ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
ĐINH HỮU CÔNG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TỈNH HÀ TĨNH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lƣu Minh Văn
Hà Nội – 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu
của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Đinh Hữu Công
i
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………..............................................
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………
2. Tình hình nghiên cứu đề tài…………………………………………………..
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………….
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………………………………
6. Đóng góp của luận văn…………………………………………………………..
7. Kết cấu của luận văn………………………………………………………….
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI……………………………..
1.1. Phát triển bền vững………………………………………………………..
1.1.1. Phát triển bền vững – khái lược về lịch sử và vấn đề đặt ra.......................
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình triển khai Kế hoạch
thực hiện phát triển bền vững ở nước ta
1.2. Quản lý nhà nƣớc về phát triển bền vững...................................................
1.2.1. Yêu cầu khách quan của việc thực hiện quản lý nhà nước về PTBV......................
1.2.2. Nội dung của quản lý nhà nước về PTBV....................................................
1.2.3. Quản lý nhà nước về PTBV ở Việt Nam..........................................................
1.2.3.1. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và tổ chức thực hiện pháp luật đảm
bảo sự PTBV
1.2.3.2. Hoàn chỉnh hệ thống chính sách xã hội nhằm phát triển bền vững……..
1.2.4. Xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả về PTBV.............................................
1.3. Quản lý PTBV ở một số nƣớc và kinh nghiệm đối với Việt Nam..............
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển..............................................
1.3.2. Bài học đối với Việt Nam trong chiến lược PTBV....................................................
Chƣơng 2: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
TỈNH HÀ TĨNH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Đặc điểm và vấn đề đặt ra đối với PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh...........................
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh.............................
2.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh...................................
2.2.1.1. Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật……………………………….
2.2.1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật……………………………………………...
2.2.1.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại tố cáo
2.2.2. Những kết quả đạt được trong QLNN về PTBV...........................................................
2.2.3. Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân..............................................................
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh
2.3.1. Sự lãnh đạo của Đảng và định hướng PTBV ở Hà Tĩnh...............................
2.3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về PTBV ở Hà Tĩnh
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….
1
3
3
4
8
8
8
9
9
10
10
10
13
16
16
18
26
27
36
41
46
46
50
55
55
56
56
57
64
67
70
80
86
86
88
102
104
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Phát triển bền vững
PTBV
2. Quản lý nhà nước
QLNN
3. Xã hội chủ nghĩa
XHCN
4. Ủy ban nhân dân
UBND
5. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CNH-HĐH
6. Nông thôn mới
NTM
7. Khu công nghiệp
KCN
8. Khu kinh tế
KKT
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã có một thời gian dài tư duy về phát triển trên phạm vi toàn cầu bị chi
phối bởi khuynh hướng duy kinh tế, theo đó sẵn sàng hy sinh các mặt khác của
sự phát triển (xã hội, môi trường…) cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thực
tiễn của hầu hết các nước trên thế giới từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay
cho thấy, bên cạnh những bước tiến bộ vượt bậc về kinh tế thì những hệ quả
xấu, ngoài dự tính của chính quá trình phát triển duy kinh tế ấy đã ngày càng
lộ rõ và trở thành yếu tố đe dọa chính sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội và
cả nhân loại.
Ở Việt Nam, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1976,
Đảng ta đã đặt mục tiêu: tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. Suốt từ đó đến nay, quan điểm phát triển nhanh và bền vững của Đảng và
Nhà nước ta được bổ sung với các nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở
thành chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đối với tiến trình
phát triển đất nước. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định
“phát triển nhanh, hiệu quả, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [17, tr.162], Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X và XI tiếp tục nhấn mạnh và nâng cao hơn nữa mục tiêu đó ở mức độ
chi tiết và hoàn thiện hơn.
Hà Tĩnh, từ sau khi tái lập tỉnh (1991) đã chú trọng phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bên cạnh việc tiếp tục truyền thống về sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp. Đến nay đang có nhiều dự án lớn trọng điểm của quốc
gia đầu tư trên địa bàn tỉnh, như: dự án Formusa, Khu kinh tế Vũng Áng; Khu
kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo; Sắt Thạch Khê (ước tính trữ lượng 544
triệu tấn); công trình thủy điện Ngàn Trươi …
3
Tuy nhiên, Hà Tĩnh là tỉnh có cơ sở kinh tế thấp hơn so với nhiều
vùng, miền trong cả nước; tình trạng quy hoạch, sử dụng tài nguyên chưa
hợp lý, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội… còn xẩy ra nhiều nơi, đe dọa đến
những thành tựu mà tỉnh đã, đang nỗ lực đạt được. Vấn đề đặt ra là cần phải
tăng cường quản lý nhà nước để vừa đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và
ổn định, vừa đảm bảo được sự tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời bảo vệ
môi trường trong sạch, sử dụng tiết kiệm, hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Đây
thực sự là vấn đề khó khăn, cần phải được giải quyết cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn trong việc bảo
đảm PTBV của tỉnh, tôi đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phát triển bền
vững ở tỉnh Hà Tĩnh” làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển bền vững là xu hướng tất yếu, khách quan của thời đại, đồng
thời cũng là một trong những chủ đề được đề cập đến nhiều nhất trên các diễn
đàn quốc gia và quốc tế từ vài thập niên gần đây. Quan tâm đến vấn đề này
không chỉ có các nhà kinh tế, các chính khách, các nhà lãnh đạo, quản lý, mà có
cả các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có khoa học
chính trị.
Trong những năm qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học và
các chuyên đề, bài viết của các nhà khoa học, nhà quản lý được phát hành, đăng
tải liên quan đến PTBV, góp phần đáng kể cho việc hoàn thiện hệ thống quan
điểm lý luận về PTBV ở nước ta.
- PGS.TS Ngô Ngọc Thắng, Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực I,
trong bài “Chính trị và phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hóa” đã phân
tích: Thay vì chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế và môi trường tự nhiên, giờ
đây người ta đã chú ý nhiều hơn đến sự phát triển đồng bộ, hài hòa của tất cả các
lĩnh vực, các yếu tố, các bộ phận cấu thành đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính
4
trị, văn hóa, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc
thượng tầng. Vấn đề đặt ra đối với khoa học chính trị là, từ góc độ tiếp cận của
mình cần làm rõ nội dung PTBV trong từng lĩnh vực cụ thể, vai trò của chủ thể
chính trị trong việc đưa ra những mô hình, phương thức, cơ chế, chính sách, giải
pháp PTBV. Trong đó, những lĩnh vực được coi là trụ cột của sự phát triển hiện
nay là kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội công dân đều chịu sự
tác động của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và các thể chế chính trị, các
quan hệ chính trị. Ngoài ra, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công
dân, mỗi lĩnh vực đều có phương thức hoạt động, quy luật phát triển riêng, đồng
thời có quan hệ biện chứng với nhau, đều vận hành trong một môi trường chính
trị, văn hóa, kinh tế, pháp luật… nhất định, đòi hỏi phải có cách tiếp cận cụ thể.
Khoa học chính trị có vai trò quan trọng không thể thay thế trong việc nghiên
cứu, làm sáng tỏ những vấn đề trên, giúp cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch
định chiến lược phát triển chung của đất nước.
- Trung tâm Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
đã dịch và giới thiệu ấn phẩm “Cứu lấy trái đất chiến lược cho cuộc sống bền
vững”, Nxb. Khoa học và Kỷ thuật, Hà Nội 1993; năm 1995 Trung tâm này tiếp
tục có công trình nghiên cứu “Tiến tới môi trường bền vững”.
- Viện Môi trường và phát triển bền vững, Hội liên hiệp các hội Khoa học
kỹ thuật Việt Nam thực hiện Công trình “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển
bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam – giai đoạn I”, công trình đã được hoàn thiện
năm 2003. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundlantd và kinh
nghiệm các nước, đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là
bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời, nhóm tác
giả cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
- Lưu Đức Hải (2000): “Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững”,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
5
- PGS.TS Hà Huy Thành (chủ biên), Viện Nghiên cứu Môi trường và phát
triển bền vững là cơ quan chủ trì thực hiện đề tài cấp Bộ “Phát triển bền vững từ
quan niệm đến hành động”. Đề tài đã nghiên cứu những nội dung cơ bản, quá
trình hình thành và phát triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động,
chỉ tiêu PTBV của Liên Hợp Quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới, trên cơ
sở đó rút ra những bài học về PTBV phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- GS.TSKH Ngô Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi (2007), biên soạn
cuốn “Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển
vọng”, đã nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế, xã hội và môi
trường Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, phân tích những yếu tố hay những điều
kiện để có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan thực hiện PTBV.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế (2010): “Chính trị và Phát triển bền
vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, do Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với Văn phòng Viện
Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức. Cuốn Kỷ yếu này bao gồm nhiều bài viết
phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với PTBV, trong đó có những nghiên
cứu về vai trò nhà nước đối với PTBV như bài: “Vai trò của nhà nước và các
đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững” của GS.TS Thomas Meyer;
bài: “Vai trò của nhà nước với việc phát triển bền vững ở nước ta hiện nay” của
PGS.TS Trần Thành….
- Luận văn Thạc sỹ Chính trị học của Nguyễn Thị Thanh Huyền (2011):
“Vai trò của Nhà nước đối với phát triển bền vững ở Việt Nam”
- Luận án Tiến sỹ Chính trị học (2011): “Vai trò của nhà nước đối với việc
thực hiện công bằng xã hội” của Võ Thị Hoa. Trong luận án này, vai trò nhà
nước được đề cập dưới góc độ đảm bảo công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế và
xã hội thông qua các chính sách và pháp luật. Dưới góc độ PTBV thì công bằng
xã hội chính là điều kiện để đảm bảo sự kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội. Do đó, ở mức độ nhất định, các chính sách nhằm thực
hiện công bằng xã hội cũng nhằm đem lại sự PTBV đất nước.
6
- Luận án Tiến sỹ (2010): “Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền
vững ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Võ Hải Long, nghiên cứu vấn đề
PTBV dưới góc độ luật pháp, một công cụ quản lý của nhà nước. Trong luận án,
tác giả đã phân tích, đánh giá vai trò của pháp luật về PTBV kinh tế, xã hội và
môi trường, đồng thời nêu lên những giải pháp để phát huy vai trò của pháp luật
nói riêng và vai trò của nhà nước nói chung đối với PTBV đất nước.
- Phạm Thị Ngọc Trầm (2006): “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và
môi trường vì sự phát triển bền vững”, đã phân tích vai trò của nhà nước trong
bảo vệ tài nguyên môi trường, đồng thời tổng quan những luật pháp và chính sách về
tài nguyên môi trường, đánh giá ưu điểm và hạn chế của các chính sách đó đối với
PTBV từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Có thể thấy rằng các công trình khoa học, các tác phẩm, bài viết nêu trên
đã nghiên cứu vấn đề PTBV ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau: về quan niệm,
tư duy và sự hình thành mô hình, lựa chọn bộ tiêu chí PTBV; về vai trò của pháp
luật, của nhà nước đối với sự PTBV ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay...
nhưng chưa có nhiều đề tài đi sâu nghiên cứu tình hình thực tiễn vấn đề phát triển
bền vững ở địa phương trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Điều này cũng được PGS.TS. Nguyễn Danh Sơn (2008) trong
bài “Phát triển bền vững: một cái nhìn từ góc độ nghiên cứu khoa học ở nước
ta” đánh giá: “ở nước ta cho đến nay số người, số tổ chức nghiên cứu khoa học,
số công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển bền vững còn chưa nhiều so
với các lĩnh vực Khoa học phát triển khác” .
Dưới góc độ khoa học Chính trị, việc nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà
nước đối với PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh đến thời điểm này chưa có công trình, đề tài
nào. Vì vậy, dựa trên cơ sở kết quả các công trình khoa học, các tác phẩm, các bài
viết trước đây, tác giả có sự tổng hợp, kế thừa để nghiên cứu về một số vấn đề
PTBV ở Việt Nam, thực tiễn quản lý nhà nước về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó, đưa ra
những nhận định, đánh giá và đề xuất một số giải pháp về lĩnh vực này.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về PTBV và quản
lý nhà nước về PTBV, luận văn phân tích, đánh giá tình hình, thực trạng QLNN
về PTBV của địa phương Hà Tĩnh, góp phần luận giải mối quan hệ biện chứng
giữa tăng trưởng kinh tế với sự cần thiết của việc giải quyết các vấn đề xã hội và
bảo vệ tài nguyên môi trường; đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị về quản lý
nhà nước đối với PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và các địa phương, khu vực có
đặc điểm tương đồng với Hà Tĩnh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát một số vấn đề lý luận, nhận thức PTBV, quản lý nhà nước về
PTBV trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH.
- Liên hệ thực tế vấn đề triển khai thực hiện chủ trương, chính sách PTBV
và thực trạng QLNN về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn hướng vào nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước về PTBV ở tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay cả trên 3 lĩnh vực: bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Các số liệu cơ bản để làm cơ sở nghiên cứu, phân tích
được giới hạn trong khoảng thời gian từ 2005 đến nay.
+ Về không gian: Vấn đề QLNN về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển và vai trò của nhân tố nhà nước đối với phát triển xã hội.
8
- Đường lối phát triển đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn
đề PTBV, vai trò của nhân tố nhà nước đối với PTBV.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp như: hệ
thống, logic - lịch sử, phân tích dữ liệu từ các nguồn văn bản pháp luật liên quan,
tổng hợp thống kê, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với phân tích thực trạng quản lý
nhà nước về PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh; phương pháp so sánh; phương pháp thực
địa...
6. Đóng góp của luận văn
- Luận giải, bổ sung và nâng cao nhận thức về PTBV nhằm phục vụ cho
việc đề ra chủ trương, hoạch định và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về
PTBV ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh Hà Tĩnh, đẩy
mạnh CNH-HĐH, đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định; nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo và phần kết luận, Luận văn gồm 2 chương và 6 tiết.
9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Phát triển bền vững
1.1.1. Phát triển bền vững – khái lược về lịch sử và vấn đề đặt ra
Mặc dù khái niệm phát triển nói chung và phát triển xã hội nói riêng đã
được đề cập, nghiên cứu từ khá sớm (thời kỳ cổ đại ở phương Đông và phương
Tây), nhưng cho đến nay nó vẫn là chủ đề có nhiều tranh luận cả trên bình diện
lý thuyết chung và những vấn đề cụ thể. Sự hiện diện đa dạng của những quan
niệm khác nhau về phát triển xã hội là một thực tế cần chấp nhận khi nghiên
cứu chủ đề này.
Trước hết cần chú ý rằng khái niệm phát triển không chỉ được dùng với
các hiện tượng xã hội, mà với cả các hiện tượng thuộc thế giới tự nhiên và tinh
thần. Nhận định này chúng ta đã rất quen với những ai đã tiếp cận học thuyết
về phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Việc thừa nhận tính phổ quát của
sự phát triển như được khẳng định trên chỉ có nghĩa khi chúng ta: thứ nhất,
thừa nhận sự ràng buộc, quy định, tương tác trong hệ thống thống nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên sự thống nhất này không thể được hiểu
chúng là những yếu tố đồng đẳng, mà chính là ở biểu hiện của tính nhân quả
của những tương tác giữa chúng; thứ hai, nếu khái niệm quy luật chính là cái
chúng ta dùng để biểu đạt trạng thái, tính chất của những mối liên hệ đã nói
trên, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại, chi phối của những quy luật chung đối
với toàn bộ thế giới tự nhiên, xã hội, tinh thần như đã nói ở trên. Điều này trên
thực tế đã được chứng minh một cách kinh nghiệm và bằng sự phát triển của
khoa học và công nghệ; thứ ba, thế giới chúng ta vừa nói trên thống nhất,
nhưng không đồng nhất vì vậy cái thực sự có ý nghĩa và khó khăn trong
nghiên cứu sự phát triển chính là phải tìm và thấy được cái riêng, cái đặc thù ở
mỗi đối tượng. Đây là công việc khó khăn và do vậy nó cũng là chỗ tạo nhiều
khác biệt nhất trong các quan niệm khác nhau về phát triển; thứ tư, nghiên cứu
10
sự phát triển buộc chúng ta không được dừng lại chỉ ở bình diện phương pháp
luận, nhận thức luận chung là cái mà khoa học triết học dường như mặc nhiên
được coi là “độc quyền”, mà theo chúng tôi, chúng ta cần cụ thể hóa, mô hình
hóa và tiêu chuẩn hóa, có như vậy mới có thể mô tả và ứng dụng được trong
thực tế. Các lý thuyết PTBV về cơ bản đi theo hướng tiếp cận này.
Khái niệm “phát triển bền vững” đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa
học cũng như các nhà chính trị từ những năm đầu của thập niên 70 (Hội thảo
của UN về chủ đề: “con người môi trường” ở Stockholm, năm 1972). Ban đầu,
đó chỉ là mối quan tâm đối với bền vững về môi trường. Tuy nhiên, về sau các
nhà khoa học đã nhận ra rằng, để đạt được sự bền vững môi trường, không thể
không chú ý đến việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội cùng
nhiều vấn đề khác liên quan, từ đó khái niệm đã dần dần được mở rộng.
Khái niệm phát triển bền vững được nêu trong Báo cáo “Tương lai của
chúng ta” (năm 1987) của Hội đồng Thế giới về Môi trường và phát triển
(WCED) của Liên họp quốc vẫn thường được sử dụng rộng rãi và được trích
dẫn nhiều nhất cho đến nay: Phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng được
những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ mai sau [17, tr.251]. Khái niệm này còn được gọi là khái niệm
Brundtland mà điểm mạnh của nó là đã đề cập đến sự công bằng giữa các thế hệ
hiện tại lẫn tương lai. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu (Sathiendrakumar, 1996;
World Bank, 2002) chỉ ra rằng khái niệm này thiếu sự rõ ràng, bởi “nhu cầu”
chưa được xác định rành mạch.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển, tổ chức tại
Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992, với sự tham dự của 172 quốc gia trên thế
giới, đã phát triển khái niệm PTBV đầy đủ hơn, được xem là “Tuyên ngôn Rio
1992” về PTBV trong việc cam kết thực hiện Tuyên bố môi trường và phát
triển Rio de Janeiro (gồm 27 nguyên tắc) và Chương trình nghị sự 21 (Agenda
11
21) được xem là khuôn khổ hành động cấp quốc gia và quốc tế đầu tiên vì sự
PTBV, đã phác thảo những giải pháp PTBV chung cho toàn thế giới. Điểm
đặc biệt trong văn kiện này là sự nhấn mạnh yếu tố con người, bên cạnh yếu tố
môi trường ngay trong nội hàm khái niệm PTBV, bởi con người là mục tiêu và
động lực của sự phát triển.
Khái niệm phát triển bền vững trong “Tuyên ngôn Rio 1992” nêu: “sự
phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ con người hiện nay và
không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn
những nhu cầu của họ”.
So với định nghĩa Brundtland, khái niệm đã phân ra ba mảng, hay còn
gọi là ba trụ cột (pillar) của PTBV bao gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường. Hơn nữa, khái niệm này cũng tập trung vào sự phát
triển không phải chỉ cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ con người trong
tương lai.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV được tổ chức tại
Johannesburg (Nam Phi) với 166 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua Bản
Tuyên bố Johannesburg và bản Kế hoạch thực hiện PTBV, khẳng định lại các
nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện Agenda 21. Điểm
đáng lưu ý là Hội nghị này đã cụ thể hóa thêm và phát triển hoàn thiện nội
hàm khái niệm với ba trụ cột chính: bền vững về kinh tế; bền vững về xã hội;
bền vững về môi trường.
Tuy nhiên, trong diện rộng của đời sống quốc tế hiện nay suy cho cùng,
PTBV thực sự mới chỉ nhận được sự đồng thuận trên những vấn đề chung, cơ
bản có tính nguyên tắc. Do tính chất liên ngành, phức tạp, nhiều vấn đề PTBV
đến nay còn chưa được giải quyết thỏa đáng và nhận thức thống nhất từ những
vấn đề như bản chất, điều kiện đảm bảo, khả năng, mức độ áp dụng….đang
cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
12
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình triển
khai Kế hoạch thực hiện phát triển bền vững ở nước ta
Đảng ta đã sớm có quan điểm phát triển nhanh, bền vững và tầng bước
đi vào chiều sâu (từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, năm 1976) và trong
công cuộc đổi mới, từ Đại hội VI năm 1986 đến nay đã khẳng định đường lối
phát triển của Việt Nam là phát triển toàn diện. Trên cơ sở đó, trong quá trình
đẩy mạnh CNH-HĐH để phát triển kinh tế, xã hội đã đặc biệt quan tâm đến
vấn đề bảo vệ môi trường: Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-6-1998 của Bộ
Chính trị về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” chỉ ra rằng “Bảo vệ môi trường là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo
đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước”.
Hướng tới xu thế phát triển chung của thế giới, Việt Nam đã cử phái
đoàn tham gia các hội nghị Rio de Janeiro, Johannesburg và cam kết thực
hiện Chương trình nghị sự 21. Năm 1991, Chính phủ Việt Nam có “Kế hoạch
quốc gia về Môi trường và PTBV giai đoạn 1991-2000” ban hành theo Quyết
định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991. Nhất là thông qua Dự án
Vie/01/021, sau nhiều năm chuẩn bị, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về định hướng PTBV, chính thức khẳng
định việc thực thi PTBV ở Việt Nam. Chiến lược xác định các lĩnh vực ưu
tiên về kinh tế, xã hội, môi trường nhằm “đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân, sự đồng
thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết
hợp chặt chẽ, hợp lí và hài hoà của 3 mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường”.
13
Từ Đại hội VII đến Đại hội VIII, IX, X và XI thấy rõ hơn sự chuyển
biến của Việt Nam từ việc đề ra chủ trương sang việc thể chế hóa và thực hiện
PTBV trên phạm vi toàn quốc. Tại đại hội VII, quan điểm phát triển chính của
nước ta là: Phát triển kinh tế - xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn
hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII lần
đầu tiên đã đưa vào trong văn kiện thuật ngữ PTBV. Trong những bài học
kinh nghiệm rút ra sau 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái” [17, tr.459]. Tuy nhiên vấn đề
phát triển bền vững chủ yếu là nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế và xã hội:
“tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết các
vấn đề bức xúc về xã hội” [17, tr.168]; về tiêu chí để đánh giá sự phát triển
bền vững chưa có sự lồng ghép yếu tố môi trường: “lấy hiệu quả kinh tế-xã
hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án
đầu tư và công nghệ” [17, tr.471]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm
2001) đã đánh dấu mốc quan trọng trong hiện thực hóa chủ trương PTBV của
Việt nam thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (20012010), đó là: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường… Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự phát triển hài
hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh
học” [17, tr.699-700].
Như vậy, trong chủ trương chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta đã
tập trung vào chiến lược PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường, đồng thời còn
mở rộng nội hàm khái niệm, đó là kết hợp phát triển kinh tế với lĩnh vực văn
14
hóa, an ninh quốc phòng để phù hợp với hai nhiệm vụ chiến lược ở Việt Nam
là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục nâng cao hơn
nữa vấn đề PTBV thông qua việc coi đó là một bài học kinh nghiệm, bài học
về “Phát triển nhanh và bền vững”. Nội dung “Phát triển nhanh phải đi đôi với
nâng cao tính bền vững…phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi
với xóa đói giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước
phát triển, phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; coi
đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững” [17, tr.178-179].
So với quan điểm tại Đại hội Đảng lần thứ IX, tư duy về PTBV ở Đại
hội Đảng X đã phát triển sâu sắc hơn, chú ý đến các chiều cạnh của sự phát
triển ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn, số lượng và chất
lượng, chiều rộng và chiều sâu. Ở mọi giác độ của sự phát triển, Đảng ta đều
quán triệt việc thực hiện PTBV và nó đã thực sự trở thành quan điểm chủ đạo,
thành nguyên tắc trong thiết kế phát triển đất nước.
Từ bài học về phát triển nhanh và bền vững, tại Đại hội Đảng lần thứ XI
(năm 2011), Đảng ta lại nhấn mạnh: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển
bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Những định hướng, chủ trương chính sách lớn trên, được tổ chức thực
hiện thông qua việc thành lập Văn phòng PTBV (Văn phòng 21) đặt tại Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, văn phòng PTBV của ngành tài nguyên môi trường (Văn
phòng 21 – Bộ Tài nguyên Môi trường) và thành lập Hội đồng PTBV quốc gia
(theo quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2005). Chương trình
nghị sự 21 của ngành tài nguyên môi trường và của 6 tỉnh, thành phố (Sơn La,
15
Thái Nguyên, Ninh Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng và Bến Tre) đã được phê
duyệt. Nhiều tỉnh khác đã và đang xây dựng Chương trình Nghị sự 21.
Ngoài ra, “hệ thống các chính sách và văn bản pháp luật quan trọng về
công tác kế hoạch hóa và quản lý phát triển trên các mặt kinh tế, xã hội và bảo
vệ môi trường về cơ bản đã được ban hành, hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường ở các cấp (từ Trung ương
tới địa phương) đã được thành lập đồng bộ, có chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu
tổ chức rõ ràng, đang hoạt động hiệu quả” [3, tr.109].
1.2. Quản lý nhà nƣớc về phát triển bền vững
1.2.1. Yêu cầu khách quan của việc thực hiện quản lý nhà nước về
PTBV
Sự tất yếu khách quan của việc thực hiện quản lý nhà nước về phát triển
bền vững xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Về mặt cơ chế: Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình
độ cao, nó là bước đi tất yếu khách quan của loài người gắn với sự phát triển
của sản xuất. Mặc dù kinh tế thị trường là phạm trù mang tính lịch sử, nhưng
cho đến nay hầu hết các quốc gia đã và đang tôn trọng quy luật khách quan và
sự tồn tại của nó. Trong nền kinh tế thị trường, để phát huy mặt tích cực, hạn
chế các mặt tiêu cực và những rủi ro của thị trường, cần có sự điều tiết của
Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả sự vận động của thị trường được ổn định,
tối đa hóa hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển
kinh tế, xã hội, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị
trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô.
Tuy nhiên, nhà nước can thiệp đến mức độ nào, sử dụng công cụ như thế nào ở
từng giai đoạn phát triển là vấn đề luôn được quan tâm nghiên cứu.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà
nước về kinh tế là một yêu cầu khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc
chung của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Nhưng
16
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn phải
chủ động sử dụng kinh tế thị trường để phục vụ mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, dẫn dắt nền kinh tế phát triển đi lên xã hội chủ nghĩa, chứ không để kinh
tế thị trường phát triển tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Để giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu về vai trò của Nhà nước càng cần thiết
hơn cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Mặt khác, do trình độ xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự điều tiết của nhà
nước.
Về yêu cầu của PTBV: Theo World Bank- 2002, PTBV thường được
nhắc đến là phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường. Đó chính là nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định. Phát triển kinh
tế đi liền với phát triển văn hóa xã hội và cân bằng tài nguyên môi trường;
PTBV có nghĩa là phát triển mức sống của người dân đi liền với dân chủ, công
bằng và tiến bộ xã hội. Những dịch vụ đảm bảo chất lượng đời sống như giáo
dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội cần phải đến được với mọi đối tượng công
dân. Những vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, giải
quyết việc làm, ma túy, mại dâm… cần được giải quyết; việc sử dụng hợp lý
tài nguyên tái tạo được và sử dụng tiết kiệm tài nguyên không tái tạo được là
rất cần thiết.
PTBV cần quan tâm đến những nội dung như phát triển văn hóa, giáo
dục, khoa học công nghệ, bảo đảm tự do dân chủ và phát triển con người mà
văn hoá là cốt yếu, nền tảng. Văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người,
vừa là môi trường nhân tạo để nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của
con người. Văn hóa được nhìn nhận là động lực của sự tiến bộ xã hội.
Để thực hiện tốt các yêu cầu của PTBV cần phải có sự quản lý của nhà
nước. Vấn đề này đã được Roy và Tisdell (1998) nghiên cứu ảnh hưởng của
thể chế đối với PTBV thông qua quản lý nhà nước (governance). Hai ông đã
17
từ nghiên cứu về ảnh hưởng của tập trung và phân quyền quyền lực quản lý
nhà nước ở Ấn Độ đối với các chính sách kinh tế - xã hội và chỉ ra rằng, các
chính sách kinh tế phù hợp sẽ không đạt được sự PTBV nếu không được thực
thi một cách hiệu quả. Việc thực thi hiệu quả các chính sách lại phụ thuộc vào
việc quản lý nhà nước hiệu quả (good governance). Đến lượt nó, quản lý nhà
nước hiệu quả lại lệ thuộc phần lớn vào những thể chế phù hợp. Do đó, chính
sách kinh tế cần được hỗ trợ bởi thể chế phù hợp hoặc những thay đổi thể chế
hiệu quả nhằm đạt được sự PTBV.
Một trong những chủ đề chính của Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất là nói
lên sự ảnh hưởng của việc quản lý nhà nước có hiệu quả (good governance)
đối với PTBV. Bởi lẽ, quản lý nhà nước hiệu quả được coi là một yếu tố then
chốt để PTBV, đồng thời cho thấy sự quản lý của nhà nước có hiệu quả lại phụ
thuộc vào các thể chế của một xã hội nhất định.
Đặc điểm nữa không thể không nói đến, đó là: Thực trạng đã, đang xảy
ra trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới và sự bùng nổ của dân
số, con người đã khai thác tài nguyên và hủy hoại môi trường một cách tàn
bạo, đe dọa sự tồn tại của trái đất, của nhân loại. Hàng loạt các vấn đề môi
trường bức xúc như biến đổi khí hậu, suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái tài
nguyên nước ngọt, suy thoái tầng ôzôn, suy thoái đất và hoang mạc hoá, ô
nhiễm các chất hữu cơ độc hại, chất thải rắn khó phân hủy vv ... đang thách
thức sự phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
Với những lý do trên, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nước về phát triển bền vững là yêu cầu khách quan và cấp bách, nhằm đạt
được mục tiêu phát triển bền vững lâu dài của các quốc gia trên thế giới.
1.2.2. Nội dung của quản lý nhà nước về PTBV
Quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể
quản lý lên các đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu
18
- Xem thêm -