Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi - Đề thi Công chức - Viên chức Quản lý nhà nước về kinh tế tài chính...

Tài liệu Quản lý nhà nước về kinh tế tài chính

.DOC
23
322
71

Mô tả:

Quản lý nhà nước về kinh tế tài chính
CHUYÊN ĐỀ I QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ - TÀI CHÍNH I- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ 1.1- Chức năng của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân a- Định hướng phát triển kinh tế Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ vào các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra, Nhà nước định hướng phát triển kinh tế. Thực hiện chức năng, định hướng của Nhà nước là: Xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, phát triển các ngành và vùng lãnh thổ. Lập các quy hoạch, kế hoạch đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu đó trong thời gian nhất định. Nhà nước càng thực hiẹn tốt chức năng định hướng càng tránh được rủi ro cho các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong thời kỳ mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước càng phải tăng cường định hướng, hướng phát triển kinh tế, vì: Các doanh nhân tự chủ kinh doanh nhưng chưa thể nắm được tình hình, xu hướng vận động của thị trường, dễ gây thu lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Nhà nước định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng định hướng nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch mà Nhà nước đã vạch ra. b- Điều chỉnh, điều tiết quan hệ thị trường Trong khi quản lý nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường nhằm điều chỉnh, điều tiết, chi phối thị trường theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho kinh tế phát triển công băng, ổn định và có hiệu quả. Đảm bảo mọi hoạt động kinh tế phải đạt được hiệu quả cao nhất, mọi nguồn lực phải được sử dụng tiết kiệm nhất nhưng cung cấp cho xã hội các hàng hoá và dịch vụ tốt nhất. Để điều chỉnh, điều tiết thị trường, Nhà nước sử dụng hàng loạt biện pháp như để điều chỉnh các quan hệ xã hội bao gồm: - Các quan hệ lao động, như phân công và hợp tác, phân bố lực lượng sản xuất, v.v… giữa các doanh nghiệp, sao cho các quan hệ đó được thiết lập một cách tối ưu. - Các quan hệ phân phối lợi ích. Đó là quan hệ trao đổi và thanh toán giữa các doanh nhân với nhau, quan hệ chia lợi nhuận giữa các cổ đông trong một công ty, quan hệ chủ thợ trong mỗi doanh nghiệp có lao động làm thuê, quan hệ giữa các doanh nhân với Nhà nước trong sử dụng tài nguyên môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia,trật tự an toàn xã hội, quan hệ giữa người cung ứng hàng hoá, dịch vụ với người tiêu dùng qua giá cả và chất lượng sản phẩm.vv… c- Tạo môi trường Nhà nước tạo môi trường phát triển kinh tế là tạo ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Bảo đảm an ninh tài sản và tính mạng cho giới sản xuất kinh doanh bằng các phương tiên và lực lượng hữu hiệu của nhà nước. - Tạo môi trường pháp lý là có đủ hệ thống pháp luật. Môi trường kinh tế là ổn định nền tài chính, tiền tệ, kiểm soát lạm phát, tạo kết cấu hạ tầng (giao thông, điện nước). - Tạo môi trường thuận lợi, đầy đủ có chất lượng là hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. - Hỗ trợ tài chính, tiền tệ nhằm giúp các nhà sản xuất – kinh doanh, giúp công dân tạo vốn cho quá trình gây dựng cơ nghiệp của họ thông qua hoạt động của các tổ chức ngân hàng của Nhà nước. 1 - Nhà nước bao mua và bao cấp những hàng hoá, dịch vụ nói trên từ các hàng tư nhân dưới hình thức các hợp đồng dịch vụ công. Bằng cách này tư nhân sản xuất theo đơn đặt hàng của Nhà nước, người dân tiêu dùng không qua thị trường tự do mà qua bảo lãnh của Nhà nước trước người sản xuất và cung ứng. - Tạo cầu nối cho các doanh nhân tìm đối tác qua các câu lạc bộ doanh nhân, các hội chợ, hội nghị bạn hàng trong nước và quốc tế. - Bảo đảm an ninh về tài sản và tính mạng cho giới sản xuất – kinh doanh bằng các phương tiện và lực lượng hữu hiệu của Nhà nước. d- Chức năng kiểm tra, kiểm soát - Để bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản công, khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhà nước phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát.. e- Chức năng thông tin Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có hội nhập, các cơ quan chức năng nhà nước cần thực hiện tốt các chức năng thông tin như: - Thông tin thị trường giá cả; - Thông tin về khoa học, công nghệ 1.2- Đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động kinh tế cần được Nhà nước quản lý Xác định đối tượng, phạm vi, nội dung quản lý, tức là phải trả lời câu hỏi: quản lý cái gì, quản lý mặt nào, quản lý tới đâu? Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân cần hướng vào các mặt sau đây: a- Hướng vào hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất Nhà nước quan tâm đến vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất để bảo đảm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời bảo vệ lợi ích Nhà nước mong muốn. Nhà nước quản lý sở hữu về tư liệu sản xuất với mức sau đây: - Một là, Nhà nước thừa nhận các hình thức sở hữu trong nền kinh tế quốc dân. - Hai là, bảo đảm và bảo vệ các hình thức sở hữu hợp pháp. b- Hướng vào việc xây dựng lực lượng sản xuất của các doanh nghiệp Doanh nghiệp được xây dựng như thế nào là công việc của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, đó là vấn đề lực lượng sản xuất mà Nhà nước không thể quan tâm. Về mặt này, Nhà nước quan tâm tới mức sau đây: - Phương hướng đầu tư của doanh nhân với hai mức độ: + Một là, ngăn ngừa sản xuất những hàng hoá, dịch vụ bất lợi cho con người và xã hội, dưới hình thức ban hành những lệnh cấm với danh mục sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. + Hai là, ngăn ngừa những hoạt động đầu tư bất lợi cho chính nhà đầu tư bằng cách hướng dẫn họ theo những hướng có triển vọng, được thể hiện trong chiến lược, kế hoạch kinh tế của Nhà nước. - Sự tối ưu của quy mô doanh nghiệp, khả năng tối thiểu cần có của doanh nghiệp để chúng có thể “đứng” vững trên thương trường. Với sự quan tâm này, Nhà nước thường quy định vốn cần có khi ra đời một doanh nghiệp, gọi là “vốn pháp định”. - Sự phân bố doanh nghiệp trên lãnh thổ quốc gia. Phân bố doanh nghiệp trên lãnh thổ quốc gia là vấn đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội. Về mặt này, Nhà nước cần can thiệp tới mức như sau: + Quy định vùng cấm hoặc được phép phân bố loại hình doanh nghiệp. + Quy định cụ thể địa điểm đặt doanh nghiệp nếu là những ngành sản xuất có ảnh hưởng lớn đến môi trường thiên nhiên, đến môi sinh của con người. - Kỹ thuật và công nghệ mà doanh nhân dự định dùng vào sản xuất kinh doanh. 2 Đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn đến hiệu quả sản xuất – kinh doanh, chất lượng sản phẩm, sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường sống của con người. Do đó, Nhà nước phải quản lý cả việc trang bị công nghệ và kỹ thuật của từng doanh nghiệp thông qua việc ban hành các tiêu chuẩn công nghệ được phép sử dụng nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ có hiệu quả, vv… - Các nguyên liệu đầu vào của sản xuất Đây là vấn đề liên quan tới việc sử dụng tài nguyên quốc gia, chất lượng sản phẩm, sức khoẻ con người. Ô nhiễm môi trường và nhiều mặt khác của đời sống cộng đồng. Nhà nước ban bố các lệnh cấm dùng nguyên liệu ảnh hưởng xấu cho người tiêu dùng sản phẩm, cho việc bảo vệ tài nguyên và môi trường. Bên cạnh đó, Nhà nước còn cần hạn chế mức tiêu dùng các nguyên, nhiên vật liệu quý, hiếm thông qua việc quy định danh mục nguyên liệu và sản phẩm có quan hệ chế tác, qua hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, qua chế độ khai thác, bảo quản nguyên liệu,vv.. - Một số phương diện khác. c- Hướng vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp * quản lý đầu ra của doanh nghiệp trên các phương diện sau đây: - Sản phẩm hoặc dịch vụ có tác động xấu cho người tiêu dùng và cho xã hội không? - Sản phẩm có bất lợi cho người sản xuất – kinh doanh không, có khả năng tiêu thụ không? - Sản phẩm có bất lợi cho các doanh nhân khác xét trên giác độ bản quyền về kiểu dáng công nghiệp không? Đầu ra là chất thải có được xử lý theo đúng thiết kế khi đầu tư xây dựng không? * quản lý các hoạt động sử dụng các nguồn lực vào sản xuất – kinh doanh của doanh nhân, cụ thể là các hoạt động liên quan đến việc sử dụng: - Tài nguyên và môi trường; - Lao động; - Tiền tệ, nhất là ngoại tệ; V.v.. * Quản lý quá trình phân chia lợi ích cho các doanh nghiệp, tập trung vào điều chỉnh các quan hệ phân chia sau đây: - Phân chia lợi ích với Nhà nước thông qua các đóng góp của doanh nhân vào ngân sách nhà nước. - Phân chia lợi nhuận giữa các cổ đông với nhau thông qua việc ban bố các chế độ quản lý các công ty. - Phân chia lợi ích giữa chủ và thợ thông qua chế độ tiền lương, tiền công và các quy định về bảo hộ lao động, đóng bảo hiểm. - Quản lý giá cả, liên quan đến lợi ích của người tiêu dùng. Xung quanh vấn đề giá cả, sự quản lý của Nhà nước cần thực hiện với nhiều mức độ khác nhau. Có loại hàng hoá cần phải được quản lý giá cả cụ thể. Có loại hàng hoá chỉ cần được quản lý về giá ở mối quan hệ tương ứng giữa chất lượng sản phẩm đăng ký trên mẫu mã với chất lượng thực tế. d- Hướng vào tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn Nhà nước Các doanh nghiệp có vốn nhà nước có nhiều mức độ khác nhau. Có doanh nghiệp trong đó vốn nhà nước chiếm 100%, và được gọi là doanh nghiệp nhà nước (Cách gọi của từng nước về doanh nghiệp nhà nước có khác nhau), có doanh nghiệp, trong đó vốn của Nhà nước chỉ chiếm một tỷ trọng nào đó, quá nửa, cổ phần trội nhất, cổ phần thường. Nhà nước đối xử với các doanh nghiệp Nhà nước với hai tư cáhc: chủ sở hữu và chủ quản. Chủ sở hữu vì vốn doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư. 3 Chủ quản lý vì Nhà nước cần có thực lực sức mạnh kinh tế để điều chỉnh các quan hệ kinh tế- xã hội. Do đó, đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động của các doanh nghiệp có vôn nhà nước cần được Nhà nước quản lý là: * Vị trí đầu tư, phương hướng sản xuất của các doanh nghiệp này có phù hợp với mục đích thành lập hay không? Nhà nước phải thường xuyên rà soát lại sự cần thiết của các doanh nghiệp Nhà nước hiện có, phát hiện những “cái thừa” để có biện pháp loại trừ, đồng thời phát hiện những vị trí quan trọng, cần nhưng chưa có doanh nghiệp Nhà nước, để có kế hoạch đầu tư mới. Bên cạnh đó là kiểm soát các chương trình sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước theo những yêu cầu đặt ra với chúng. * Sự bảo toàn giá trị vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp có vốn nhà nước Thực chất của vấn đề là chống thất thoát vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp này. * Hiệu quả sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn Nhà nước. Khi đã bỏ vốn thì Nhà nước không thể bàng quan với hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nâng cao hiệu quả, Nhà nước mới có đủ vốn để bố trí kịp thời, đúng mức vào các vị trí cần có vốn Nhà nước. * Nhân sự và cơ cấu tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp có vốn Nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, có thực hiện được vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường hay không, tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp có vốn Nhà nước có toàn vẹn hay không, vốn nhà nước có được sử dụng một cách có hiệu quả hay không… một phần rất lớn là nhờ ở người thay mặt Nhà nước, trực tiếp lãnh nhận quản lý, sử dụng vốn này, gồm: giám đốc, kế toán trưởng trong các doanh nghiệp Nhà nước, đại diện cổ đông Nhà nước trong các công ty mà Nhà nước có cổ phần, các thành viên đại diện Nhà nước trong các Hội đồng quản trị, v.v… e- Hướng vào kinh tế đối ngoại trên các mặt sau: * Nội dung quan hệ kinh tế đối ngoại Nội dung quan hệ kinh tế đối ngoại, bao gồm các loại vấn đề sau đây: Quản lý nội dung kinh tế đối ngoại có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia. Bởi vì, kinh tế đối ngoại nhằm đưa vào hoặc đưa ra khỏi nền kinh tế quốc dân những yếu tố nhất định. Do vậy, phải lựa chọn phương hướng nhập khẩu hàng hoá; tư bản, tri thức; chất xám; dịch vụ, v.v… * Quy mô xuất nhập khẩu Xuất nhập khẩu bao nhiêu là vấn đề có tầm quan trong. Chính vì thế cần quy định về giấy phép hạn mức xuất nhập khẩu, trong đó không chỉ quy định nội dung xuất nhập, mà còn quy định lượng được phép xuất nhập. Vì vậy, việc quay vòng các quốc gia là sự gian lận về quy mô quan hệ kinh tế đối ngoại, bị Nhà nước cấm và xử lý. * Chất lượng xuất nhập khẩu Bản thân nội dung xuất nhập khẩu đã mang đặc trưng chất lượng. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả vấn đề chất lượng. Chất lượng xuất nhập khẩu cần được Nhà nước quản lý còn là chất của hàng hoá xuất nhập khẩu. Việc nhập khẩu hàng hoá chất lượng thấp, kể cả hàng hoá thông thường đến hàng hoá đặc biệt như sức lao động, chất xám máy móc, thiết bị sẽ gây tác hại. Vì thế, Nhà nước cần nghiêm ngặt trong quản lý chất lượng sản phẩm nhập khẩu. * Chọn đối tác kinh tế đối ngoại. Nhà nước định hướng quan hệ của cá nhân và tổ chức trong nước với các đối tác nước ngoài trong xuất nhập khẩu. Bởi vì đối tác có ảnh hưởng đến các mặt sau đây: - Độ tin cậy về mặt chính trị của đối tác hoặc của Nhà nước có đối tác đó. - Độ tin cậy về đạo đức kinh doanh. 4 - Trình độ của nền hành chính quốc gia, cái sẽ gây tác độ khó hoặc dễ cho quá trình kinh tế sau này. - Độ tin cậy vào sức mạnh khoa học, công nghệ, kinh doanh và quản lý của đối tác. Chính vì đối tác rất khác nhau về chất lượng nhiều mặt như trên nên đôi khi, cùng một nội dung quan hệ nhưng quan hệ với đối tác này thì có hại, với đối tác khác lại có lợi. Vì thế, Nhà nước phải quan tâm đến các đối tác mà các doanh nhân, các đơn vị kinh tế đối ngoại của nhà nước tiến hành hợp tác. * Hoạt động của doanh nhân nước ngoài tại nước ta - Sự tuân thủ về nội dung kinh tế mà các doanh nhân nước ngoài được phép hoạt động tại nước ta. - Sự tuân thủ về địa điểm phân bố các hoạt động, bao gồm toạ độ và diện tích cụ thể đã được phê duyệt. - Sự tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường. - Sự tuân thủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nhân nước ngoài: nghĩa vụ thuế, tiền trả cho các khoản thuê viên chức nước ta. - Sự tuân thủ các quy chế, thủ tục hành chính khác. 1.3 Cơ chế, phương pháp, công cụ quản lý nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân Làm cách nào để đối tượng quản lý đi theo quy định của người quản lý là câu hỏi lớn đặt ra cho người quản lý. Trả lời cầu hỏi đó chính là đề cập vấn đề cơ chế quản lý, phương pháp và công cụ quản lý. a- Cơ chế quản lý Có hai khái niệm liên quan đến thuật ngữ cơ chế: cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, trong đó: - Cơ chế kinh tế là một phạm trù kết cấu động của chính nền kinh tế. Đó là sự tương tác giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân trong quá trình vận động của từng bộ phận để tạo nên sự vận động chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế quốc dân được xem xét từ nhiều góc độ, nên cũng có nhiều góc độ để xem xét cơ chế kinh tế. Chẳng hạn, có cơ chế tác động giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng với công nghiệp nhẹ, khu vực một với khu vực hai trong quá trình tái sản xuất mở rộng, vv… - Cơ chế quản lý kinh tế là một phạm trù vận động tương tác giữa chủ thể và khách thể quản lý, là sự tương tác giữa các bộ phận cấu thành hệ thống quản lý. Cơ chế quản lý bao gồm: Một là, hệ thống các mục tiêu: Các mục tiêu có tính hệ thống dọc và ngang. Trong hệ thống mục tiêu cũng có cơ chế cuả nó. Tức là, mỗi mục tiêu trong hệ thống vừa là nhân, vừa là quả của mục tiêu khác. Sự tương tác giữa các mục tiêu chính là cơ chế của mục tiêu. Theo hệ thống dọc, đó là quá trình chuyển hoá theo thời gian, từ điểm xuất phát tới đích. Theo hệ thống ngang, đó là mối liên hệ không gian của vận động. Hai là, hệ thống các lực tác động vào đối tượng quản lý Lực tác động là cái mà nhờ nó đối tượng chuyển động theo ý chí Nhà nước. Dế dàng thấy ngay rằng, hệ thống công cụ không gì khác là các quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức, quy phạm kỹ thuật, các đòn bẩy kinh tế (thuế, giá cả, lãi suất tín dụng, vv…). Cơ chế quản lý ở đây chính là cơ chế tương tá giữa các lực tác động này. Mỗi lực tác động quản lý làm đối tượng tiến lên về mặt này, song có thể làm thụt lùi chúng ở mặt khác. Nhưng vì có một tập hợp lực tác động nên đối tượng vẫn tiến tới mục tiêu. Ba là, hệ thống các cơ quan quản lý và sự tương hỗ giữa chúng trong quá trình thi hành công vụ. b- Phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước 5 * Phương thức kích thích - Thực chất của kích thích là dùng lợi ích làm cho đối tượng quản lý vì muốn được lợi mà làm theo yêu cầu của Nhà nước. - Các nguồn lợi ích có thể dùng để kích thích doanh nhân được Nhà nước có thể dùng: + Lợi ích tinh thần: tôn vinh, khen thưởng; + Các loại tác động làm cho doanh nhân tăng lợi nhuận: miễn giảm thuế, cho vay ưu đãi, trợ giá mua và bán, v.v.. Về lợi ích vật chất, còn có nhiều cách khác nữa. Mỗi Nhà nước đều phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế này. Kích thích tinh thần là thủ pháp quản lý bổ sung, tuỳ đặc tính của đối tượng quản lý. Nó không đóng vai trò lớn trong điều hành kinh tế. - Phương hướng áp dụng phương thức kích thích. Phương thức kích thích được áp dụng khi cần thiết và có thể áp dụng đồng thời với thuyết phục, cưỡng chế. * Phương thức thuyết phục: - Phương pháp này được sử dụng nhằm làm cho đôí tượng giác ngộ được tính tất yếu của hành vi để tự giác hành động theo định hướng của Nhà nước. - Phương pháp thuyết phục được áp dụng mọi lúc, mọi nơi, đồng thời với cưỡng chế và kích thích. Trong bất kỳ tình hình nào dù đã cưỡng chế hay kích thích, phương pháp giáo dục, thuyết phục vẫn phải được áp dụng. Nó là việc mở đầu, kết thúc hoặc song hành với các phương thức trên. Bản thân các quy phạm pháp luật cũng phải được đưa đến công cân bằng tuyên truyền, thuyết phục. Nếu công dân tuân thủ tốt sẽ không có cưỡng chế. Ngay cả khi buộc phải cưỡng chế vẫn phải bổ sung bằng giáo dục. - Công cụ tuyên truyền, thuyết phục có nhiều. Đó là các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc dân. Ngay cả trại cải tạo người vi phạm pháp luật cũng là một công cụ giáo dục, thuyết phục. - Nội dung được dùng để tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục là kế hoạch Nhà nước, là pháp luật, là các nguyên lý làm giàu và nguyên lý làm người. * Phương thức cưỡng chế - Cưỡng chế được thể hiện dưới hai hình thức: bắt làm hoặc cấm làm; - Thực chất của cưỡng chế là dùng thiệt hại làm áp lực để buộc đối tượng quản lý vì sợ thiệt hại mà phải làm theo Nhà nước. - Các loại thiệt hại có thể dùng làm áp lực: + Thiệt hại về tài sản: bị cắt nguồn lợi hoặc bị tịch thu tài sản; + Thiệt hại về thân thể: danh dự, tự do và tính mạng. -Phương pháp cưỡng chế được dùng khi các mục tiêu quản lý cần phải được đối tượng quản lý thực hiện triệt để, không có sự lựa chọn nào khác cho người thực hiện. c- Công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước Công cụ là cái để thực hiện mỗi phương thức, phương pháp quản lý đã nêu. Cả ba phương thức quản lý đều cần một số công cụ sau đây: - Công cụ thể hiện mục tiêu chuẩn mực, quyết định mà Nhà nước muốn đối tượng thực hiện, bao gồm: + Kế hoạch nhà nước, các tiêu chuản chất lượng hàng hoá và dịch vụ, thể hiện kết quả mà Nhà nước muốn đối tượng quản lý của mình tạo ra. + Chính sách kinh tê – xã hội + Pháp luật, thể chế thể hiện chuẩn mực xử sự, hành vi mà Nhà nước muốn đối tượng quản lý của mình đi theo khi thực hiện kế hoạch. Đồng thời pháp luật cũng thể hiện sức ép, động 6 viên khuyến khích của Nhà nước đối với đối tượng quản lý qua bộ phận chế tài, bộ phận khen thưởng, kỷ luật. + Các quyết định hành chính nhà nước. Các nguồn lực vật chất đóng vai trò áp lực, động lực trực tiếp đối với đối tượng quản lý. Đó là: + Các quỹ vật chất để kích thích. + Các phương tiện tạo áp lực cưỡng chế. + Các phương tiện để thực hiện tuyên truyền, thuyết phục. -Công vụ là bộ phận trực tiếp tạo ra và sử dụng các công cụ nói trên. 1.4 Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta. a- Lý do đổi mới quản lý là nền kinh tế quốc dân đã chuyển đổi thì chủ thể quản lý cũng phải đổi mới quản lý (quản lý sự phát triển). * Có nhiều thay đổi trong đối tượng quản lý của Nhà nước, nhưng những thay đổi sau đây là đáng kể và có ý nghĩa trực tiếp tới sự quản lý Nhà nước về kinh tế. - Sở hữu tư nhân và tư nhân tư bản được thừa nhận, được bình đẳng trước pháp luật như các hình thức sở hữu khác. - Sự hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới đã diễn ra mạnh mẽ. Trong sự hội nhập có nhiều cái mới về nội dung, hình thức quan hệ kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế ngày này của nước ta không chỉ ở quan hệ Nhà nước, mà đã mở sang quan hệ giữa các doanh nhân Việt Nam với các doanh nhân nước ngoài. Về nội dung quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng mở rộng hơn trước nhiều. Ngoài thương mại quốc tế, ngày nay trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam còn có hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ và các hoạt động dịch vụ. * Ý nghĩa của các thay đổi thể hiện trên các mặt sau: - Một là, tăng quy mô, khối lượng công vụ quản lý nhà nước về kinh tế. Trong nền kinh tế trước khi đổi mới, số lượng các thành phần tham gia quan hệ kinh tế ít hơn so với số doanh nghiệp thời kỳ đổi mới. Trong nông nghiệp, số hộ nông nghiệp cá thể đã tới gần mười triệu so với hơn mười ngành hợp tác xã nông nghiệp toàn quốc trước đây. Trong công nghiệp dịch vụ thương mại, tình hình doanh nghiệp tư nhân cũng lớn lên tương tự. Sự tăng lên về số lượng, thành phần tham gia vào hoạt động kinh tế làm tăng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về kinh tế. -Hai là, xuất hiện nhiều loại công vụ mới trong quản lý Nhà nước về kinh tế. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sử dụng tài nguyên, trước đây không có việc tranh chấp tài nguyên giữa các đơn vị kinh tế. Do đó, không có sự tranh giành khai thác tài nguyên, không có tình hình vi phạm sở hữu công nghiệp, tranh chấp mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp. Còn vô số công vụ mới khác nữa, mà thời bao cấp không có trong hoạt động quản lý của Nhà nước. -Ba là, sự phản ứng quản lý từ phía đối tượng quản lý tăng lên nhiều so với trước. Trong cơ chế cũ các đối tượng quản lý là các doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã. Do vậy, phản ứng quản lý nếu có cũng chỉ là sự phản biện qua lại của các cơ quan nhà nước trước một tình hình cần xử lý tối ưu. Ngày nay, phản ứng quản lý trong nền kinh tế thị trường là sự phản kháng của các chủ thể, cá thể, tư bản. Ngoài ra, việc xoá bỏ từng bước cơ chế bao cấp cũng làm tăng khả năng phản ứng quản lý của công dân, vì người dân ít phụ thuộc vào cơ chế “xin cho” này nữa. b- Yêu cầu đối với Nhà nước trong công tác quản lý kinh tế hiện nay Câu hỏi được đặt ra là, trước đối tượng quản lý mới như vậy, cần có một bộ máy Nhà nước như thế nào thì đủ khả năng thực hiện được chức năng, nhiệm vụ đặt ra? Lời giải cho câu hỏi này là yêu cầu đốì với Nhà nước. Để đảm đương được chức năng, nhiệm vụ quản lý nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần đổi mới các mặt sau đây: 7 Một là, bộ máy quản lý Nhà nước phải có công suất làm việc lớn hơn trước. Do số lượng chủ thể quan hệ tăng lên, số lượng quan hệ xã hội trong kinh tế cũng tăng lên, làm cho công tác quản lý Nhà nước về kinh tế, thực chất là điều chỉnh các quan hệ xã hội, cũng sẽ tăng lên. Đó chính là đồi hỏi bộ máy Nhà nước phải có công suất lớn hơn trước mới làm hết việc. Hai là, bộ máy quản lý Nhà nước phải đa năng hơn, tức là có khả năng đảm đương nhiều loại việc hơn trước. Trong nền kinh tế đổi mới nếu khả năng của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế ngày nay chỉ như trước đây thì không thể đảm đương nổi chức năng, nhiệm vụ của mình, mà phải có khả năng rộng hơn, nhiều mặt hơn, gọi là “đa năng” hơn so với trước. Ba là, bộ máy quản lý Nhà nước phải vững vàng hơn. Yêu cầu này xuất phát từ chỗ là, bộ máy quản lý Nhà nước mà cụ thể là đội ngũ cán bộ, công chức trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với một đối tượng quản lý “cứng rắn” hơn. Ngoài ra, còn có lý do nữa là sự hiểu biết thông tin của công dân hiện nay là thuận lợi, cũng là thách thức đối với người quản lý. Yêu cầu về năng lực đối với cán bộ, công chức bao gồm: -Sự vững vàng của cán bộ, công chức về lập trường chính trị. -Sự vững vàng về pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ. Mọi quyết định của mỗi cán bộ, công chức nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể phải có cơ sở pháp lý, từ địa vị hợp pháp của người ra quyết định đến chuẩn mực pháp lý cơ bản, làm cơ sở cho quyết định cụ thể. Ngoài ra, các quyết định quản lý còn phải có lý, có tình. Sự vững vàng về phẩm chất, đạo đức để chống lại được sự cám dỗ tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Cán bộ, công chức phải có bản lĩnh về mọi mặt: sức khoẻ, kinh tế, tinh thần, đạo đức để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của một công chức. c- Phương hướng, biện pháp đổi mới quản lý Nhà nước về kinh tế. Để đáp ứng những đòi hỏi của đời sống kinh tế đối với Nhà nước như vừa phân tích, việc tổ chức quản lý Nhà nước về kinh tế cần được đổi mới theo hướng sau đây: * Nắm vững và thực hiện triệt để các nguyên tắc quản lý. Trước hết, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế cũng là những nguyên tắc tổ chức và hoạt động chung của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra, xuất phát từ đặc thù kinh tế, việc tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế phải quán triệt các nguyên tắc riêng sau đây: Một là, phân biệt quản lý Nhà nước về kinh tế với quản trị doanh nghiệp của người sản xuất – kinh doanh. Nguyên tắc phải được quán triệt cụ thể thành: -Sự dân chủ hoá đối với doanh nhân, mở rộng quyền tự do sản xuất – kinh doanh của doanh nhân trong phạm vi không có hại cho quốc kế dân sinh. -Tách chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh ra thành các chức năng riêng biệt và giao cho các cơ quan độc lập thực thi, không thể vừa đá bóng, vừa thổi còi. Chẳng hạn, chuyển chức năng quản lý Nhà nước của liên hiệp các xí nghiệp về bộ và chuyển chức năng kinh doanh sang công ty hoặc tổng công ty Nhà nước. Hai là, kết hợp quản lý Nhà nước về kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ. Nguyên tắc này được quán triệt theo các hướng sau đây: - Tiếp tục mở rộng quyền tự chủ sản xuất – kinh doanh cho các doanh nhân. - Phân cấp và phân công tốt hơn giữa các cấp nhà nước theo chiều dọc (giữa cấp trên với cấp dưới), phân công tốt hơn giữa các cấp theo ngành và lãnh thổ. Ba là, tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về kinh tế, đồng thời coi trọng các đòn bẩy kinh tế và việc tuyên truyền, giáo dục đạo lý trong quản lý Nhà nước về kinh tế. Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò của công cụ pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế khi nền kinh tế đã chuyển sang sự đa dạng hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và vận hành 8 theo cơ cế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời, cũng nhấn mạnh sự kết hợp giữa pháp luật và kích thích kinh tế, tuyên truyền đạo lý, chân lý trong làm ăn kinh tế. Bốn là, đổi mới không ngừng, toàn diện và đồng bộ sự quản lý Nhà nước về kinh tế. -Coi đổi mới không ngừng, toàn diện và đồng bộ sự quản lý Nhà nước về kinh tế. -Coi đổi mới là công việc thường xuyên. -Đổi mới phải toàn diện và sự đồng bộ, không tuỳ tiện. Sự toàn diện và đồng bộ bao gồm cả sự đổi mới chủ thể lẫn đổi mới khách thể quản lý, cả đổi mới tổ chức quản lý lẫn đổi mới tổ chức sản xuất – kinh doanh, đổi mới quản lý cả ở tầm vi mô và vĩ mô, v.v… Tập trung đổi mới một số nội dung cụ thể: Một là, điều chỉnh về chức năng của Nhà nước trong quản lý Nhà nước về kinh tế, theo hướng: -Tập trung điều chỉnh các quan hệ xã hội trong kinh tế. -Tập trung hỗ trợ công dân lập thân, lập nghiệp và hỗ trợ một cách kịp thời, có hiệu quả. -Thực hiện sự bổ sung thị trường những hàng hoá và dịch vụ một cách có tính toán và bằng phương thức thích hợp, có hiệu quả. Nhà nước đã và đang điều chỉnh lại khối doanh nghiệp Nhà nước, giảm bớt những doanh nghiệp không cần thiết, củng cố và phát triển thêm những doanh nghiệp Nhà nước vào những vị trí thực sự cần thiết. -Ý thức và hành động đầy đủ hơn trong việc sử dụng lực lượng kinh tế Nhà nước nói chung, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước nói riêng như một phương tiện giúp Nhà nước thực hiện điều chỉnh các quan hệ kinh tế nói riêng, quan hệ xã hội nói chung. Hai là, sử dụng đúng mức, đúng vị trí các công cụ quản lý vào hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế theo hướng sau: -Coi trọng công cụ pháp luật; -Sử dụng hiệu quả các đòn bẩy kinh tế. Hiểu đúng vai trò, vị trí, tác dụng của công cụ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục trên cơ sở đó lựa chọn nội dung thiết thực tránh công thức, hình thức, kém thiết thực, khó tiếp thu, v.v… - Hiểu đúng bản chất của hoạt động kế hoạch hoá, gắn kế hoạch Nhà nước với pháp luật, với hệ thống đòn bẩy kinh tế, với hoạt động tuyên truyền, giáo dục trong quản lý Nhà nước về kinh tế. Ba là, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức đủ sức sử dụng hệ thống công cụ mới nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo yêu cầu mới hiện nay: Yêu cầu mới đối với công chức bao gồm: - Chất lượng từng cán bộ công chức, bao gồm chất lượng chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, văn hoá pháp luật, kỹ năng hành chính, phẩm chất, đạo đức, vv… - Chất lượng của tổ chức bộ máy Nhà nước. Phụ thuộc nhiều vào chất lượng của đội ngũ công chức. Bốn là, hoàn thiện việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, tập trung vào việc xử lý các mối quan hệ sau đây: II- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 2.1. Sự cần thiết, nhiệm vụ và yêu cầu của quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ a- Sự cần thiết quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ Trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta nói riêng, tài chính tiền tệ là điều kiện, tiền đề của mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội. Nó trực tiếp chi phối đến các hoạt động khác từ sản xuất đời sống đến quản lý Nhà nước. Để tài chính tiền tệ tác động đến các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội theo mục tiêu và bản chất của chế độ, đòi hỏi Nhà nước trong thực hiện chức năng tổ chức và quản lý mọi hoạt động của xã hội cần chủ động tác động vào tài chính 9 cũng như sử dụng tài chính là công cụ để quản lý đời sống xã hội. Đó là đồi hỏi khách quan của bất kỳ chế độ xã hội nào, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Vai trò quản lý Nhà nước đối với tài chính tiền tệ là một tất yếu được thể hiện qua hai khía cạnh: Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của tài chính tiền tệ đối với mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội. Tài chính tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó có tác động và chi phối mọi mặt hoạt động trong xã hội, quan hệ tài chính tiền tệ thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, thể hiện bản chất của Nhà nước, của chế độ và phục vụ Nhà nước. Do vậy, đòi hỏi Nhà nước phải trực tiếp can thiệp, chi phối các quan hệ tài chính tiền tệ trong nền kinh tế, một mặt được thực hiện theo yêu cầu của quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ và tín dụng ngân hàng…phù hợp với điều kiện của đất nước. Mặt khác, phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Đó là yêu cầu mang tính khách quan xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước. Thứ hai, xuất phát từ vai trò tài chính Nhà nước. Điều này được thể hiện Nhà nước phải sử dụng tài chính tiền tệ là công cụ quan trọng trong quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng: Một là, Nhà nước định ra các luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định về tài chính, các chính sách về ngân sách, về thuế, về tín dụng, tiền tệ…Các luật, chính sách này không những bắt buộc doanh nghiệp và dân cư phải tuân thủ mà còn tạo điều kiện, môi trường để các doanh nghiệp hoạt động. Hai là, Nhà nước bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp quan trọng của mình, các khu vực công cộng, kết cấu hạ tầng. Những nguồn tài chính to lớn đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, không chỉ tạo ra môi trường, hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, mà còn tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho các ngành mới, khu vực mới, có tầm quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ba là, Nhà nước cũng là người cung ứng các nguồn vốn cho đất nước. Nhà nước là người quyết định phát hành tiền tệ, kiểm soát tất cả các hoạt động tín dụng và phân phối tín dụng. Ngoài ra, Nhà nước còn trợ giá, bù lỗ, quy định giá. Bốn là, Nhà nước chi tiêu bằng vốn ngân sách sẽ là người mua hàng lớn nhất của đất nước. Những khoản chi ngân sách nhà nước tạo thành một sức mua bằng tiền to lớn và đòi hỏi những hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phức tạp tạo ra những thị trường to lớn cho việc tiêu thu hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp. Trong bất cứ hình thái xã hội nào, sức mua do chi tiêu ngân sách nhà nước tạo ra là sức mua lớn nhất trên thị trường và đó là lực lượng tiêu thụ lớn nhất. Năm là, Nhà nước với tư cách là người có quyền lực, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát tài chính đối với các hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động tài chính của các doanh nghiệp. Những việc kinh doanh phạm pháp, những bê bối về tài chính của các doanh nghiệp, được Nhà nước xử lý theo pháp luật, bảo đảm cho các doanh nghiệp hoạt động theo yêu cầu của nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Các vấn đề tài chính trên tầm vĩ mô ấy chỉ có Nhà nước mới có khả năng chi phối, tác động đến mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội. Qua đó, Nhà nước vừa bắt buộc vừa tạo điều kiện cho các hoạt động trong nền kinh tế phát triển. Từ những vấn đề trên có thể khẳng định rằng, trong bất kỳ xã hội nào đặc biệt là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta; Nhà nước quản lý tài chính tiền tệ là tất yếu khách quan đồng thời cũng đòi hỏi chủ quan xuất phát từ bản chất Nhà nước ta. b- Nhiệm vụ chủ yếu quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ Quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ là quá trình tác động của Nhà nước vào các quan hệ tài chính tiền tệ nhằm hướng nó tác động vào các hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội phục vụ mục tiêu, chiến lược, kế hoạch phát triển đất nước nói chung và kinh tế xã hội nói riêng mà 10 Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ. Quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ đồng thời là quá trình sử dụng tài chính tiền tệ như là công cụ để quản lý và điều hành nền kinh tế, hướng các quan hệ kinh tế phát triển theo ý đồ của Nhà nước. Thực hiên đường lối đổi mới của Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta (Nhà nước của dân, do dân và vì dân), mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau đây: Một là, xây dựng, hình thành một hệ thống cơ chế mới, quản lý vĩ mô nền kinh tế, kích thích, thúc đẩy mọi tổ chức, cá nhân đầu tư và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thúc đẩy thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hai là, hình thành và bảo đảm các cân đối chủ yếu, tỉ lệ phát triển nền kinh tế, phân phối hợp lý quan hệ tích luỹ - tiêu dùng, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý cho sự phát triển trong từng giai đoạn và sự phát triển lâu dài. Ba là, thúc đẩy sự phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất chủ yếu; doanh nghiệp Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Bốn là, định hướng hoạt động và phát triển các thành phần kinh tế khác bằng chính sách tài chính cởi mở, khuyến khích, công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi. Năm là, khai thác triệt để mọi nguồn vốn, kỹ thuật, lao động, thị trường cho phát triển kinh tế - xã hội. Sáu là, mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế với nước ngoài, hoà nhập kinh tế với khu vực và thế giới, vì mục đích lợi ích cho đất nước. Bảy là, khai thác, nuôi dưỡng, tạo lập và phát triển các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện chính sách động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước; quản lý chặt chẽ các nguồn vốn cho phát triển kinh tế và thực hiện các chức năng khác của Nhà nước. Tám là, bảo đảm thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước. Chín là, bảo đảm ổn định thị trường, giá cả, ổn định giá trị đồng tiền, làm cơ sở cho ổn định và phát triển kinh tế. Mười là, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, bảo đảm chính sách tài chính tiền tệ nhất quán, giữ vững trật tự kỷ cương về kinh tế tài chính xã hội. Những điều trên được thực hiện theo nguyên tắc: - Nhà nước quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước và lưu thông tiền tệ theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Bảo đảm quyết định tập trung vào Quốc hội và sự điều hành của Chính phủ. Đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp trên cơ sở lợi ích quốc gia. - Phấn đấu cân bằng ngân sách tích cực, không in tiền để bù vào bội chi ngân sách, chi thường xuyên của ngân sách nhà nước không được vượt quá tổng số thu từ thuế và các khoản mang tính chất thuế. Bộ thu nếu có được đầu tư để phát triển. -Tài chính nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính. -Thực hiện nguyên tắc tự chủ về tài chính đối với các doanh nghiệp. Xoá bỏ mọi sự bù lỗ từ ngân sách nhà nước. -Tiết kiệm là quốc sách. Với những điều trên, quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ nhằm đảm bảo cân đối ngân sách vững chắc, ổn định tiền tệ, kìm hãm lạm phát, tạo điều kiện tài chính bền vững cho quá trình hội nhập vào khu vực. c- Yêu cầu quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước, quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ cần đáp ứng một số yêu cầu sau đây: Thứ nhất, giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích của người lao động theo hướng quan tâm đến lợi ích vật chất đạt được, mọi tổ chức, doanh nghiệp, 11 cá nhân tự giác thực hiện cơ chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế tài chính nói riêng của Nhà nước. Thứ hai, giải quyết hài hoà quan hệ trước mắt và lâu dài theo hướng có sự chuẩn bị nguồn tài chính cho sự phát triển lâu dài phù hợp với xu thế vận động của nền văn minh nhân loại, của khu vực và quá trình đổi mới của đất nước trên cơ sở không ngừng cải thiện đời sống trước mắt của nhân dân, chống lãng phí. Thứ ba, giải quyết hài hoà quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng với phương châm “tiêu dùng trong cái làm ra”. Ở đây, đòi hỏi tiêu dùng phải trên cơ sở phát triển sản xuất. Đời sống chỉ có thể được nâng cao trên cơ sở nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong tiến trình đổi mới kinh tế hiện nay, quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ cần giải quyết tốt một số vấn đề sau: - Tài chính tiền tệ phải tham gia giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và thị trường với phương châm tài chính tiền tệ tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải lấy thị trường làm cơ sở. Chỉ đầu tư vào những lĩnh vực, ngành, sản phẩm có thị trường nhằm hạn chế rủi ro. - Tài chính tiền tệ góp phần giải quyết việc rút ngắn dần khoảng cách giữa thị thành với nông thôn, miền xuôi với miền ngược, cũng như hạn chế những khuyết tật mà nền kinh tế thị trường tạo nên. - Thúc đẩy quá trình đô thị hoá đất nước và thị trường hoá nền kinh tế trên cơ sở dành tỷ lệ tài chính tiền tệ thoả đáng cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. - Bảo đảm đầy đủ nguồn tài chính để giải quyết những nhiệm vụ trọng yếu của Nhà nước trong từng thời kỳ. - Bảo đảm cân đối tài chính tích cực hàng năm có phần bổ sung dự trữ cũng như thanh toán dần nợ đến hạn. Giải quyết tốt những vấn đề trên là đòi họi và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ cũng như chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. 2.2. Quản lý Nhà nước về tài chính a- Quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất trong hệ thống tài chính quốc gia, là tiềm lực tài chính, là sức mạnh về mặt tài chính của Nhà nước. Quản lý và điều hạnh ngân sách nhà nước có tác dụng chi phối trực tiếp đến các hoạt động tài chính khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được Quốc hội quyết định và được thực hiện trong một năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách nhà nước là một thể thống nhất, trong đó có phân chia ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã, thị trấn). Nhiệm vụ của Ngân sách nhà nước là: - Huy động các nguồn thu cho Nhà nước từ thuế, phí, lệ phí; các khoản đống góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản vay nợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. - Phân phối sử dụng cho mục đích tích luỹ để phát triển và tiêu dùng trong việc thực hiện chức năng Ngân sách nhà nước gồm: chi phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, bộ máy Nhà nước, trả nợ, viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. - Hình thành quỹ dự trữ quốc gia. - Tổ chức cân đối Ngân sách nhà nước, bảo đảm yêu cầu điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước. - Kiểm tra, kiểm soát bảo đảm kỷ luật, kỷ cương pháp luật tài chính. 12 Ngân sách nhà nước được quản lý và điều hành theo Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 30/3/1996. Theo đó, những nội dung chủ yếu quản lý và điều hành Ngân sách nhà nước bao gồm: Thứ nhất, Ngân sách nhà nước được quản lý và điều hành theo chế độ kế hoạch hoá thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Kế hoạch ngân sách do Quốc hội thông qua hàng năm. Thứ hai, thực hiện phân quản lý Ngân sách nhà nước phù hợp với sự phân cấp hành chính. Theo đó, Ngân sách nhà nước được chia làm 4 cấp: -Cấp trung ương; -Cấp tỉnh; -Cấp huyện; -Cấp xã (phường) Tuy nhiên, việc phân công, phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước là phân công phân cấp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch thu, chi ngân sách cho các cấp trên cơ sở chế độ thống nhất. Cần thấy rõ phân công, phân cấp không phải là phân chia ngân sách. * Thứ 3, quản lý thuế nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước. Quản lý thuế cần tập trung thực hiện một số việc sau: Một là, tiếp tục cải cách, hoàn thiện các sắc luật về thuế theo các tiêu chuẩn cơ bản và hướng chính sau đây: -Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu. -Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: mục tiêu của thuế chủ yếu là kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho Ngân sách nhà nước; không nên đặt ra chi thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội. -Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư. -Đơn giản hoá chính sách thuế: đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận. -Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo sự công bằng xã hội. -Chính sách thuế phải đảm bảo ổn định trong một thời gian dài, tạo khả năng có thể dự đoán được; tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, dịch vụ. -Chính sách thuế phải tạo điều kiện cho khả năng kiểm soát được kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế. -Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội. -Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thuế không có hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thuế thu được. Hai là, tuyên truyền phổ biến sâu rông, thường xuyên trong mọi tổ chức và dân cư về các luật thuế. Văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thấy trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho nhân dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra về thuế. Ba là, tổ chức chỉ đạo công tác kê khai đăng ký, xét duyệt đăng ký sản xuất – kinh doanh làm cơ sở, căn cứ pháp lý để thu thuế. Bốn là, lập sổ thuế cho từng doanh nghiệp và hộ sản xuất – kinh doanh tại xã, phường, thị trấn. Sổ thuế được lập một lần và sử dụng trong nhiều năm; hàng năm, nếu có thay đổi về chính sách thuế, căn cứ tính thuế, thì các doanh nghiệp và hộ sản xuất – kinh doanh phải kê khai để được điều chỉnh lại. Năm là, chỉ đạo tổ chức thu thuế và nộp thuế. 13 Chính phủ tổ chức thực hiện các luật thuế. Các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan đến các luật thuế, phối hợp với Bộ Tài chính ra các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản cần thiết thuộc thẩm quyền để chỉ đạo thi hành các luật thuế. Chủ tịch UBND cấp huyện, thị xã thuộc tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo công tác thu thuế ở địa phương, duyệt sổ thuế các xã, phường, đề nghị cấp trên những vấn đề cần thiết. Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn có trách nhiệm trực tiếp tổ chức công tác thu thuế ở xã, phường, thị trấn. Hệ thống cơ quan thuế là cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát, tính thuế, thông báo thuế, thu thuế và xử phạt vi phạm pháp luật thuế của những tổ chức cá nhân nộp thuế, giúp UBND các cấp về công tác có liên quan đến trách nhiệm của UBND trong việc thực hiện luật thuế, phối hợp với cơ quan kho bạc nhà nước trong việc thu nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Sáu là, tổ chức kiểm tra thực hiện các luật thuế: Hệ thống thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính, thanh tra thuế có quyền và có trách nhiệm tổ chức công tác thanh tra về thuế. Các cấp chính quyền có trách nhiệm và quyền kiểm tra việc thi hành luật thuế trên cả hai mặt: kiểm tra những người nộp thuế thi hành nghĩa vụ nộp thuế và kiểm tra tổ chức thu thuế và cán bộ thuế thi hành luật thuế. Bảy là, củng cố và tăng cường lực lượng cán bộ thuế, tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ thuế, sắp xếp lại cán bộ thuế. Thứ tư, thực hiện quản lý tốt các nguồn chi chủ yếu của Ngân sách nhà nước: Một là, đối với nguồn chi thường xuyên thực hiện chi hợp lý và hiệu quả trên cơ sở tiết kiệm chống lãng phí. Chi thường xuyên được thực hiện theo chế độ thống nhất của Nhà nước, trên cơ sở kế hoạch Ngân sách nhà nước hàng năm. Hai là, đối với chi đầu tư phát triển được thực hiện theo hướng: -Dành tỉ lệ thoả đáng cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. -Bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. -Nâng cao hiệu quả kinh tế quốc doanh. Ba là, thực hiện kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với chi ngân sách. Trong đó thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra tài chính định kỳ, chế độ kiểm toán thường xuyên nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định của nhà nước. Đồng thời, qua đó chấn chỉnh chế độ chi ngân sách của Nhà nước cho phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước và công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. b- Quản lý nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Tài chính doanh nghiệp là cơ sở của hệ thống tài chính. Nó sáng tạo ra của cải vật chất và làm tăng thêm nguồn tài chính quốc gia. Tài chính doanh nghiệp là khâu tài chính gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở sản xuất, lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Nhiệm vụ cụ thể tài chính doanh nghiệp là: -Bảo đảm vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. -Tổ chức huy động vốn nhanh, tiết kiệm và có hiệu quả. -Kiểm tra tài chính bảo đảm đúng chính sách, chế độ, kế hoạch, luật pháp, an toàn vốn, tài sản. -Phân phối thu nhập, làm nghĩa vụ đối với nhà nước, hình thành các quỹ tiền tệ, tăng tích luỹ, mở rộng kinh doanh và cải thiện đời sống người lao động. Quản lý nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp, một mặt kích thích doanh nghiệp khai thác và sử dụng hợp lý mọi nguồn tài chính phát triển sản xuất, cạnh tranh trên thị trường một cách có hiệu quả nhất. 14 Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp nói chung được tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: Một là, Nhà nước chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế huy động mọi nguồn lực tài chính đầu tư vào phát triển kinh tế đất nước. Hai là, Nhà nước thực hiện quyền quản lý tài nguyên, tài sản công và giao cho các doanh nghiệp sử dụng trên nguyên tắc phải trả tiền, phải hoàn trả trong thời gian quy định, hoặc nộp tiền sử dụng vốn, thuế, sử dụng tài nguyên… Ba là, Nhà nước quản lý tài chính bằng đầu tư vốn vào các ngành kinh tế quan trọng mũi nhọn, đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Bốn là, Nhà nước tạo mội trường tài chính thuận lợi thực hiện chính sách tài chính cởi mở để khuyến khích các doanh nghiệp phát triển, có doanh lợi thoả đáng và bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Năm là, Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính trong việc khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, sử dụng nhiều lao động. Sáu là, Nhà nước quản lý giá cả hàng hoá nhằm ổn định thị trường, giá cả. Bảy là, Nhà nước bắt buộc tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải chấp hành chế độ kế toán, báo cáo tài chính của Nhà nước. Tám là, Nhà nước thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán đối với các doanh nghiệp. Chín là, Nhà nước quyết định công bố phá sản doanh nghiệp, thực hiện thanh lý tài sản theo Luật phá sản doanh nghiệp. Thứ hai, với tư cách là chủ sở hữu, quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo hướng cụ thể sau: -Quản lý nhà nước về tài chính qua cơ chế phân phối thu nhập: việc nộp các loại thuế và hình thành các quỹ theo quy định. -Quản lý trong việc tạo vốn, cân đối, bảo toàn vốn. Thực hiện xoá bỏ bao cấp về vốn. -Thông qua quản lý tài chính mà sắp xếp lại doanh nghiệp, có kế hoạch giải quyết về tài chính: trợ cấp vốn, trợ giá, miễn giảm nộp Ngân sách nhà nước trong một thời gian hoặc thực hiện sáp nhập, phân chia, cổ phần hoá, bán, cho thuê, giải thể. -Thực hiện chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cần thiết. -Nhà nước tài trợ kinh phí cho việc đào tạo lại, cho người đi tìm việc làm, giảm chi phí quản lý trong giá thành và phí lưu thông. -Nhà nước giải quyết những tồn tại cũ về tài chính trong các doanh nghiệp nhà nước, lỗ chưa được cấp, tổn thất cũ chưa được bù, công nợ dây dưa cũ chưa được giải quyết. -Quản lý và điều hành tiền lương, tiền thưởng gắn với kết quả cuối cùng, năng suất chất lượng, hiệu quả kinh doanh. -Các doanh nghiệp được quyền tiêu thụ hàng hoá trực tiếp, được quyền định giá bán, trừ một số sản phẩm độc quyền do Nhà nước quyết định giá; trong trường hợp này, tuỳ theo tính chất quan trọng của sản phẩm và vì lợi ích của chính sách nhà nước, Nhà nước có chính sách trợ giá. -Nhà nước thành lập tổng cục quản lý vốn và tài sản doanh nghiệp nhà nước, để quản lý vốn và tài sản thuộc sở hữu nhà nước, xoá bỏ đầu mối quản lý trung gian. -Xây dựng quy chế gắn trách nhiệm vật chất trong việc bảo tồn và phát huy vốn trong doanh nghiệp đối với người được nhà nước giao quyền sử dụng vốn, tài sản nhà nước. Những điều trên nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao được tính độc lập, tự chủ, huy động triệt để mọi tiềm năng tài chính trong cạnh tranh một cách có hiệu quả. c- Quản lý nhà nước đối vưói hoạt động bảo hiểm 15 Bảo hiểm là hình thức lập quỹ dự trữ từ sự đóng góp của những người tham gia đóng bảo hiểm tự nguyện và bắt buộc, đồng thời được bù đắp khi gặp tổn thất, rủi ro, ốm đau, mất sức, nghỉ hưu. Đặc điểm của khâu tài chính này là kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, lấy số đông bù số ít. Nhiệm vụ của bảo hiểm là: -Thu hút ngày càng đông đảo người được bảo hiểm tham gia vào các ngành và loại hình bảo hiểm, để hình thành và phát triển các quỹ bảo hiểm. -Thực hiện đúng đắn, kịp thời việc trả bảo hiểm -Thực hiện tích luỹ để mở rộng kinh doanh. -Kiểm tra tài chính đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bảo hiểm là hoạt động tài chính quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó vừa là điều kiện để khắc phục hậu quả khi có rủi ro, vừa là công cụ quan trọng trong việc huy động, điều hành và sử dụng các nguồn vốn trong nền kinh tế. Nhà nước đặc biệt coi trọng hoạt động này. Bảo hiểm có hai loại chính: -Bảo hiểm bắt buộc: là loại hình thực được pháp luật nhà nước quy định bắt buộc phải bảo hiểm. Nguyên tắc này có hiệu lực cả cơ quan bảo hiểm và người được bảo hiểm. -Bảo hiểm tự nguyện là hình thức bảo hiểm mà hai bên thoả thuận thông qua hợp đồng bảo hiểm. Nguyên tắc này áp dụng đối với người được bảo hiểm, còn đối với cơ quan bảo hiểm là bắt buộc. Nghĩa là khi người bảo hiểm yêu cầu thì cơ quan bảo hiểm không được từ chối bảo hiểm. Theo nội dung bảo hiểm, chế độ bảo hiểm Việt Nam chủ yếu gồm: -Bảo hiểm xã hội; -Bảo hiểm tài sản; -Bảo hiểm thân thể. Những nội dung chủ yếu quản lý nhà nước đối với bảo hiểm gồm: Thứ nhất, bảo hiểm xã hội được thực hiện theo loại hình bảo hiểm bắt buộc hay tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại hình doanh nghiệp để đảm bảo cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp. Thứ hai, đa dạng hoá các loại hình hoạt động bảo hiểm trong nền kinh tế, nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm bằng pháp luật, chính sách, chế độ. Thứ ba, ban hành hệ thống pháp luật làm chuẩn mực pháp lý cho các loại hình bảo hiểm: + Quy định điều kiện bắt buộc và thủ tục hành chính cho việc ra đời và hoạt động của cơ quan bảo hiểm; + Quy định chế độ và thủ tục về bảo hiểm và thực hiện bảo hiểm; + Quy định cơ chế hoạt động của cơ quan bảo hiểm chẳng hạn quy định mức dự trữ cần thiết, cơ chế đầu tư phát triển quỹ bảo hiểm… Thứ tư, thống nhất quản lý đối với bảo hiểm xã hội từ trung ương đến cơ sở thông qua hệ thống cơ quan lao động, thương binh và xã hội. Thống nhất về chế độ, mức chi trả, hình thức và phương pháp tính toán. Chế độ bảo hiểm xã hội nước ta phản ánh rõ bản chất tốt đẹp của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Thứ năm, thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong hoạt động bảo hiểm. d- Thanh tra tài chính, kiểm toán và chế độ kế toán. Trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước, công tác thanh tra tài chính, kiểm toán và chế độ kế toán đóng một vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là những công cụ vừa tác động vào nền kinh tế vừa trực tiếp xem xét hoạt động tài chính của các đơn vị, tổ chức, các doanh nghiệp. 16 Thứ nhất, thanh tra tài chính là nội dung hoạt động quản lý nhà nước, là công cụ quan trọng đặc biệt của nhà nước để một mặt xem xét, kiểm tra việc thực hiện chế độ tài chính ở các đơn vị, qua đó, phát hiện ngăn ngừa và xử lý các vi phạm đảm bảo các nguồn tài chính được quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả. Mặt khác, qua thanh tra tài chính phát hiện sự không phù hợp của chế độ tài chính, cơ chế tài chính của Nhà nước. Từ đó, đề xuất các biện pháp hoàn thiện. Với công cụ thanh tra tài chính nhà nước thực hiện nội dung một số công việc sau: Một là, ban hành chế độ tài chính. Hiện nay, thanh tra tài chính được Nhà nước coi là chế độ thường xuyên đối với các đơn vị sử dụng Ngân sách nhà nước. Hai là, quy định về nội dung phương pháp trình tự thanh tra tài chính. Ba là, quy định về thủ tục xử lý trong quá trình thanh tra tài chính. Bốn là, quy đinh về tiêu chuẩn, trình độ cũng như quy trình tuyển dụng cán bộ thanh tra. Thứ hai, Nhà nước sử dụng công tác kiểm toán như là công cụ tích cực để kiểm tra tình hình hoạt động tài chính, thực hiện chế độ tài chính, chế độ kế toán ở các đơn vị. Đó là cơ sở, là căn cứ để đơn vị Vì chấn chỉnh chế độ tài chính kế toán. Nhà nước quản lý đối với hoạt động này bao gồm các nội dung sau: Một là, ban hành hệ thống pháp luật làm căn cứ cho việc ra đời và hoạt động của cơ quan kiểm toán. Hai là, thành lập hệ thống kiểm toán nhà nước để thực hiện kế hoạch kiểm toán đối với ngân sách nhà nước và Chính phủ quy định. Ba là, quy định tiêu chuẩn, điều kiện cho các kiểm toán viên độc lập Tổ chức kiểm tra cấp giấy phép chứng nhận hành nghề cho các kiểm toán viên độc lập. Bốn là, ban hành quy định về nội dung, trình tự của công tác kiểm toán cũng như quy trình và phương thức xử lý qua kết luận của cơ quan kiểm toán. Năm là, thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với mọi hoạt động kiểm toán. Thứ ba, chế đọ kế toán nhà nước là chuẩn mực để ghi chép, đánh giá, tính toán các hoạt động tài chính ở đơn vị mà Nhà nước bắt buộc đối với mọi tổ chức, mọi hoạt động trong nền kinh tế. Để sử dụng công cụ kế toán một cách có hiệu quả trong quản lý kinh tế tài chính. Nhà nước tập trung giải quyết một số nội dung sau đây: Một là, không ngừng hoàn thiện hệ thống chế độ kế toán cho phù hợp với điều kiện đổi mới của nền kinh tế đất nước. Hai là, ban hành thống nhất chế độ kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo, hoá đơn chứng từ… cho các tổ chức, các đơn vị, các doanh nghiệp. Ba là, quy định về chế độ, tiêu chuẩn cũng như quy trình tuyển dụng, công nhận đối với kế toán trưởng đơn vị. Bốn là, xây dựng hệ thống thông tin về chế độ kế toán, kiểm toán…trong phạm vi cả nước nhằm nâng cao chất lượng của công tác kế toán. Năm là, thường xuyên kiểm tra, thanh tra đối với công tác kế toán (đặc biệt là qua kiểm toán, thanh tra tài chính) nhằm chấn chỉnh công tác kế toán và hoàn thiện chế độ kế toán. Sáu là, thực hiện tin học hoá công tác kế toán. 2.3- Quản lý nhà nước về lưu thông tiền tệ tín dụng 17 Mục tiêu quản lý nhà nước đối với lưu thông tiền tệ và tín dụng là ổn định tiền tệ, nâng cao sức mua của đồng tiền, tăng vòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, kích thích hoạt động tín dụng, ngân hàng phát triển lành mạnh, phục vụ tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước đề ra. Nhà nước quản lý lưu thông tiền tệ và tín dụng chủ yếu được thể hiện qua chính sách tiền tệ tín dụng, lãi suất, chính sách tiền tệ đối ngoại và quá trình quản lý đối với thị trường tài chính. a- Chính sách tiền tê, tín dụng, lãi suất Chính sách tiền tệ, tín dụng của Nhà nước tập trung một số mục tiêu chủ yếu: - Khai thác, huy động và tập trung mọi nguồn vốn trong nước và ngoài nước để mở rộng cho vay phát triển kinh tế. - Đa dạng hoá thành phần hoạt động tín dụng ngân hàng, đa dạng hoá hình thức tín dụng, thanh toán. - Thực hiện chính sách lãi suất thị trường. - Tạo dựng và phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán. - Nâng cao vai trò của Ngân hàng nhà nước trong phát hành và chủ động điều hoà lưu thông tiền tệ. - Thực hiện sự kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động tiền tệ tính dụng bằng pháp luật. Quản lý nhà nước về tiền tệ và tín dụng được thực hiện với các nội dung chủ yếu: Thứ nhất, quản lý nhà nước về tiền tệ: Một là, áp dụng chính sách tiền tệ tích cực vừa chống lạm phát, vừa đảm bảo cung ứng tiền tệ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ổn định. Hai là, Nhà nước độc quyền phát hành tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ. Ngân hàng nhà nước là cơ quan duy nhất quản lý thống nhất việc phát hành tiền giấy và tiền kim loại ra lưu thông. Nhà nước nghiêm cấm các hành vi: làm tiền giả, tàng trữ và lưu hành tiền giả, phá hoại tiền dùng tiền vào mục đích khác, làm biến đổi mầu sắc, mệnh giá tiền nhằm mục đích lừa đảo; từ chối không nhận tiền do Ngân hàng nhà nước phát hành. Ba là, Ngân hàng nhà nước tổ chức quy định việc mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước cho phát hành ngân phiếu rộng rãi; khuyến khích mở rộng sử dụng thẻ tiền mặt và séc chuyển khỏan và các hình thức thanh toán khác. Bốn là, Nhà nước thống nhất quản lý ngoại tệ, quản lý vàng. Ngân hàng nhà nước thực hiện việc kinh doanh ngoại tệ trên thị trường theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế, chủ động lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ quản lý của nhà nước về ngoại hối. Ngân hàng nhà nước thưc hiện quản lý xuất nhập khẩu vàng, lập quỹ dự trữ vàng, tổ chức mua bán vàng nhằm mục đích ổn định giá cả vàng và ổn định tiền tệ; cấp và thu hồi giấy phép các tổ chức kinh doanh vàng. Việc xuất nhập khẩu vàng do Ngân hàng nhà nước thực hiện. Các tổ chức, cá nhân muốn nhập khẩu vàng phải có giấy phép của Ngân hành nhà nước và người nước ngoài khi xuất nhập cảnh có mang theo tư trang vàng phải thực hiện đúng quy định điều lệ quản lý ngoại hối. Thứ hai, quản lý nhà nước về tín dụng: - Nhà nước quản lý tất cả các hoạt động tín dụng trong nền kinh tế của các thành phần kinh tế. Nhà nước quyết định thành lập hay giải thể các ngân hàng quốc doanh; cấp giấy phép, 18 thu hồi giấy phép kinh doanh tín dụng của tất cả các ngân hàng và tổ chứ tín dụng ngoài quốc doanh. - Bằng Luật Ngân hàng và các văn bản pháp quy quy định và kiểm tra việc chấp hành mức vốn pháp định, duy trì mức dự trũ tối thiểu bắt buộc, các nguyên tắc tín dụng, tôn trọng các tỉ lệ an toàn, nguyên tắc chống rủi ro, mức huy động vốn tối đa so với vốn tự có. - Nhà nước khống chế tổng mức tín dụng phù hợp với yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ và phân phối tổng hạn mức tín dụng có kế hoạch, có căn cứ khoa học cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tiền tệ. - Nhà nước định hướng hoạt động tín dụng theo mục đích chiến lược phát triển kinh tế xã hội. - Nhà nước quản lý chặt chẽ về tín dụng nhà nước trong việc thực hiện phát hành công trái, trái phiếu, tín phiếu, vay trả nợ nước ngoài. - Nhà nước quản lý tín dụng vì mục đích thực hiện chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ quốc gia, vì đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Thứ ba, quản lý nhà nước đối với lãi suất. - Nhà nước coi lãi suất như một công cụ quản lý, điều hành vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách lãi suất thích hợp để thu hút vốn và phân phối hợp lý cho yêu cầu phát triển kinh tế; điều tiết hoạt động kinh tế; điều hoà cung cấp vốn tiền tệ; điều chỉnh và kiểm soát khối lượng lưu thông tiền tệ thông qua lãi suất để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc nới lỏng. - Nhà nước quy định mức lãi suất cơ bản để các ngân hàng kinh doanh vận dụng nhằm vừa để ổn định lãi suât, vừa chống tình trạng cho vay nặng lãi, chèn ép lãi suất của người gửi tiền. - Nhà nước quy định mức lãi suất tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá nhằm khuyến khích hay hạn chế cho vay vốn với các ngân hàng kinh doanh vì mục đích thực hiện chính sách tiền tệ. - Nhà nước xoá bỏ bao cấp trong chính sách lãi suất, công bằng trong lãi suất đối với các thành phần kinh tế, từng bước xoá bỏ chính sách xã hội trong lãi suất. - Nhà nước áp dụng chính sách lãi suất tài trợ đối với các dự án khuyến khích như: xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi trọc…bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nhà nước cũng áp dụng chính sách lãi suất thích hợp để huy động qua công trái, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, trong quá trình thực hiện tín dụng nhà nước. b- Quàn lý nhà nước đối với thị trường tài chính Sự giao dịch giữa cung và cầu về vốn trên thị trường hình thành thị trường tài chính. Ban đầu sự hình thành thị trường này xảy ra dưới hình thức vay và cho vay. Đây là hành vi mua bán quyền sử dụng vốn, không mua bán quyền sở hữu vốn. Khi các công ty cổ phần ra đời xuất hiện việc mua bán cổ phiếu. Điều đó làm cho thị trường tài chính phát triển ngày càng phong phú. Thị trường tài chính là hoạt động giao dịch về vốn tiền tệ giữa người có vốn với người cần vốn dưới hình thức vay, trả, chuyển nhượng các loại vốn và giấy tờ có giá nhằm mục đích kiếm lời. Cơ cấu của thị trường tài chính gồm: 19 - Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn có thời gian sử dụng từ 1 năm trở xuống. - Thị trường vốn (hay còn gọi là thị trường đầu tư): là thị trường cốn có thời gian sử dụng lớn hơn 1 năm. - Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán, giao dịch chứng khoán. - Thị trường ngoại hối là thị trường phán ánh quan hệ giữa tiền nội địa với ngoại tệ, đặc biệt là USD. Nhà nước quản lý đối với thị trường tài chính là thực hiện quản lý các thị trường trên. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước quản lý thị trường tài chính một mặt tác động vào các yếu tố hình thành thị trường để hướng nó phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Mặt khác, thông qua thị trường tài chính để Nhà nước dùng công cụ tài chính tiền tệ điều chỉnh, phục vụ các mục tiêu của Nhà nước. Nó có ý nghĩa quyết định đối với quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và tài chính tiền tệ nói riêng. Quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính được thực hiện thông qua những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với thị trường tiền tệ: - Ban hành hệ thống pháp luật làm căn cứ và môi trường pháp lý chỗ thị trường tiền tệ hoạt động. - Ban hành hệ thống chính sách để điều chỉnh thị trường tiền tệ. Trong đó quan trọng nhất là chính sách lãi suất, chính sách về lượng tiền trong lưu thông… - Chống lạm phát. - Chính sách kích thích tiêu dùng (kích cầu về vốn tiền tệ). - Thực hiện thanh tra, kiểm tra những vi phạm trong hoạt động của thị trường tiền tệ. Thứ hai, quản lý nhà nước đối với thị trường vốn (thị trường đầu tư). - Ban hành hệ thống các chính sách để quản lý, điều tiết hoạt động vay và cho vay. Trong đó quan trọng nhất là: + Chính sách về thời hạn vay, mức vay; + Chính sách lãi suất ưu đãi. + Chính sách về thế chấp, tín chấp. - Chính sách ưu đãi trong đầu tư.Ở đây chủ yếu là dùng chính lãi suất và thuế ưu đãi. - Thực hiện thanh tra, kiểm tra. Thứ ba, quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán: - Ban hành hệ thống pháp luật cho thị trường chứng khoán hoạt động và quy định các điều kiện pháp lý cho việc phát hành chứng khoán, tham gia kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng khoán… - Tổ chức quản lý quá trình giao dịch, mua bán chứng khoán ở thị trường (các trung tâm chứng khoán). - Thông qua các công cụ tài chính để điều chỉnh, kích thích thị trường chứng khoán hoạt động. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan