Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả từ thực tiễn hoạt động của lực lượng q...

Tài liệu Quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả từ thực tiễn hoạt động của lực lượng quản lý thị trường tỉnh gia lai

.PDF
88
275
92

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH VĂN HÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH GIA LAI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH VĂN HÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH GIA LAI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀM THANH THẾ HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đàm Thanh Thế, Chánh Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (BCĐ389QG). Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Hà Nội, ngày tháng HỌC VIÊN Đinh Văn Hà năm 2019 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...............................................................5 7. Bố cục của luận văn ................................................................................................6 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ ..............................................................7 1.1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về hàng giả ........................................................7 1.2. Công tác quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả ......................................19 1.3. Kinh nghiệm một số tỉnh về phòng chống sản xuất, buôn bán hàng giả ...........26 Kết luận Chương 1 ....................................................................................................30 Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH GIA LAI .......................................................................................31 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .............................................................................31 2.2. Thực trạng chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014-2018 .........................................................................................................45 2.3. Đánh giá công tác phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT Gia Lai..............................................................................................................................60 Kết luận Chương 2 ....................................................................................................66 Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ TẠI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH GIA LAI .........................................................................................................68 3.1. Dự báo sản xuất, buôn bán hàng giả trong những năm tới ................................68 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về phòng chống hàng giả tại Cục Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai ..............................................................70 Kết luận Chương 3 ....................................................................................................76 KẾT LUẬN ...............................................................................................................78 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................80 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN: ATTP: BCĐ: BCĐ389: ĐP: LĐ: NĐ-CP: QG: QLTT: SHTT: UBND: VPHC: WTO: Association of South East Asian Nations - Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á An toàn thực phẩm Ban Chỉ đạo Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả Địa phương Lao động Nghị định – Chính phủ Quốc gia Quản lý thị trường Sở hữu trí tuệ Uỷ ban nhân dân Vi phạm hành chính World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng/biểu Bảng 2.1 Bảng 2.2 Bảng 2.3 Bảng 2.4 Bảng 2.5 Biểu đồ 2.6 Biểu đồ 2.7 Bảng 2.8 Tên bảng Trang Cơ cấu nguồn nhân lực theo giới tính, trình độ, độ tuổi Phân phối nguồn nhân lực Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chống hàng giả cho công chức QLTT Gia Lai giai đoạn 2014-2018 Kết quả xử lý vi phạm hành chính về hàng giả (2014-2018) Tỷ lệ xử lý và số tiền nộp ngân sách nhà nước về hàng giả (2014-2018) Tỷ lệ % vụ xử lý về hàng giả các đơn vị (giai đoạn 20142018) Tỷ lệ % số tiền xử phạt VPHC về hàng giả của các đơn vị (giai đoạn 2014-2018) Hàng giả tịch thu giai đoạn 2014-2018 42 44 48 52 53 53 54 55 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của cách mạnh công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại nhiều nước phát triển. Nó mang đến cho nhân loại cơ hội để thay đổi bộ mặt các nền kinh tế, các quốc gia có nhiều cơ hội thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi giao thương hàng hóa ở mỗi quốc gia để phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khôn lường, sự tồn tại mặt trái của nền kinh tế thị trường, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả cũng có “đất sống”. Nhất là từ khi nước ta đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ quản lý tập trung bao cấp sang quản lý hạch toán kinh doanh, hệ thống chính sách pháp luật còn lỏng lẻo. Hàng giả đã có mặt hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội với nhiều thủ đoạn, phương thức và quy mô; hàng giả phong phú, đa dạng về chủng loại, mẫu mã đẹp với công nghệ kỹ thuật sản xuất ngày càng hiện đại; sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng phát triển, diễn biến phức tạp, tinh vi và khó kiểm soát. Vấn nạn hàng giả đã trở thành một thực trạng nhức nhối, lây lan nhanh, ngày càng tinh vi, tàn phá kinh tế xã hội, phá hoại cạnh tranh công bằng và gây ảnh hưởng rất xấu đến quyền lợi của các nhà sản xuất. Nó cũng ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Chính vì vậy, công tác phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường, bảo vệ người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Tỉnh Gia Lai với dân số 1,37 triệu, có 34 dân tộc anh em sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 45%, diện tích 15.536,9 Km2, có 90 Km đường 1 biên giới giáp với nước Campuchia, ngoài ra giáp với các tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk, Bình Định, Phú Yên; các tuyến Quốc lộ 14 (nay là đường Hồ Chí Minh), 14C, 19, 19D, 25 và đường Trường Sơn Đông đi qua, có Cảng hàng không Pleiku, Cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh. Mặt dù không phải là địa bàn tập trung các đầu mối lớn về sản xuất, buôn bán hàng giả, vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu nhưng với địa bàn có nhiều tuyến giao thông đia qua nên các đối tượng đầu nậu đã lợi dụng để vận chuyển hàng giả, hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ vào tiêu thụ tại địa bàn tỉnh và trung chuyển đi qua các tỉnh khác. Lực lượng QLTT Gia Lai đã thường xuyên duy trì và đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm trong sản xuất, buôn bán hàng giả, đạt được nhiều kết quả khả quan, góp phần tích cực vào việc làm lành mạnh thị trường. Tuy nhiên, tình hình buôn lậu, buôn bán hàng cấm, gian lận thương mại; nhất là sản xuất, mua bán hàng giả vẫn diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, ảnh hưởng rất lớn tới người tiêu dùng, các danh nghiệp và thị trường hàng hóa. Công chức QLTT còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, nhiều vụ việc xử lý về hàng giả còn lúng túng, văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều chồng chéo, bất cập. Từ thực tế nêu trên, bản thân đang công tác tại Cơ quan QLTT tôi nhận thức được vai trò to lớn của công tác đấu tranh phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả hiện nay. Việc làm rõ bản thân khái niệm hàng giả, phân tích, đánh giá thực trạng phòng, chống hàng giả của lực lượng QLTT, giải pháp nào để phát hiện và xử lý kịp thời các hàng vi vi phạm trong sản xuất kinh doanh hàng giả; nhằm tạo dựng cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, chế tài xử lý phù hợp là một yêu cầu hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đây là lý do tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả từ thực tiễn hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai” để làm luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, vấn đề hàng giả và công tác quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả đã được Ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả 2 Quốc gia (BCĐ389QG) và nhiều Ban chỉ đạo 389 bộ, ngành, địa phương chỉ đạo thực hiện, bản thân đã nghiên cứu và thu thập trong nhiều báo cáo khoa học, các báo, tạp chí như: - Luận án Tiến sĩ Luật học của nghiên cứu sinh Trần Ngọc Việt với đề tài “Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả thực trạng và biện pháp phòng, chống”, năm 2001 tại Viện nguyên cứu Nhà nước và Pháp luật. Luận án đi vào nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm làm hàng giả, buôn bán hàng giả, chính sách hình sự của Nhà nước ta về quy định xử lý các tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả, thực tiến hướng dẫn áp dụng các quy định này. - Một số công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng Luận văn thạc sĩ có thể kể đến như: Đấu tranh phòng chống tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sĩ Luật học của Đỗ Thị Lan, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998); Đánh giá yếu tố xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của hàng giả trong hoạt động của quản lý thị trường (Luận văn thạc sĩ Luật học của Chu Thị Thu Hương, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006); Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả - từ thực tiễn Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Trường Sơn, Học Viện Hành chính Quốc Gia, 2016). - Một số nghiên cứu khoa học dưới dạng bài viết có liên quan đến đề tài của tác giả có thể kể đến như: Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về hàng giả và về đấu tranh phòng, chống sản xuất và buôn bán hàng giả của Trần Ngọc Việt đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 08/2011; Một vài suy nghĩ về khái niệm hàng giả trong bối cảnh cuộc chiến chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam của Nguyễn Thị Quế Anh đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, tập 30, số 1 (2014) 44-53 và một số đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống hàng giả. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác phòng, chống hàng giả, hoặc đề cập đến công tác đấu tranh chống hàng giả của một lực lượng, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện trong công tác quản lý nhà 3 nước về phòng, chống hàng giả của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Gia Lai, cũng như giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hàng giả. Vì vậy đề tài tiếp tục kế thừa từ những giá trị khoa học của các công trình đã được nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả của lực lượng QLTT tỉnh Gia Lai, đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả góp phần ổn định thị trường, thúc đẩy phát triển thương mại của địa phương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sản xuất, buôn bán hàng giả và các yếu tố tác động làm gia tăng hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả và đấu tranh phòng chống sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014-2018; Đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai; giúp cho công chức và người lao động tại Cục làm tốt trách nhiệm của mình trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014-2018. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước trong công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý hành vi vi phạm đối với hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả của Cục QLTT tỉnh Gia Lai. Từ đó đề xuất các biện pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích chung trong xã hội. - Phạm vi thời gian: Các số liệu và thông tin nghiên cứu trong luận văn được tổng hợp trong thời gian 5 năm (2014 - 2018), giải pháp đến năm 2022. - Phạm vi không gian: Tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng làm cơ sở, phương pháp luận cho việc nghiên cứu để giải quyết những vấn đề về lý luận tình hình sản xuất, kinh doanh hàng giả; thực trạng, nguyên nhân của các hành vi vi phạm về sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai, từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa sản xuất, bán bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Gia Lai làm cơ sở thực tiễn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp diễn giải. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ nhiều vấn đề lý luận quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả; hệ thống hóa và làm rõ về hàng giả, nhấn 5 mạnh về tác hại của hàng giả đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, tổn hại đến lợi ích của cộng đồng. Đánh giá và phân tích rõ thực trạng đấu tranh phòng, chống hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp các cơ quan tổ chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật cho nhân dân trong hoạt động sản xuất kinh doanh; góp phần đổi mới tổ chức hoạt động của Cục QLTT; đề ra phương án cụ thể, trước mắt và lâu dài nhằm nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả, tăng cường quản lý nhà nước trong đấu tranh phòng, chống hàng giả trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Đề tài này góp phần xây dựng phương án cho toàn Cục QLTT tỉnh Gia Lai; đồng thời làm cơ sở để vận dụng chỉ đạo cho các Đội trong Cục QLTT về đấu tranh phòng, chống hàng giả trong tình hình mới. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung trong quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả từ thực tiễn hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả tại Cục Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ 1.1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về hàng giả 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về hàng giả Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình phát triển xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Hàng giả là hiện tượng kinh tế xã hội, là một thuật ngữ để phân biệt với hàng thật. Ở Việt Nam theo mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng giả là vấn đề luôn phải được quan tâm, giải quyết do nền kinh tế thị trường với mục tiêu lợi nhuận, mà hàng giả với lợi nhuận lớn tồn tại cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Trước nhu cầu tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT, việc làm rõ bản thân khái niệm hàng giả nhằm tạo dựng cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc áp dụng các biện pháp chế tài xử lý phù hợp là một yêu cầu hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Trong lý luận và thực tiễn hiện tồn tại nhiều quan niệm về hàng giả. Trước hết, tìm hiểu khái niệm về hàng hoá và thế nào là giả: “Hàng hoá là sản phẩm dùng để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi” [34, tr.214], còn “Giả có nghĩa không phải là thật mà được làm với bề ngoài giống như cái thật để người khác tưởng là thật” [35, tr.405]. Theo từ điển Bách khoa toàn thư: “Hàng giả là hàng làm bắt chước theo mẫu mã của loại hàng thật nào đó đang được lưu hành, nhưng không bảo đảm đủ tiêu chuẩn về phẩm chất hoặc không có giá trị sử dụng, hoặc không có giá trị sử dụng đầy đủ, nhất là đối với mặt hàng thông dụng và có nhu cầu lớn. Về hình thức, các loại hàng giả rất giống hàng thật, vì kĩ thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi. Người 7 làm hàng giả cũng có khi sử dụng một phần nguyên liệu, các loại bao bì, tem nhãn của hàng thật để lừa gạt người mua” [36]. Khái niệm này chỉ giải thích về mặt ngôn ngữ, mà chưa phải là khái niệm mang tính pháp lý, thể hiện bản chất của hàng giả. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm hàng giả lần đầu tiên được sử dụng kể từ khi đất nước được thống nhất là trong Pháp lệnh Trừng trị tội đầu lậu cơ, buôn, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 [18]. Điều 5 của Pháp lệnh này quy định về Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả, với hình phạt có thể lên đến tù chung thân. Tuy nhiên, đến thời điểm ban hành văn bản này, khái niệm hàng giả vẫn chưa được làm rõ. Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất ban hành năm 1985 quy định Tội làm hàng giả, Tội buôn bán hàng giả tại Điều 176, thuộc nhóm Tội kinh tế. Mặc dù có quy định chi tiết hơn, có chế tài nghiêm khắc hơn Điều 5 của Pháp lệnh năm 1982, Điều 176 của Bộ luật hình sự năm 1985 không đưa ra định nghĩa về hàng giả. Văn bản pháp luật đầu tiên định nghĩa về hàng giả là Nghị định 140/HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về việc kiểm tra, xử lý hoạt động sản xuất buôn bán hàng giả. Điều 3, Nghị định quy định: “Hàng giả theo Nghị định này, là những sản phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó”. Sau một thời gian dài chuẩn bị, đến ngày 15/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng [9] đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ [10]. Khái niệm về hàng giả được quy định chi tiết tại khoản 8 Điều 3. Cụ thể gồm: 8 a) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký; b) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; c) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; d) Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; đ) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác; e) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa; g) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; h) Tem, nhãn, bao bì giả gồm: đề can, nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa, các loại tem chất lượng, phiếu bảo hành, niêm màng co hàng hóa hoặc vật phẩm khác của cá nhân, tổ chức kinh doanh có chỉ dẫn giả mạo tên và địa chỉ của thương nhân 9 khác; giả mạo tên thương mại, tên thương phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc bao bì hàng hóa của thương nhân khác. Như vậy, tùy trong từng thời kỳ, từng bối cảnh của nền kinh tế, để phù hợp với nhu cầu đầu tranh chống hàng giả trong từng lĩnh vực mà khái niệm hàng giả có thể được hiểu theo nghĩa khác nhau. Hơn nữa, qua các giai đoạn, khái niệm hàng giả trong pháp luật Việt Nam cũng đã có sự phát triển, hoàn thiện đáng kể. Từ sự nghiên cứu tổng hợp dưới góc độ pháp lý và khoa học hàng hóa, có thể đưa ra khái niệm: Quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả là hoạt động thực thi pháp luật của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và hoạt động thương mại thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa, quyền SHTT, sở hữu công nghiệp, về đăng ký kinh doanh, xử lý các hành vi vi phạm trong sản xuất kinh doanh hàng hóa… được tổ chức thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đối với hàng hóa, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả. Pháp luật quy định về trình tự, thủ tục, kinh phí cho công tác điều tra, xác minh, giám định, xử lý các vụ việc về hàng giả. 1.1.2. Hàng giả trong Luật Sở hữu trí tuệ Luật SHTT ngày 29/11/2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) có điều 4 và điều 213 quy định về quyền SHTT và hàng hóa xâm phạm quyền SHTT. Trong đó Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Trong các loại hình hàng giả, hàng hóa giả mạo về SHTT chiếm một phần tương đối lớn và phổ biến. Khái niệm về chúng được quy định tại Điều 213 Luật SHTT năm 2005 như sau: 10 - Hàng hoá giả mạo về SHTT theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này. - Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý. - Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan. Với quy định này, Luật SHTT cũng đã xác định rõ các hành vi sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu về SHTT theo quy định tại Điều 213 thì bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. 1.1.3. Bản chất và đặc điểm về sản xuất, buôn bán hàng giả 1.1.3.1. Bản chất của việc sản xuất, buôn bán hàng giả Bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật chất và tinh thần của người khác, lừa dối người tiêu dùng để thu lợi bất chính, điều này được thể hiện rất rõ đối với mọi loại hàng giả. Với mục tiêu đặt lợi nhuận trên hết, bất chấp mọi quy định của pháp luật. Để đạt được mục tiêu của mình, các đối tượng sản xuất và buôn bán hàng giả dùng rất nhiều thủ đoạn tinh vi để lừa dối, che mắt người tiêu dùng để thu lợi bất chính, chủ yếu dựa vào sự thiếu hiểu biết của khách hàng để lừa dối; thu hút khách hàng qua chi tiết giống hàng thật; chúng thường tập trung vào sản xuất, buôn bán một số mặt hàng có thương hiệu, sản phẩm nỗi tiếng được thị trường tín nhiệm và người tiêu dùng ưa chuộng, nhằm dễ tiêu thụ sản phẩm của mình với khối lượng lớn, bán hàng nhanh và thu lợi nhuận cao, tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất bỏ ra cho sản phẩm, 11 hàng hóa. Thậm chí siêu lợi nhuận thông qua việc sử dụng nguyên liệu cấp thấp, công nghệ sản xuất thủ công, trốn tránh trách nhiệm nộp thuế. Đã là hàng giả thì bao giờ chất lượng cũng kém hơn so với hàng thật, thậm chí có những loại hàng giả có độc tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng của người tiêu dùng. Bên cạnh đó có loại hàng giả sử dụng nhãn mác bao bì của hàng thật, loại hàng giả này rất nguy hiểm với người tiêu dùng vì khi sử dụng rồi mới biết là hàng thật hay giả. Tuy nhiên, trong việc sản xuất, buôn bán hàng giả cũng phải kể đến sự thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, kỹ năng nhận biết của khách hàng đối với sản phẩm và còn có cả sự chấp nhận của người tiêu dùng. Do đó, số tiền mà người tiêu dùng bỏ ra không đúng với giá trị vật chất và tinh thần thụ hưởng, ảnh hưởng đến sức khỏe, thuần phong tập quán, môi trường sống của con người và xã hội. 1.1.3.2. Đặc điểm về sản xuất, buôn bán hàng giả Cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường và sự phát triển mạnh mẽ của cách mạnh công nghiệp 4.0, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại làm cho hàng giả cũng ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã với công nghệ sản xuất ngày càng tinh vi, hiện đại. Từ những sản phẩm hàng hóa tiêu dùng thông thường đến những hàng hóa công nghệ cao rất khó phân biệt với hàng thật. Tuy nhiên, ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào thì hàng giả vẫn có một số đặc điểm chủ yếu, đó là: thường có chất lượng thấp, hình thức gần giống, tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hàng thật, không đảm bảo các chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc điểm của sản xuất, buôn bán hàng giả phụ thuộc rất nhiều vào loại hàng hóa bị làm giả bởi đối với mỗi loại hàng hóa khác nhau thì phương thức sản xuất, buôn bán hàng giả khác nhau, được thể hiện cụ thể qua các đặc điểm như sau: Hoạt động trái với quy định của pháp luật; thường được thực hiện lén lút, không công khai, lẩn tránh sự quan sát của cơ quan chức năng; thường hoạt động trong điều kiện thiếu thốn về không gian, không đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn, kỹ thuật, môi trường; sử dụng công nghệ sản xuất thô sơ, rẻ tiền, nguyên vật liệu không 12 đảm bảo yêu cầu chất lượng, kỹ thuật; tập trung nhiều ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi vì lợi dụng ở những nơi này trình độ dân trí thấp, kém hiểu biết, lại có tâm lý thích hàng ngoại, giá rẻ; hơn nữa ở đây sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng thường chưa thường xuyên, chặt chẽ. 1.1.4. Đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả Tham gia vào hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả có đủ loại đối tượng thuộc tất cả các thành phần kinh tế, nhưng phần đông và phổ biến hơn cả là các doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể. Hầu hết những người sản xuất hàng giả đều tìm hiểu các đặc điểm loại hàng hóa mình sản xuất và thị trường sẽ tiêu thụ. Họ tự làm hoặc thuê người khác làm, thường tập trung vào các đối tượng như: Những người nghèo, thu nhập thấp, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, hoặc biết vi phạm pháp luật nhưng vì cuộc sống mưu sinh; những người am hiểu luật pháp, có trình độ về chuyên môn nhưng vẫn làm hàng giả; những người chủ cơ sở đăng ký sản xuất một mặt hàng nhưng lại làm giả mặt hàng đã có uy tín. Những đối tượng này có thể là: - Doanh nghiệp trong nước: sản xuất giả mạo nhãn hoặc nhãn hiệu, xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hàng thật hoặc nhãn hiệu đã được bảo hộ tại Việt Nam; thậm chí đã có trường hợp xuất khẩu hàng vi phạm nhãn hiệu ra nước ngoài, sản xuất giả hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam có chất lượng tốt và tìm cách nhập khẩu vào Việt Nam để tiêu thụ. - Các doanh nghiệp tại nước ngoài sản xuất hàng giả đưa vào Việt Nam tiêu thụ: Chủ yếu là hàng cao cấp, có giá trị lớn như đồng hồ đeo tay, mỹ phẩm cao cấp, thực phẩm, quần áo, thiết bị vệ sinh..., giả mạo nhãn hiệu hàng hóa của các hãng nước ngoài có thương hiệu nổi tiếng như đồng hồ, máy tính Casio, Dove, Clear, A_One, Adidas, Nike, Levi’s, Blue Exchange,... Tình trạng này đang xảy ra khá phổ biến, loại hàng giả này đã và đang được bán công khai trên thị trường nước ta mà phần lớn là nhập lậu từ nước láng giềng Trung Quốc. - Hộ kinh doanh cá thể sản xuất, tiêu thụ hàng giả: đối tượng này sản xuất 13 chủ yếu dựa những mặt hàng tiêu dùng thông thường cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng: xà phòng, dầu gội đầu, muối Iốt, bột ngọt, bánh kẹo... - Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng sản xuất và tiêu thụ hàng giả. Việc sản xuất hàng giả của loại đối tượng này thường ở dạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, sử dụng nhãn hiệu của người khác mà không có sự đồng ý của chủ thể quyền. Những sản phẩn hàng hóa giả, xâm phạm quyền SHTT này đi vào thị trường Việt Nam bằng các con đường như: Nhập lậu; nhập tiểu ngạch; thậm chí có cả nhập chính ngạch những hàng hóa có yếu tố vi phạm sở hữu công nghiệp. Nhiều tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán hàng giả gần như mang tính chuyên nghiệp. Họ tổ chức hoạt động thành những kênh, những đường dây khép kín, khá chặt chẽ trong việc sản xuất - giao nhận - vận chuyển - buôn bán - tiêu thụ hàng giả, trong đó có những quan hệ móc nối với các đối tượng người nước ngoài để sản xuất hàng giả và đưa vào tiêu thụ ở Việt Nam hoặc thậm chí sản xuất trong nước rồi đưa qua biên giới gắn nhãn sản xuất tại nước ngoài, sau đó tìm cách nhập trở lại Việt Nam để đánh lừa người tiêu dùng. Từ các đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả nêu trên, chúng ta có thể chia hàng giả thành các nhóm chính sau: Hàng nội giả hàng ngoại; hàng nội giả hàng nội; hàng ngoại giả hàng ngoại và hàng ngoại giả hàng nội. 1.1.5. Phương thức sản xuất, buôn bán hàng giả 1.1.5.1. Phương thức sản xuất Hoạt động sản xuất hàng giả được tiến hành lén lút là chủ yếu, có loại quy trình đơn giản nhưng cũng có quy trình phức tạp. Hàng giả do nước ngoài hoặc trong nước sản xuất đều có nhiều dạng khác nhau là: - Sản xuất những loại hàng hóa đang khan hiếm, thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn, lãi suất cao. - Sản xuất hàng hóa mang tên thương mại, địa chỉ sản xuất, nhãn hiệu hoặc một trong các yếu tố trên cơ sở các thương hiệu nổi tiếng hoặc có chất lượng tốt 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan