Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở việt nam hiện nay

.PDF
98
21
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ HOÀNG DƢƠNG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ HO¹T §éNG CñA LUËT S¦ ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ HOÀNG DƢƠNG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ HO¹T §éNG CñA LUËT S¦ ë VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8380101.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TÔ VĂN HÒA HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Hoàng Dƣơng MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ ..................................... 7 1.1. Khái quát về luật sƣ, nghề luật sƣ .................................................... 7 1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của luật sư ............................................... 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nghề luật sư ............................................... 15 1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của QLNN về hoạt động của luật sƣ ................................................................................................ 21 1.2.1. Khái niệm QLNN về hoạt động của luật sư ....................................... 21 1.2.2. Đặc điểm của QLNN về hoạt động của luật sư.................................. 22 1.2.3. Vai trò của QLNN về hoạt động của luật sư ...................................... 23 1.3. Nội dung, hình thức và phƣơng pháp QLNN về hoạt động của luật sƣ ......................................................................................... 24 1.3.1. Nội dung của QLNN về hoạt động của luật sư .................................. 24 1.3.2. Hình thức của QLNN về hoạt động của luật sư ................................. 28 1.3.3. Phương pháp QLNN về hoạt động của luật sư .................................. 29 1.4. QLNN về hoạt động của luật sƣ và tự quản của luật sƣ............... 33 Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 36 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 37 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về QLNN về hoạt động của luật sự ................................................................................................ 37 2.2. Thực tiễn QLNN về hoạt động của luật sƣ ở Việt Nam hiện nay ..... 41 2.2.1. Quyết định chiến lược, chính sách phát triển nghề luật sư, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư ............................... 41 2.2.2. Đào tạo nghề luật sư ........................................................................... 43 2.2.3. Cấp, thu hồi Chứng chỉ HNLS, Giấy đăng ký hoạt động, Giấy phép hành nghề................................................................................... 45 2.2.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và HNLS .................................................................... 48 2.2.5. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư ..................... 50 2.3. Đánh giá công tác QLNN về hoạt động của luật sƣ ...................... 54 2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân ........................................................ 54 2.3.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ............................................. 57 Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 65 CHƢƠNG 3: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM ................................................................................... 66 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện QLNN về luật sƣ.............................. 66 3.1.1. Nhu cầu thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng ....................... 66 3.1.2. Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ......................... 68 3.1.3. Nhu cầu CCTP, CCHC và xây dựng NNPQ XHCN ......................... 68 3.1.4. Nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN........ 69 3.2. Quan điểm hoàn thiện QLNN về luật sƣ........................................ 70 3.2.1. QLNN về hoạt đông của luật sư trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước về quản lý luật sư ................................................ 70 3.2.2. QLNN về hoạt động của luật sư trên cơ sở kết hợp giữa QLNN và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư........ 71 3.2.3. QLNN về hoạt động của luật sư có xem xét đến tính đặc thù ........... 72 3.3. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện QLNN về hoạt động của luật sƣ ..... 73 3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với hoạt động luật sư ................ 73 3.3.2. Đẩy mạnh công tác phối hợp QLNN về hoạt động của luật sư ......... 77 3.3.3. Kết hợp hài hòa giữa QLNN với việc phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư .................................................. 78 3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về tổ chức và hoạt động của các TCHNLS, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân ..... 80 3.3.5. Nâng cao chất lượng và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ luật sư và các TCHNLS ................................................................................. 81 Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 84 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CCTP: Cải cách tư pháp HNLS: Hành nghề luật sư NNPQ: Nhà nước pháp quyền QLNN: Quản lý nhà nước TCHNLS: Tổ chức hành nghề luật sư TTHC: Thủ tục hành chính UBND: Ủy ban nhân dân VPHC: Vi phạm hành chính XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xã hội ngày một phát triển, cùng với đó là sự nảy sinh đa dạng mối quan hệ giữa công dân, tổ chức với nhau, giữa công dân, tổ chức với nhà nước. Một khi những mối quan hệ này phát sinh mâu thuẫn, thì thực tiễn cho thấy đội ngũ luật sư, với sự am hiểu pháp luật và kinh nghiệm hành nghề của mình, luôn là lực lượng bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Bên cạnh đó, Luật sư hiện nay có đóng góp tích cực trong việc tham gia tranh tụng, giảm thiểu những vụ án oan sai, khiếu kiện kéo dài, cũng chính là chung tay cùng hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng, nhà nước nói chung trong bảo đảm quyền con người. Nhận thức được vai trò quan trọng nói trên của đội ngũ luật sư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chú trọng việc thiết lập hành lang thể chế, pháp lý để đội ngũ này phát huy được vai trò của mình. Luật Luật sư lần đầu tiên được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 22/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Việc ban hành Luật Luật sư là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương tại Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược CCTP đến năm 2020, theo đó: Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình. 1 Sau 06 năm thi hành Luật Luật sư 2006, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư (Luật sửa đổi Luật Luật sư 2012) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012. Luật Luật sư 2006, Luật bổ sung một số điều của Luật Luật sư 2012, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, cùng các văn bản pháp luật có liên quan khác đã tạo nên khung thể, pháp luật đối với luật sự khá hoàn thiện, thống nhất, ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Không dừng lại ở đó, các quy định của pháp luật luôn được sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi hơn cho hoạt động hành nghề của luật sư. Hiến pháp 2013 đã có những quy định tiến bộ liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và liên quan tới hoạt động hành nghề luật sư như: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Hiến pháp năm 2013 cũng đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử được bảo đảm (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013). Nhiều đạo luật quan trọng được sửa đổi bổ sung theo tinh thần của Hiến pháp như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Bộ luật Tố tụng hành chính được Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 6 thông qua trong năm 2015 đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động hành nghề của luật sư. Tuy nhiên, vấn đề thi hành pháp luật, bảo đảm thực thi các quy định này trên thực tế vẫn còn có những hạn chế, bất cập. Nhiều luật sư vẫn gặp cản trở, khó khăn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp trong quá trình hành nghề... Mặt khác, hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở các địa phương còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng nhiều luật sư, tổ chức hành nghề có hành vi vi phạm pháp luật; một số cơ quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội còn chưa nhận 2 thức đầy đủ về vị trí, vai trò của luật sư, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của luật sư Những hạn chế, bất cập này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: từ thể chế chính sách, pháp luật và cả từ những tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối với luật sư. Vì lý do đó, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Thông qua việc nghiên cứu sẽ làm rõ hơn, bổ sung cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư trên cả nước, từ đó đề ra những quan điểm và giải pháp đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư tại ở Việt Nam hiện nay. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài Đề tài làm rõ cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam, từ thực tiễn tại một số địa phương và đặc biệt trong bối cảnh Luật sửa đổi và bổ sung Luật Luật sư 2012 qua thời gian thi hành đã bộc lộ một số hạn chế. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam trong thời gian tới Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về hoạt động của luật sự ở Việt Nam. - Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sự ở Việt Nam hiện nay, từ thực trạng qui định của pháp luật và thực tiễn thi hành. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư trong thời gian tới. 3. Tính mới của đề tài nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài đạt được những điểm mới sau: - Luận văn làm rõ cơ sở quy định về quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam 3 - Trên cơ sở nghiên cứu của các quy định của pháp luật về luật sư, luận văn làm rõ thực trạng công tác quản lý hành nhà nước về hoạt động của luật sự tại Việt Nam hiện nay, chỉ rõ các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong công tác này. - Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay Phạm vi nghiên cứu Luận văn phân tích các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam, các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này, đối chiếu với qui định pháp luật luật trước đây và so sánh, đối chiếu với với pháp luật nước ngoài; nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư tại một số địa phương để chỉ ra những điểm tiến bộ, những bất cập để có được phương hướng sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật. 5. Tình hình nghiên cứu của đề tài So với thế giới, nghề luật sự cũng như pháp luật về luật sư ở Việt Nam còn khá non trẻ. Chính vì thế, tuy đã có những công trình nghiên cứu cụ thể, nhưng nhìn chung các công trình này còn chưa toàn diện, thiếu tính hệ thông. Đặc biệt, vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động luật sư còn chưa được chú trọng đúng mức, ít cả về số lượng, chất lượng, cũng như tính chất chuyên sâu. Xin nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến luật sự và quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư: - Nguyễn Văn Tuân (2002), Luật sư và hành nghề luật sư, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 4 - Lê Hồng Hạnh (2002), Đạo đức và kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội; - Phan Trung Hoài (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; - Phan Trung Hoài (2006), Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; - Nguyễn Văn Bốn, (2006) Luận văn thạc sĩ Luật học“Cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật sư ở Việt Nam hiện nay”. - Nguyễn Văn Bốn, Quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam - thực trạng và định hướng trong thời gian tới, Quản lý nhà nước. Số 1/2013, tr. 40 - 44. - Dương Bạch Long, Quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, công chứng, giám định tư pháp và định hướng đổi mới, Dân chủ và Pháp luật. 2019. - Số 6, tr. 14-19. - Phạm Thùy Linh, Luận văn thạc sĩ luật học, Công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đại học Luật Hà Nội, 2017. - Nguyễn Phước Thọ, Đổi mới mô hình quản lý luật sư trong tình hình mới, Dân chủ và Pháp luật. 2019. - Số 6, tr. 20-24. Và một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Khoa học pháp lý… Các công trình nêu trên đã có những đóng góp nhất định về cơ sở lý luận, thực trạng tổ chức, hoạt động của luật sư, cũng như kiến nghị một số giải pháp cơ bản như xây dựng pháp luật về luật sư, phát huy vai trò và vị trí của luật sư trong hội nhập kinh tế quốc tế; kỹ năng hành nghề luật sư, phát huy vai trò tự quản của Đoàn luật sư.... 5 Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống, toàn diện và cụ thể về vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài luật văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay” sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống nghiên cứu hiện hành, làm rõ thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn về thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư trên địa bàn của nước, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục, nhằm thúc đẩy sự phát triển nghề luật sư nói chung và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư nói riêng. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; và một số phương pháp khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng trong tất cả các chương, mục của luận văn nhằm luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư. Phương pháp cấu trúc hệ thống: Nhằm nhận diện và đánh giá tính hợp lý và hiệu quả của quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam. Phương pháp thống kê: Tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận của QLNN về hoạt động của luật sư. Chương 2: Thực trạng QLNN về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về hoạt động của luật sư ở Việt Nam hiện nay. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƢ 1.1. Khái quát về luật sƣ, nghề luật sƣ 1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của luật sư 1.1.1.1. Khái niệm Trong lịch sử, chế định luật sư xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu gắn liền với quyền bào chữa và Tòa Án. Vào giao đoạn cuối cùng của nền Cộng hòa thứ IV Đế chế La Mã, chế độ bào chữa bắt đầu phát triển, người bị kiện đã biết nhờ người thân mà mình tín nhiệm bào chữa cho mình. Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm bảo vệ quyền cho người yếu tố trước sự bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán của giai cấp thống trị nên được số đông ủng hộ và dần thu hút nhiều người tham gia bào chữa trước tòa án [42, tr.5-6]. Khoảng thế kỷ I trước Công Nguyên đến thế kỷ II sau Công nguyên, tại Hy Lạp và La Mã đã xuất hiện một loại hiệp sĩ đặc biệt, không dùng khí giới hay sức mạnh về thể lực để chiến thắng kẻ địch, mà chỉ dùng ngôn ngữ và sự am hiểu luật pháp để đứng ra bênh vực cho những kẻ nghèo, yếu thế, hoặc phụ nữ bị ngược đãi trước các thế lực đương thời. Họ được gọi là "người biện hộ” (Tiếng Latin: Advocatus). Số lượng các hiệp sĩ phát triển ngày càng đông và đến thế kỷ IV sau Công nguyên, họ tập hợp tại Rome thành một đoàn thể được độc quyền biện hộ trước Hoàng đế. Đến cuối thế kỷ VIII, danh xưng "Advocatus" được nhà vua chính thức công nhận và trao quyền biện hộ trước tòa cho 17 vị. Đó là nền móng đầu tiên cho việc hình thành và phát triển của định chế luật sư trên thế giới [26, tr.14]. Ngày nay, vì vai trò không thể phủ nhận đối với xã hội, sự phát triển của đội ngũ luật sư luôn là điều mà các quốc gia quan tâm đặc biệt. Ở mỗi 7 quốc gia thì tên gọi và cách hiểu về luật sư cũng rất đa dạng; xuất phát từ đặc thù lịch sử, văn hóa, hệ thống pháp luật ở mỗi nước. Ví dụ, tại Anh quốc, lawyer là từ chung nhất để diễn tả người hành nghề luật, tùy theo vai trò khác nhau mà luật sư còn được gọi là barrister – luật sư tranh tụng tại toà án ở các quốc gia thuộc hệ thống Thông luật; soliciter – luật sư tư vấn hay attorney khi đóng vai trò người được ủy quyền, đại diện cho khách hàng. Từ attorney hay counsel cũng được dùng để chỉ luật sư ở Hoa Kỳ theo nghĩa trang trọng hoặc cho biết một chức danh, ví dụ: Attorney General – Tổng chưởng lý/Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ). Tại Ấn Độ, lawyer cũng là một thuật ngữ thông dụng, tuy nhiên theo đạo luật luật sư (Advocates Act, 1961), luật sư ở nước này được gọi là “advocate” Ở Việt Nam, luật sư, với tư cách là một nghề nghiệp đã xuất hiện hơn một thế kỷ. Ngày 30/01/1911, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương Antony Wladislas Klobukowski ký Sắc lệnh thành lập Đoàn luật sư Sài Gòn và Hà Nội [55]. Thành viên luật sư đoàn là các luật sư đã tốt nghiệp trường luật ở Pháp, có quốc tịch Pháp. Chủ trương của Klobukowski khi đó là mở rộng nghề luật sư theo hướng không chỉ người Pháp và người Việt mang quốc tịch Pháp mới được làm luật sư, mà người Việt mang quốc tịch Việt Nam cũng được làm luật sư nếu hội đủ các điều kiện theo luật định. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, trong đó có ảnh hưởng của cuộc trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, quan niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong xã hội chưa được thừa nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta trong suốt một thời gian dài cho đến thời điểm ban hành Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987[55]. Về khái niệm “luật sư”, việc định nghĩa khái niệm này luôn là vấn đề được quan tâm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam. Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, không phải lúc nào pháp luật sở tại cũng đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa thế nào là luật sư. Tại các nước có 8 nghề luật sư phát triển, việc đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa thế nào là luật sư chỉ mang tính quy ước, khái niệm luật sư thường mang tính hình thức hơn là khái niệm về mặt nội dung. Ở Việt Nam, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 đã chính thức hóa thuật ngữ “luật sư”, không đưa ra một khái niệm hay định nghĩa hoàn chỉnh về luật sư mà chỉ quy định người muốn trở thành luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư. Qua quá trình sửa đổi, thay thế, Luật luật sư hiện hành quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức” [33]. Cách định nghĩa này của pháp luật Việt Nam tương tự pháp luật các quốc gia khác, không đưa ra khái niệm luật sư mà chỉ quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư So sánh với khái niệm “luật gia” một khái niệm gần gũi trong hệ thống ngành nghề luật, thì Điều lệ Hội luật gia Việt Nam cũng không đưa ra khái niệm thế nào là luật gia và chỉ đưa ra tiêu chuẩn hội viên [1]. Tuy không đưa ra khái niệm cụ thể nhưng từ quy định này cũng có thể thấy điểm khác biệt chính giữa luật sư và luật gia theo quy định của pháp luật Việt Nam thể hiện ở những điểm sau: - Luật gia có thể là người hiện đang làm cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, luật sư thì không thể; - Luật sư có thể là luật gia nếu xin gia nhập Hội Luật gia, nhưng luật gia nếu muốn trở thành luật sư phải trải qua quá trình đào tạo, cấp chứng chỉ, gia nhập tổ chức nghề nghiệp, trừ các trường hợp đặc biệt được miễn theo quy định của Luật luật sư. 1.1.1.2. Bản chất của luật sư Xem xét bản chất của luật sư là xem xét các yếu tố tác động đến quá trình hình thành quan niệm về luật sư và nghề luật sư, đặt vị trí luật sư trong các mối quan hệ chi phối đến hoạt động nghề nghiệp và xem xét các yếu tố 9 này trong tổng thể mặt bằng các giá trị của dân chủ. Bản chất của luật sư những thuộc tính riêng, những mối liên hệ ở bên trong của khái niệm này, quy định sự vận động và phát triển của một loại chủ thể nhất định trong xã hội. Đó không chỉ là thuộc tính của hoạt động xã hội nói chung mà còn cả các thuộc tính tự nhiên gắn liền với luật sư nói riêng, như vậy về bản chất hoạt động luật sư cũng sẽ có nhưng nét tương đồng nhất định với các hoạt động nghề nghiệp khác bên cạnh những đặc thù riêng có. Nhằm làm sáng tỏ bản chất của luật sư, cần đề cập đến các thuộc tính đặc trưng sau đây: - Tính xã hội của luật sƣ: Đây là bản chất hoạt động của luật sư cũng như các ngành nghề khác gắn liền với các hoạt động xã hội. Không thể có hoạt động luật sư nào lại tách rời khỏi xã hội, các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh chính là “môi trường” hoạt động của luật sư. Mất đi môi trường và các đối tượng phục vụ là các chủ thể xã hội là mất đi nền tảng hoạt động của luật sư. Ngược lại bản chất xã hội của luật sư cũng được phản ánh bởi nhu cầu của xã hội đối với luật sư. Đó là nhu cầu đem lại sự ổn định cho xã hội, mang đến cho các chủ thể xã hội sự trợ giúp về mặt pháp lý theo các mức độ khác nhau dựa trên kiến thức pháp lý, khả năng hành nghề. - Tính dân chủ của luật sƣ: Đây là thuộc tính bản chất của luật sư xuất phát từ sự yếu tố bên trong, từ sự hình thành chế độ luật sư trong lịch sử, đó là quyền bào chữa của bị can, bị cáo, một trong những hình thức đầu tiên và cơ bản nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Quyền này đã được chính thức ghi nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hợp quốc: “bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ” [18]. Mặt khác, tính dân chủ trong hoạt động của luật sư cũng là đòi hỏi của xã hội Việt Nam nói riêng trong thời kỳ xây nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luật sư với vị thế, chức năng của mình mang đến cho 10 xã hội nói chung, tư pháp nói riêng những giá trị của dân chủ, thông qua việc biện hộ trước tòa án, đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước những hành vi xâm phạm. Quan trọng hơn, với kiến thức pháp lý, môi trường làm việc là pháp luật, luật sư luôn có những ý kiến đóng góp, phản biện có giá trị đối với nhà nước, là một chủ thể giám sát tử bên ngoài với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Thuộc tính dân chủ còn mang giá trị định hướng cho hoạt động của luật sư, đó là hoạt động vì mục tiêu xã hội, phục vụ nhân dân, là cầu nối phản ánh nguyện vọng của các chủ thể dân sự với Nhà nước. - Tính tuân thủ phát luật của luật sƣ: Bản chất hoạt động luật sư trước hết phải được thể hiện ở việc tuân thủ pháp luật của người HNLS, dựa vào pháp luật để bảo về quyền và lợi ích cho công dân, tổ chức. Hoạt động của luật sư phục vụ những nhiệm vụ, mục đích nói trên phải dựa trên cơ sở pháp luật, bảo đảm sự thật khách quan và trên tất cả là công lý, lẽ công bằng. Tuân thủ pháp luật là bản chất nhưng cũng là yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động của luật sư trong nhà nước pháp. Đặt trong mối tương quan với các ngành nghề khác trong xã hội vốn cũng phải tuân thủ pháp luật trong hoạt động của mình, yêu cầu tuân thủ pháp luật trong hoạt động của luật sư thậm chí cao hơn, vì trước hết pháp luật là “môi trường” HNLS, luật sư sử dụng kiến thức, hiểu biết pháp luật của mình như là công cụ để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong xã hội; thứ hai là để tuyên truyền, giáo dục cho chính thân chủ của mình về việc tuân thủ pháp luật. - Tính độc lập của luật sƣ: Khi xác định tính độc lập là một thuộc tính bản chất của luật sư, cần hiểu đây là quan niệm có ý nghĩa tương đối. Có thể nói, tính độc lập là thuộc tính phái sinh từ tính dân chủ trong hoạt động của luật sư. Tính dân chủ trong hoạt động của luật sư là bản chất, cũng là đòi hỏi cần có để hoạt động HNLS đạt hiệu quả. Theo đó, luật sư phải có vị thể độc lập, độc lập ở đây được hiểu là độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng, độc 11 lập với thân chủ của mình theo một nghĩa nào đó, và độc lập cả với những đồng nghiệp của mình. Nói đến tính độc lập như một bản chất trong hoạt động của luật sư nhằm nhấm mạnh, sáng tỏ phương thức hoạt động của đối tượng này với các chủ thế tư pháp khác trong bối cảnh NNPQ, cũng là cơ sở lý luận cho việc xác định vị thế là một chức danh tư pháp độc lập của luật sư. Cũng như tính dân chủ, tính độc lập là bản chất cũng là điều kiện tất yếu cho hoạt động của luật sư, bao trùm cả hoạt động của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư. Điều này thể hiện rõ nét nhất trong tính tự quản của tổ chức này: tự quản về tổ chức và hoạt động, tính chịu trách nhiệm cá nhân của từng luật sư trong hành nghề. So sánh với một chức danh tư pháp khác là thẩm phán, với tính độc lập và tuân theo pháp luật là bản chất trong hoạt động, thì nội hàm của độc lập trong hoạt động của thẩm phán cũng có những khác biệt so với luật sư. Độc lập của thẩm phán xét trên phương diện nào đó là đòi hỏi cao hơn so với luật sư. Đó là độc lập với yếu tố bên trong: độc lập với các thành viên hội đồng xét xử, độc lập với các yếu tố bên ngoài: cơ quan công tố, cơ quan điều tra; độc lập giữa các cấp xét xử. - Uy tín nghề nghiệp cá nhân luật sƣ: Nghề nghiệp nào càng gây ảnh hưởng đến số đông, đến tính mạng con người hay nắm trong tay quyền lực nhà nước như: nghị sĩ, thẩm phán, bác sĩ... thì uy tín cá nhân của người hành nghề đó càng quan trọng. Luật sư cũng không nằm ngoài số đó. Trong nền kinh tế thị trường, luật sư càng giao kết “tự do”, thì càng phải chịu trách nhiệm cá nhân lớn hơn, cũng như đề cao uy tín nghề nghiệp bởi khách hàng thường tín nhiệm yêu cầu đích danh luật sư, chứ không phải tổ chức hành nghề hay tổ chức nghề nghiệp luật sư. Mặc dù tổ chức hành nghề là nơi tiếp nhận yêu cầu của khác hàng nhưng nhưng luật sư cụ thể mới là người giải quyết yêu cầu đó. Trong NNPQ, uy tín của luật sư còn là yêu cầu nội tại, là 12 đòi hỏi cho sự phát triển đội ngũ luật sư và trong toàn bộ quá trình hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải tự bảo vệ uy tín cá nhân vì mất đi uy tín cá nhân chính là mất bản chất của luật sư trong cạnh tranh nghề nghiệp. Quan trọng hơn là mất đi sự tin cậy của xã hội đối với toàn bộ tổ chức luật sư, cơ sở xã hội cho sự tồn tại của nghề nghiệp cũng theo đó mất đi 1.1.1.3. Vai trò của luật sư Nói đến vai trò của luật sư là nói tới tác động, ảnh hưởng của luật sư đối với cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động của mình; đối với xã hội thông qua chức năng, bản chất cao quý của nghề nghiệp, đối với quá trình xây dựng và phát triển dân chủ, tạo lập công bằng xã hội. Để hỗ trợ các quốc gia phát triển và đảm bảo vai trò chính đáng của luật sư, cũng như đảm bảo sự tôn trọng bởi các chính phủ cũng như thẩm phán, công tố viên, các thành viên của hành pháp, lập pháp và công chúng nói chung trong khuôn khổ luật pháp và tập quán quốc gia, Hội nghị Liên hiệp quốc lần thứ 8 về phòng chống tội phạm và xử lý người phạm tội, tổ chức tại Havana (Cuba) từ 27/08 đến 07/09/1990 đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư” (Basic Principles on the Role of Lawyers). Vai trò của luật sư được quan niệm theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Có ý kiến cho rằng vai trò của luật sư thể hiện trên ba phương diện: bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước tòa; vai trò của luật sư trong hoạt động tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức; vai trò của luật sư trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật [45]. Quan niệm khác lại xem xét vai trò của luật sư trên bình diện truyền thống và hiện đại, trong đó luật sư có tác dụng hữu hiệu đối với việc bảo vệ quyền và tăng cường thể chế pháp quyền; bênh vực và bảo vệ kẻ yếu; tham gia và đóng góp tích cực vào quá trình soạn thảo luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực và ý thức xã hội trong tiếp cận với dân chủ và pháp 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan