to lớn đối với nước ta. Để phát huy tối đa
mặt tích cực, nắm bắt nhanh cơ hội và đẩy lùi nguy cơ,
hạn chế tiêu cực, điều đó đòi hỏi cần có sự quản lý,
điều tiết, can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế. Do
1.1, Quan niệm chức năng vậy phải đánh giá đúng và ngày càng tăng cường vai
quản lý nhà nước về kinh tế trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị
19
Chức năng quản lý nhà trường định hướng XHCN.
nước về kinh tế là những hoạt
động quản lý kinh tế mà nhà
nước phải thực hiện để đạt tới
các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội trong từng thời kỳ.
Từ cách hiểu trên, có thể thấy chức năng quản lý
kinh tế của nhà nước là các hoạt động quản lý kinh tế
mang tính tất yếu khách quan do bản chất, vai trò của
nhà nước quy định. Mục tiêu của việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế là phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Do vậy, cơ sở để xác định chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế là:
+ Chức năng của quản lý kinh tế nói chung.
+ Bản chất, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế.
+ Mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước qua các giai
20
- Xem thêm -