LUẬN VĂN:
Quản lý tiền cho vay của các ngân
hàng thương mại ở Việt nam hiện nay
LờI NóI Đầu
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi động quá trình
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên
cứu một cách có hệ thống nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một
lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân
hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi
bước thăng trầm của nền kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ
và hoạt động của ngân hàng.
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá. Do vậy, bất
kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù ở bất kỳ cấp độ nào: gia đình, doanh nghiệp,
quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ. Ngân hàng là một trong
những tổ chức cung cấp vốn quan trọng nhất cho phần lớn các hoạt động sản xuất của nền
kinh tế, ngân hàng thực hiện việc chu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Sau khi xác
định được vốn dự trữ bắt buộc theo định mức và vốn tiền gửi có thể sử dụng để kinh
doanh. Ngân hàng tìm những khách hàng có tín nhiệm, có thể đầu tư vốn an toàn. thu hồi
vốn đúng hạn, tăng được tốc độ quay vòng vốn tín dụng, thu được nhiều lợi nhuận nhằm
nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn. Nhưng để thực hiện việc cho vay này đúng theo mong
muốn thì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý tiền cho vay, phải am
hiểu khách hàng thị trường và những chính sách, quy đinh của nhà nước về tiền tệ và tín
dụng. Là một nhà hoạt đọng trong lĩnh vực ngân hàng trong tương lai để có kiến thức phục
vụ cho việc kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tốt hơn, đem lại lợi ích cho
bản thâm và xã hội em đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quản lý tiền cho vay của các
ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay. Đây là một trong số những lĩnh vực được các
nhà ngân hàng quan tâm để tăng cường hoạt động có lợi.
NộI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ Sở Lý LUậN CủA VIệC QUảN Lý TIềN CHO VAY
I.1. Tín dụng là gì ?
Theo các nhà kinh tế học người Pháp: tín dụng là sự trao đổi một tài hoá hiện tại để
lấy một tài hoá trong tương lai. Tín dụng là việc dịch chuyển vốn tạm thời từ nơi thừa sang
nơi thiếu.
Theo Việt Nam: tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau giữa nguyên tắc hoàn trả kèm
theo lợi tức .
I.2. Bản chất của tín dụng
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa. Cần xem xét nội dung của
phạm trù này để hiểu bản chất của nó. Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa các doanh
nghiệp. Vì vậy để hiểu được bản chất của tín dụng, phải xuất phát từ quá trình hoạt động
của các doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có quá trình luôn chuyển
vốn khác nhau.Hơn nữa ngay trong bản thân doanh nghiệp quả trình luôn chuyển các loại
vốn cũng khác nhau. Nên đối với một doanh nghiệp xẩy ra sự không trùng khớp giữa nhu
càu về vốn và vôn tự có,coi như tư có: hoặc là doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn hoặc
là đang tự thừa vốn. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn thì doanh nghiệp sẽ có
nhu cầu huy động thêm vốn để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp
đang tạm thời thừa vốn thì doanh nghiệp có nhu cầu cho vay lấy lãi. Mặc dù doanh nghiệp
luân tìm cách sử dụng tối đa vốn tự có và coi như tự có, song nếu khả năng thu hồi vốn
thấp,hoặc lãi cho vay thấp không bù đáp nổi rủi ro có thể doanh nghiệp cũng không cho
vay.Nếu chúng ta xem xét nhiều doanh nghiệp trong cùng một thời gian sẽ thấy có doanh
nghiệp đang tạm thời thiếu vốn có nhu cầu đi vay và có doanh nghiệp đang tạm thời thừa
vốn có nhu cầu cho vay. Hiện tượng kinh tế trên làm nảy sinh một số mối quan hệ kinh tế
mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu với điều
kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay. Từ nội dung của quan hệ tín dụng ta thấy, thực chất của
tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp.
Một nhu cầu vốn thường xuyên lớn hơn vốn tự có và coi như tự có không thể được hình
thành thông qua quan hệ tín dụng. Mặt khác tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm giải quyết cả
hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản chất nó là quan hệ bình đẳng hai bên
cùng có lợi, và mang tính thoả thuận rất lớn.
I.3. Chức năng của tín dụng.
Huy động và phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả. Đây là chức
nâng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất cuả tín dụng. Chức năng này của tín dụng
được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau: huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiếp
kiệm, phát hành trái phiếu. Cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bằng hàng hoá.
Kiểm soát các hoạt động kinh tế: Tín dụng là quan hệ kinh tế được hình thành trên
cơ sở rất nhiều quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín dụng cũng lại bao hàm nhiều
mối quan hệ như: Quan hệ vay, quan hệ về dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao hàm cả khả
năng kiểm soát các loại hoạt đọng kinh tế của các doanh nghiệp. Để hình thành được quan
hệ tín dụng, người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như tình vốn
liếng mặt hàng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói
chung, quan hệ với các chủ nợ khác…Các trục trặc trong quan hệ tín dụng như vay không
trả được hoặc trả khong đúng hạn phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh
doanh như khâu tiêu thụ hàng hoá, không có lãi, bị phá sản…
I.4. Vai trò của tín dụng
Là một mối quan hệ kinh tế, tín dung có những tác động nhất định đối với các hoạt
động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng
quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là
công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọn. Thông qua tín dụng: Các doanh nghiệp nhận
khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi
mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tâp trung các khoản tín dụng nhỏ, lẻ tẻ
thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Tóm
lại, thông qua quá trính tích tụ và tập trung vốn, tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Sau nữa tín dụng là công cụ bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các nhà
doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh
doanh.Tín dụng trở thành công cụ làm cho kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng
trở nên năng động,mềm dẻo, linh hoạt. Bên cạnh đó, tín dụng là công cụ tăng vòng quay
của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông.
Chúng ta đã xem xét vai trò của tín dụng trên những phương diện tích cực. Điều cần
lưu ý là những vai trò trên sẽ còn tích cực, thậm sẽ là tiêu cực dưới nhận thức và vận dụng
sai lệch của con người.
I.5. Tín dụng ngân hàng.
Là một hình thức tín dụng quan trọng. Có thể nói mối quan hệ tín dụng giữa ngân
hàng với các doanh nghiệp là quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín
dụng cho các doanh nghiệp. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng
trở thành một hình thức tín dụng chủ yếu không những ở trong nước mà còn trên trường
quốc tế.
I.5.1.Bản chất của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ
vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng
tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và cả hai bên cùng có lợi. Đặc biệt tín
dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hang và tất cã các doanh nghiệp, các
cá nhân khác. Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực
tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là các ngân hàng.
I.5.2. Chức năng của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng huy động và cho vay vốn tiền tệ trên
nguyên tắc hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng , chức năng này bao gồm hai nghiệp vụ
được tách hẳn ra :Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang
thiếu tạm thời. Đó là điểm mà nhiều loại hình tín dụng khác không có.
Kiểm soát các hoạt động kinh tế khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín
dụng ngân hàng là rộng lớn hơn các hình thức tín dụng khác. Bởi vì bên cạnh quan hệ tín
dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, ngan hàng còn có quan hệ tiền tệ, thanh toán…với
họ. Các mối quan hệ này bổ xung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các
doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác. Chẳng
hạn, trước khi cho một doanh nghiệp vay,ngân hàng có thể biết tương đối chính xác tình
hình tài chính của doanh nghiệp đó
I.6.Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng Thương mại.
Đối với một ngân hàng sau khi huy động được nguồn vốn thì tiến hành kinh doanh
trên nguồn vốn đó. Ngân hàng Thương mại thực hiện nhiệm vụ cho vay đối với nền kinh tế
đáp ứng nhu cầu vốn cho các thanhf viên của nền kinh tế. Cho vay là hoạt động kinh
doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi các chi
phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế
và cả chi phí rủi ro đầu tư.
CHƯƠNG II: NHữNG NGHUYÊN TắC QUảN Lý TIềN CHO VAY.
II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay.
Trước khi quyết định làm bất cứ việc gì, phải nắm bắt đầy đủ những thông tin chính
xác có liên quan đến việc đó thì mới tránh được những thiệt hại do sai lầm thiếu thông tin
gây ra. Trong việc cho khách hàng vay vốn, nếu ngân hàng không có đủ những thông tin
cần thiết về người đi vay thì rất dễ dàng bị thiệt hại do không đòi được nợ hoặc nợ quá hạn
tăng lên.
Ngân hàng thương mại kinh doanh trên địa bàn nào trước hết đòi hỏi phải am hiểu
tường tận địa bàn đó như: tình hình kinh tế, xã hội, lịch sử, đất đai, hạb tầng tầng cơ sở, tài
nguyên, dân cư, vốn liếng, của cải, bất động sản, tài sản lưu động, các quan hệ giao lưu
kinh tế, tài chính đối với cấp trên, với địa bàn khác… bằng các số liệu thống kê cụ thể,
chính xác do ngân hàng tự điều tra, sưu tầm có thể tin cậy được.
Nền kinh tế thị trường vận động, biến đổi không ngừng nên hàng ngày phải theo dõi
kịp thời diễn biến của các thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị
trường chứng khoán, sản lượng các sản phẩm chủ yếu của các nghành kinh tế, các chính
sách kinh tế tài chính, đầu tư, xuất nhập khẩu, tỉ giả hối đoái, lãi suất, thuế, các đạo luật
mới ban hành, những bíên động về giá hàng xuất nhập khẩu, giá vàng, giá ngoại tệ mạnh,
giá nội tệ, những biến động về đầu tư trong nước, từ nước ngoài vào, thu chi ngân sách,
những biến động có liên quan trực tiếp đến những người gửi tiền và vay tiền ngân hàn…
để dự kiến các giải pháp đối phó hay chuẩn đối phó trong thời gian tới.
Có những thông tin kinh tế chung là điều cần thiết không thể thiếu được, nhưng như
vậy vẫn chưa đủ, còn phải có thông tin nhiều mặt về đối tượng đến vay vốn. Phải tiếp cận
đến nơi đến chốn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phải đánh giá được
trình độ quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp, vì trình độ kinh doanh nghiệp càng
kém thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng khi cho vay càng lớn.
II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay.
Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi đã có đủ cơ sở để tin tưởng khách hàng
sẽ trả nợ đúng hạn đủ vốn và lãi. Chỉ khi nào khách hàng có đủ điều kiện để ngân hàng tin
tưởng, thì lúc ấy mới có quan hệ tín dụng. Luật ngân hàng qui định: Các doanh nghiệp,tổ
chức,cá nhân muốn vay tiền ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau:phải có đơn xin vay,
được ngân hàng kiểm tra khả năng vay nơ và khả năng trả nợ, người đi vay kí hợp đồng tin
dụng với ngân hàng, người đi vay kí hơp đồng đảm bảo tín đụng với ngân hàng. Để đảm
bảo trong hoạt động vay vốn của ngân hàng nhà nước ta có những quy định chặt chẽ việc
cho vay phải có:
Bảo lãnh : bảo lãnh là hành động cam kết trả nợ ngân hàng bằng giấy tờ hợp pháp
của người nhận bảo lãnh cho người đi vay khi khoản nợ đã đến hạn mà người đi vay không
có khả năng trả nợ. Trong giấy bảo lãnh phải ghi rõ tên người mắc nợ và số tền nhận bảo
lãnh , như vậy có nghĩa là người bảo lãnh chỉ hạn chế việc bảo lãnh của mình trong phạm
vi số tiền nợ mà người đi vay đã thừa nhận .
Cầm cố giấy tờ có giá, hàng hoá và tài sản khác:để được vay vốn, người đi vay phải
cầm cố cho ngân hàng tài sản của mình như giấy tờ có giá, hàng hoá, vàng, đá quý… Nhà
nước ta quy định giá trị khoản vay không được vượt quá 70% giá trị tài sản cầm cố hoặc
thế chấp, ngân hàng Nhà Nước ban hành quyết định 217 về “giao tài sản” là việc bên cầm
cố phải đưa tài sản cho ngân hàng, hoặc bên thứ 3 nắm giữ trong suốt thời gian hợp đồng.
Và quy định bên bảo lãnh phải lập một danh mục tài sản dùng vào việc bảo lãnh và số tiền
cho vay tối đa không vượt quá 70% giá trị tài sản dùng vào việc bảo lãnh.
Cầm cố bất động sản : bất động được cầm cố như nhà ở, đất đai, ruộng rẫy, sau khi
làm thủ tục càm cố người đi vay mới nhận được tiền vay. Người đi vay phải trả nợ đúng
hạn theo hợp đồng tín dụng, không được đem bất động sản đã cầm cố cho ngân hàng này
tiếp tục cầm cố cho ngân hàng khác để đượcvay thêm tiền ở ngân hàng khác.
Cần chú ý thường xuyên đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khả năng
này không có thì có nghĩa là người vay đã mất khả năng thanh toán hoặc đã vỡ nợ. Cho
nên, sau khi đã bỏ vốn ra cho các công ty vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra khả
năng toán, trả nợ đối với ngân hàng không lúc nào được lơ là, mà phải tiến hành thường
xuyên, liên tục.
II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả
Sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường cho vay nảy sinh bởi vì những người rất
kém tín nhiệm lại là những người thường xếp hàng để vay tiền, những người vay tiền với
những dự án đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để được lợi nếu các dự án của họ được thành
công và như vậy họ là nhữnh người khao khát nhận món vay nhất. Mặt khác, rủi ro đạo
đức nảy sinh trong các thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện
những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người cho vay, khi những
người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đàu tư vào những dự án có rủi ro cao. Để có lợi
nhuận, các ngân hàng phải vượt qua những vấn
đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề khiến cho sự vỡ nợ có thể xảy
ra. Sự cố gắng của các ngân hàng để giải quyết các vấn đề này giúp ta giải thích những
nguyên tắc quản lý các món tiền cho vay sau đây.
II.3.1. Sàng lọc và giám sát.
Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi rằng các ngân hàng phải
lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có tiển vọng tốt ra khỏi những người mạo hiểm
vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các món tiền cho vay sẽ có lợi cho ngân hàng đó.
Nhằm thực hiện việc sàng lọc một cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin
tin cậy về những người vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập hợp
thông tin, tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền cho vay. Khi một
người đến vay ngân hàng, ngân hàng nắm bắt thông tin về người này và tiến hành phân
tích xem người này có phải là người mạo hiểm và tín dụng có triển vọng tốt đến mức nào,
nó dự báo liêuj người đó có khó khăn khi tanh toán món tiền vay hay không.
Việc giám sát va cưỡng chế thi hành những qui định hạn chế. Một khi một món tiền
cho vay được thực hiện, người vay có ý muốn tiến hành những hoạt động rủi ro để món
vay này có thể ít có khả năng thanh toán. Để giảm bớt tính chất có thể như vậy của rủi ro
đạo đức, các ngân hàng phải theo nguyên tắc quản lý tiền vay bằng cách giám sát những
hoạt động của người vay để xem liệu họ có tuân theo những quy định hay không và cưỡng
chế thi hành những quy định nếu họ không tuân theo.
II.3.2. Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng
Một cách nữa để các ngân hàng thu được thông tin về những người vay tiền của họ
là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài-một nguyên lý quan trọng khác của việc quản lý ngân
hàng. Quan hệ khách hàng lâu dài giúp cho các ngân hàng có thể đối phó với những sự bất
ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả ngân hàng cũng không lườn trước được ở lúc ban đầu. Mối
quan hệ khách hàng lâu dài dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. Ngoài ra, các điều khoản
trong thoả ước về mức tín dụng này đòi hỏi hãng đó cung cấp thường xuyên cho ngân hàng
này những thông tin về tình hình thu nhập, tài sản có và tài sản nợ, về các hoạt động kinh
doanh…một thoả ước về mức tín dụng là một phương pháp rất hữu hiệu để giảm chi phí
cho việc sàng lọc và tạp hợp thông tin của ngân hàng .
II.3.3.Vật thế chấp và số dư bù.
Những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền cho vay là những công cụ quan trọng
để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người
vay vỡ nợ. Một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc khi ngân hàng cho vay thương mại
gọi là số dư bù. Một hãng khi nhận đựơc tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc
trong một tài khoản séc ở ngân hàng cho nó vay. Ngoài việc có tác dụng như vật thế chấp,
các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Số dư bù đóng
vai trò này giúp ngân hàng giám sát người vay đó và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Bất kỳ thay
đổi quan trọng nào trong các thủ tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho
ngân hàng rằng phải tiến hành điều tra. Những số dư bù giúp cho ngân hàng dễ giám sát
những người vay tiền một cách hiệu quả hơn và là một công cụ quảm lý quan trọng.
II.3.4.Hạn chế tín dụng
Một phương pháp khác để giúp những ngân hàng thành đạt đối phó với lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn chế tín dụng. Những ngân hàng từ chối cho vay mặc
dù những người vay sẵn lòng thanh toán lãi suất đã được công bố thậm chí một lãi suất cao
hơn. Việc hạn chế tín dụng có hai dạng: Dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối
một món cho vay với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay sẵn
lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một ngân hàng sẵn lòng cho
vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà người vay này muốn. Để đề phòng rủi ro đạo
đức các ngân hàng thường thực hiện dạng hạn chế tín dụng thứ hai vì món tiền vay được
càng lớn thì người vay càng có nhiều ý muốn thực hiện những hoạt động khiến ít có thể
thanh toán được món vay đó.
Chương III: Thực trạng việc cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện
nay.
III.1.Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Quy chế này được ban hành kèm theo quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN nfgày
30/9/1998 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về việc cho vay bằng đồng Việt
Nam và ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho
sản xuất và kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống. Cụ thể: quy chế quy định
về: quyền tự chủ trong cho vay của các tổ chức tín dụng, nguyên tắc vay vốn, điều kiện
vay vốn, loại cho vay, đối tượng cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, mức cho vay,
trả nợ gốc và lãi.
Điều 14: Quy định về hồ sơ vay vốn.
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng những giấy tờ sau: Giấy
đề nghị vay vốn. Giấy đề nghị vay vốn phải có nội dung cơ bản như: tên, địa chỉ khách
hàng vay vốn, số tiền cần vay, mục đích vay vốn, các cam kết và sử dụng tiền vay, trả nợ,
trả lãi và các cam kết khác. Tổ chức tín dụng quy định cụ thể các loại tài liệu khách hàng
cần phải gửi phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng.
Điều 15: Thẩm định và quyết định cho vay.
Tổ chức tín dụng xây dựng quy định trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo
đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới giữa khâu
thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng kiểm tra các tài liệu khách hàng gửi
đến, đồng thời tiến hành thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư hoặc phương án
sản xuất kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ vay. Trong thời gian không quá mười ngày
làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc đối với cho vay trung,
dài hạn kể từ khi tổ chức tín dụng nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần
thiết của khách hàng theo yêu cầu của tổ chức vay đối với khách hàng. Trong trường hợp
quy định không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản,
trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.
Điều 16: Phương thức cho vay.
Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay phù hợp với
nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay
theo một trong các phương thức cho vay sau:
Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay
vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất
kinh doanh.
Cho vay vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn
hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối
dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thức hiện theo quy
định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thông Đốc Ngân
hàng Nhà nước ban hành.
Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả nợ
đủ gốc và lãi.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng
và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả
cho mức hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng
chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để
thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền tự động hoặc diểm ứng tiền mặt là đại lý
của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và
khách hàng phải tuân theo các quy định của chính phủ và ngân hàng Nhà nước về phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Điều 18: Hợp đồng tín dụng.
Sau khi quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng ký kết hợp đồng tín
dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay,
cách thức giải ngân và sử dụng vốn vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, phương thức và
kỳ trả nợ, hình thức bảo đảm tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo, biện pháp xử lý tài sản làm
đảm bảo, chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng và những cam kết
khác được các bên thoả thuận.
Điều 22: Kiểm tra, giám sát vốn vay.
Tổ chức tín dụng có thách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn
vay và trả nợ của khách hàng. Tổ chức tín dụng tiến hành kiểm tra, giám sát trước, trong
và sau khi cho vayphù hộp với đặc điểm hoạt động của tổ chức tín dụng và đặc điểm kinh
doanh và sử dụng vốn vay của khách hàng.
Điều 25: Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.
Khách hàng vay có quyền: Từ chối yêu cầu của tổ chức tín dụng không đúng với
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng
theo quy định của pháp luật.
Khách hàn có nghĩa vụ: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan
đến việc vay vốn và chịu trách nghiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung
cấp. Sử dung tiền vay đúng mục đích và thức hiện đúng các nội dung khác đã thoả thuậ
trong hợp đồng tín dụng. Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng. Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thứ hiện đúng những thoả thuận về việc
trả nợ vay và thức hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Điều 26: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng.
Tổ chức tín dụng có quyền: yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án
đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của
người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay. Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu
thấy không đủ điều kiện vay vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu
quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ nguồn
vốn để cho vay. Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách
hàng. Cấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông
tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín
dụng hoặc người bảo lãnh theo quy định của pháp luật. Khi đến hạn trả nợ, nếu các bên
không có thoả thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền bán tài sản làm bảo đảm theo sự
thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người
bảo lãnh thức hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp người khách hàng được bảo lãnh
vay vốn. Miễn, giảm lãi tiền vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, mua bán nợ theo quy
định của ngân hàng Nhà nước và thức hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy đinh
của chính phủ.
Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ: thức hiệ đúng thoả thuân trong hợp đồng tín dụng.
Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra quy chế còn quy định về cho vay bằng ngoại tệ, giới hạn cho vay, những trường
hợp không cho vay được, hạn chế cho vay, ra hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, miễn, giảm
lãi tiền vay, cho vay ưu đãi, cho vay đầu tư xây dựng theo kế hoạch Nhà nước.
III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động.
Về nguyên tắc, vốn tự có của doanh nghiệp lúc nào cũng phải thoả mãn được các
nhu cầu ngắn hạn về vốn lưu động để đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình
thường. Nhưng thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra đúng như vậy, mà có lúc nhu cầu
về vốn lưu động thấp hơn vốn lưu động tự có, ngược lại có lúc nhu cầu về vốn lưu động lại
cao hơn vốn lưu động tự có khi đó doanh nghiệp phải xin vay vốn ngân hàng để bù đắp
cho đủ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh bị thiếu hụt. Thường thì các doanh nghiệp có chu
kỳ sản xuất dài đều thiếu vốn lưu động, còn các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn ít
khi thiếu vốn lưu động. Những doanh nghiệp có nhiều hàng tồn kho hoặc bị khách hàng
chiếm dụngvốn, sẽ phải vay vốn ngân hàng nhiều hơn.
Cho vay ngắn hạn về vốn lưu
động của ngân hàng thương mại bao gồm:
Cho vay hỗ trợ ngân quỹ: loại cho va0y này được dùng để bù đắp số vốn tạm thời
thiếu hụt trong một thời gian ngắn trong quỹ của doanh nghiệp. Do chưa đến hạn thu tiền
bán hàng đã phải trả tiền mua nguyên vật liệu sản phẩm , trả lương cho công nhân, nộp
thuế… nên doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trong vài ba ngày đẻ thực hiện những khoản
chi trước mắt.
Chiết khấu thương phiếu: Những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ chấp nhận cho
khách hàng không phải trả tiền ngay mà được trả chậm theo kỳ hạn, nhưng phải viết giấy
nhận nợ do người bán lập ra. Những giấy tờ đó gọi là thương phiếu. Trong việc cho vay
chiết khấu thương phiếu thường có hợp đòng tín dụng chiết khấu. Cơ sở đảm bảo cho tiền
vay trong tín dụng chiết khấu thương phiếu là lượng hàng hoá mua chịu của người mua
khong thể tránh khỏi trường hợp thương phiếu lập ra không có cơ sở vật tư hàng hoá bảo
đảm.
Tín dụng ứng trước: Tín dụng ứng trước là một thể thức cho vay được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó ngân hàng chấp nhận cho người vay sử dụng một
mức cho vay trong mmọt thời gian nhất định. Có hai loại cho vay ứng trước là cho vay ứng
trước có bảo đảm và cho vay ứng trước khong bảo đảm. Cho vay ứng trước có bảo đảm
được thực hiện khi ngân hàng chưa thực sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh và tình hình
tài chính của người đi vay, nên đòi hỏi người đi vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay
để ngân hàng yên tâm đã có một nguồn khác trả nợ cho ngân hàng nếu khoản cho vay này
khong thu hồi được khi đến hạn trả, thông thường có một số ứng trước có đảm bảo như:
ứng trước có sự bảo lãnh của người thứ ba, ứng trước có đảm bảo bằng thế chấp bất động
sản, ứng trước có đảm bảo bằng hàng hoá, ứng trước có đảm bảo bàng kim loại quý hoặc
chứng khoán. Cho vay trước không bảo đảm, đây là loại tín dụng trung hạn và tín dụng
tiêu dùng.
III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn.
Tín dụng trung hạn và dài hạn là loại tín dụng đầu tư bao gồm các khoản cho vay tài
sản cố định. Những khoản vay có thời hạn từ một đến hai năm được coi là tín dụng trung
hạn. Những khoản vay từ hai năm trở nên được coi là tín dụng trung dài hạn. Đối tượng
cho vay của tín dụng trung, dài hạn là: chi phí mua đất, thuê đất, chi phí xây dựng cơ bản
nông, lâm, ngư nghiệp, chi phí xây dựng nhà xưởng, kho tàng, chi phí mua sắm máy móc,
thiết bị, phương tiện sản xuất, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, chi phí mua sắm phương
tiện vận tải. Các khoản cho vay trung hạn và dài hạn của ngân hàng đều được hoàn trả
bằng nguồn vốn tự tài trợ của doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Nguồn vốn tự tài trợ của
doanh nghiệp trước hết là các khoản khấu hao sau đó là các khoản dự trữ, dự phòng, tích
trữ lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp.
III.3.1. Cho vay trung hạn.
Thời hạn cho vay của cho vay trung hạn trong phạm vi từ hai đến bẩy năm. Khi quy
định thời hạn này, người ta căn cứ vào thời hạn khấu hao của các tài sản cố định được
dùng để đảm bảo cho khoản vay, đó là những máy móc,công cụ, thiết bị nhỏ mà thời hạn
khấu hao của chúng chỉ trong phạm vi từhai đến bẩy năm. Ngân hàng quy định thời hạn
của tín dụng trung hạn đến bẩy năm nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiẹep vay vốn có đủ
khả năng trả nơj bằng nguồn vố tự tài trợ. Đây là loại tín dụng thích hợp với doanh nghiệp
vừa và nhỏ nên được các doanh nghiệp này đem tài sản đến cầm cố ở ngân hàng ngày càng
nhiều để vay trung hạn.
III.3.2. Cho vay dài hạn.
Tín dụng dài hạn là các khoản cho vay dài hạn của các ngân hàng có thời hạn từ bẩy
năm trở nên. Trên lý thuyết, thời hạn của tín dụng dài hạn không có giới hạn cuối cùng
nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ cho vay với thời hạn từ 10 đến 15 năm.
Thời hạn cụ thể của khoản cho vay dài hạn được xác định tuỳ theo thời hạn khấu hao của
bất động sản thế chấp nhằm tài trợ cho các doanh nghiệp mua sắm máy móc, công cụ mới
thay thế những công cụ lạc hậu, không dùng đến hoặc xây dựng những công trình mới.
Thông thường tín dụng dài hạn được cung cấp dưới hình thức các khản cho vay. Người đi
vay nhận được một số tiền để sử dụng vào ngày cho vay với những cam kết về thời hạn trả
nợ, tài sản đảm bảo khoản vay, người bảo lãnh… theo nguyên tắc tín dụng, nhằm bảo đảm
an toàn cho khoản vay, giảm bớt ruỉ ro tín dụng cho ngân hàng.
Hiện nay, thị trường luôn luôn biến đổi không ngừng, khó mà lường trước được mọi
vấn đề, nhất là thị trường công thương nghiệp nên thời hạn cho vay càng dài mọi dự đoán
càng khó khăn, hệ số rủi ro càng lớn. Vì thế ngân hàng cho vay dài hạn càng phải thận
trọng, kiểm soát thường xuyên và chặt chẽ số tiền đã cho vay, cũng như phải có hạn mức
tín dụng hợp lý và những tài sản đảm bảo tương ứng với khoản dư nợ của người đi vay.
III.4.Cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng là loại tín dụng hỗ trợ cho những nhu cầu tiêu dùng cá nhân,
giúp người tiêu dùng sử dụng được hàng hoá, dịch vụ đời sống cần thiết trước khi họ có
khả năng tích luỹ để chi trả. Tại nghị định 178/1999/NĐCP ngày 29/12/1999 chính phủ
cho phép các tổ chức tín dụng cho vay có bảo lãnh tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trịxã hội cho cá nhân, hộ nghèo. Văn bản số 34/CV.NHNN1 ngày 7/1/00 và số
98/CV.NHNN1 ngày 28/1/00 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức
tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với cán bộ, công nhân viên và thu nợ
từ tiền lương, trợ cấp, các khoản thu nhập khác. ngày 25/8/00 Thống đốc Ngân hàng nhà
nước có quyết định 284/00/QĐ-NHNN1 ban hành “quy chế cho vay của tổ chứ tín dụng
đối với khách hàng”. Trong đó ở điều 5 quy định đối tượng khách hàng vay gồm doanh
nghiệp, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cá nhân, hộ gia đình…
Đối tượng vay tập trung ở vùng thị xã, thị trấn, những người cần mua sắm phương tiện đi
lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình, cải tạo, sửa chữa nhà ở, mở nghề phụ để tận dụng thời gian,
tăng thu nhập… những người vay vố được thủ trưởng, chủ tịch công đoàn cơ quan xác
nhận có điều kiện thu nhập ổn định và có khả năng trả nợ theo cam kết. Việc xác nhận này
bước đầu đã có hiệu lực, trong một đợt quý 3/00 đã có người vay tự trích thu nhập trả nợ
dần. Ngân hàng Nhà nước và phát triển nông thôn, quỹ tín dụng đã thu nợ gần 800 triệu
đồng. Qua một thời gian thực hiện có thể thấy được những tác dụng, lợi ích thiết thực và
một số khó khăn, hạn chế. Lợi ích đối với người tiêu dùng là được hưởng thụ các nhu cầu
cần thiết về vật chất, tinh thần khi chưa kịp có đủ nguồn để chi tiêu.Qua đó mà gop phần
ổn định, nâng mức sống, tạo phấn khởi, tich cực trong lao động, công tac, học tập. Đối với
nền kinh tế mở cho vay tiều dùng sẽ kích thích tiêu thụ hàng hoá, thúc đẩy sản xuất, lưu
thông phát triển. Về phía ngân hàng,tổ chức tín dụng mỏ rộng thêm nghiệp vụ,đa dạng hoá
các hoạt động tín dụng. Với nhiều khách hàng vay, mỗi món vay không lớn thì phân tán
được rủi ro. Các phức tạp khác qua cho vay và thực hiện bảo lãnh, tổ chức đoàn thể tìm
hiểu thêm thị trường vốn để huy động và phát triển thị phần tín dụng, dịch vụ ngân hàng.
III.5.Thành tựu và hạn chế của việc cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam.
III.5.1.Thành tựu.
Sau những năm thực hiện đổi mới, xác định mục tiêu, phương hướng kinh tế xã hội
từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo phù hợp với giai đoạn mới, giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta rất vui mừng về những kết quả đạt được như:
Các chỉ tiêu kinh tế quan trọng đạt và vượt mức kế hoạch, tổng sản phẩm trong nước tăng
sản xuất nông nghiệp tăng, sản xuất công nghiệp tăng, các ngành dịch vụ tăng, lạm phát
được kiềm chế, hoạt động có nhiều thuận lợi, các cam kết được bảo đảm, cơ cấu đầu tư
chuyển dịch theo hướng tích cực, nhiều công trình đã được xây dựng và đưa vào hoạt
động, tạo thêm việc làm và giải quyết hàng vạn lao động, quan hệ hợp tác kinh tế- thương
mại với nhiều nước, với các tổ chức quốc tế, các tổ chức tài chính tiền tệ lớn cảu thế giới
và các cộng đồng quốc tế được mở rộng. Những kết quả của chúng ta đạt được là sự cô
gắng lớn của toàn Đảng, toàn dân. Trong thành quả chung của cả nước, ngành ngân hàng
trong những năm qua cũng có những đóng góp rất quan trọng. Có thể nói ngành ngân hàng
có nhiều tiến bộ, hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước giao. Cùng
với chính sách quản lý vĩ mô chung, hoạt động ngân hàng đã tập trung thực hiện tốt chính
sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định và nâng dần giá trị đồng tiền, đẩy mạnh huy động
vốn, tăng cường quản lý ngoại hối và thực hiện chính sách tỉ giá, chính sách lãi suất có
hiệu quả. Vấn đề cho vay của ngân hàng thương mại đã đóng góp những thành tựu quan
trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp ,các gia đình, các cá nhân có vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng mở
rộng các hình thức cho vay để người dân có nhiều cơ hội được vay vốn để mở rộng sản
xuất. Đồng thời ngân hàng tìm được nhiều khách hàng để cho vay, tạo cơ hội tăng doanh
thu cho ngân hàng.Ví dụ như việc cho vay tiêu dùng thông qua người đại diện vừa đạt
được hiệu quả kinh tế, vừa đạt được hiệu quả xã hội. Người vay không phải đến ngân
hàng, không mất thời gian cho thủ tục vay và trả nợ, đảm bảo được giờ giấc làm việc.Thủ
trưởng đơn vị có điều kiện quản lí chặt chẽ việc vay nợ của công nhân viên chức.Đầu tư
vào nông nghiệp và phát triển nông thôn, cho các hộ gia đình vay để phát triển kinh tế
trang trại,đàu tư vào các công trình lớn.
III.5.2.Hạn chế.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay của các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam cũng còn có những hạn chế, thiếu sót càn tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
Hành lang pháp lí cho việc cho vay theo cơ chế thị trường mới tuy đã có nhiều tiến
bộ nhưng vẫn còn chưa hoàn toàn đồng bộ và hoàn chỉnh. Ngày nay nhiều văn bản đã tạo
điều kiện cho ngan hàng đi vào cuộc sống và bước đầu phát huy hiệu lực,hiệu quả. Tuy
nhiên, một số văn bản vẫn còn trong quá trình soạn thảo, chậm được ban hành theo tiến độ
đã đề ra, một số khác mới được ban hành nhưng sau một thời gian cọ sát với thực tiễn đã
bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cần được bổ xung, sửa đổi tiếp.Do vậy,có thể nói hệ thóng
văn bản chưa hoàn toàn đồng bộ và hoàn chỉnh.
Thị trường tiền tệ-tín dụng còn non yếu, kém phát triển, một số điều kiện cần thiết
để phát huy đầy đủ vai trò tích cực của cơ chế thị trường chưa được đảm bảo đầy đủ. Tuy
đã được hình thành và có một quá trình phát triển, nhưng so với các nước trong khu vực,
các thị trường tiền tệ-tín dụng ở Việt Nam còn có nhiều hạn chế như: Các thị trường chưa
có sự liên kết chặt chẽ và phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau ở mức độ cần thiết. Khối lượng hàng
hoá và giao dịch trên một số thị trường mới như thị trường mở, thị trường chứng khoán
còn nhỏ, các chỉ sốvà thông tin về hoạt động thị ở chừng mực nào đó còn bị chia cắt, thiếu
kịp thời, hoạt động của một số thị trường như thị trường chứng khoán còn phải chụi sự
quản lý trực tiếp của nhà nước.
Hiệu lực và hiệu quả của cơ chế mới chưa được phát huy đầy đủ. Cơ chế mới đến
nay thực chất vẫn đang trong quá trình hình thành và hoàn thiện, chưa hoàn toàn loại bỏ
được các tàn dư của cơ chế cũ. Nhất là các thói quen, cách làm cũ đã ăn sâu vào tiềm thức
của nhiều cán bộ không thể loại bỏ ngay. Do vậy, các công cụ cũ, phương thức hoạt động
cũ đôi khi vẫn còn được ưa dùng. Một số tổ chức tín dụng và một số doanh nghiệp chưa
thích ứng kịp với cơ chế mới, chưa sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh thường có xu hướng
quay về tìm kiếm sự bảo hộ của nhà nước.
CHƯƠNG IV : GIảI PHáP CHO VAY AN TOàN Và HIệU QUả CủA CáC NGÂN
HàNG THƯƠNG MạI
IV.1 Giải pháp về rủi ro cho vay.
Việc cho vay của các ngân hàng thương mại thường xuyên hiện rủi ro và các ngân
hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến tính
chân thật và khả nâng của người đi vay trong việc hoàn trả nợ. Tuy nhiên, sự phân tích tín
dụng không đạt đến mức có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản cho vay có
được hoàn trả như đã thảo thuận hay không. Rủi ro có nguyên nhân khách quan, nguyên
nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng là loại rủi ro nào đều có
khả năng phòng ngừa với các phương phgáp có thể khác nhau. Nghiệp vụ cho vay là
nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh
doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc, cũng như với mức độ tạo lợi nhuận. Tỉ lệ
thuận với nó là mức độ rủi ro trong nghiệp vụ này chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài rủi ro như các nghành kinh tế khác ngân
hàng còn bị rủi ro ngay cả khi đơn vị kinh tế này vay vốn ngân hàng gặp rủi ro dẫn đến
làm ăn thua lỗ và không có khả nâng trả nợ vốn vay ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã gặp
rủi ro khi khách hàng của mình gặp rủi ro. Rõ ràng khả năng gặp rủi ro của ngân hàng đã
được nhân lên gấp đôi. Khi đàu tư tín dụng có nghĩa là ngân hàng đã trao quyền sử dụng
sản phẩm của mình là tiền cho khách hàng. Mà khả năng kiểm soát quá trình sử dụng sản
phẩm của ngân hàng là rất khó khăn bởi tính phức tạp của việc sử dụng tiền vay. Lúc này
hoạt động của ngân hàng với sản phẩm của mình như: ”Đem con bỏ chợ” sự kiểm soát của
ngân hàng chỉ có giới hạn nên yếu tố rủi ro luôn thường trực đối vơí nghiệp vụ này. Tiền là
sản phẩm của ngân hàng, khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng nó lại là mục đích của người
vay vốn. Một số doanh nghiệp làm ăn không đúng đắn khi vay được vốn đã thực hiện mục
tiêu của mình, họ không những sử dụng quyền sử dụng đồng tiền của ngân hàng mà còn
muốn chiếm đoạt luôn quyền sở hữu chúng. Với loại doanh nghiệp này rủi ro phát sinh
ngay từ khi ngân hàng bắt đầu thực hiện nghiệp vụ tín dụng phát tiền vay đối với họ.
Rủi ro cho vay thường dẫn đến những khoản cho vay khó đòi, khả năng trả nợ của
các doanh nghiệp đối với ngân hàng rất thấp.
- Xem thêm -