Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn huyện đức cơ tỉnh gia lai...

Tài liệu Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn huyện đức cơ tỉnh gia lai

.PDF
63
298
122

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOÀNG LY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và hành chính Mã số: 8380102 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐING NGỌC VƯỢNG ĐĂK LĂK - 2019 MỤC LỤC MỞ ĐẦU -----------------------------------------------------------------------------------1 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH ----------------------------------------------------------------------------------------7 1.1. Hộ tịch -------------------------------------------------------------------------------7 1.2. Quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch ------------------------------------- 10 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH Ở HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI ------------------------------------------------- 24 2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế-xã hội của huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai -------- 24 2.2. Tình hình quản lý nhà nước về hộ tịch ở Huyện Đức Cơ ----------------- 25 2.3. Đánh giá việc thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn huyện --------- 36 CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY -------------------------------------------------- 43 3.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch ----------------- 43 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai ------------------------------------------------------------------------------ 46 KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------------------------ 57 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO------------------------------------------- 59 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước ta, theo Điều 2 Hiến pháp 2013, là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, ở đó, pháp luật được xem là tối thượng, mọi hoạt động của xã hội, của con người luôn luôn phải tuân thủ theo pháp luật. Vì vậy, nhà nước đã thiết lập ra một hệ thống pháp luật chặt chẽ, trước tiên là để quản lý trật tự xã hội, sau là để bảo vệ cho mình những con người sống trong xã hội đó không bị áp bức, bóc lột, bất công, đem lại sự công bằng, bình đẳng cho tất cả mọi người. Nhà nước nên có trách nhiệm quản lý thống nhất từ Trung ương đến cơ sở các thông tin về hộ tịch như tên, tuổi, quê quán, quốc tịch, mã số định danh cá nhân,… vì đó là những vấn đề mang tính mật thiết đến từng cá nhân từ khi sinh ra đến khi mất đi. Quản lý Nhà nước, quản lý hộ tịch là một lĩnh vực quan trọng của nền hành chính, ở đó, mọi quốc gia đương đại, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển cao hay thấp, là vị trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Sự vững mạnh của một quốc gia là kết quả của cả quá trình hoạt động quản lý dân cư cũng như quản lý hộ tịch. Có thể thấy tầm quan trọng của các vấn đề pháp lý về quản lý hộ tịch tương tự như các vấn đề pháp lý về quốc tịch, về biên giới quốc gia, về tổ chức bộ máy nhà nước… Quản lý hộ tịch hiện nay được thực hiện theo Luật Hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Trong thời gian qua, các cấp chính quyền đã có nhiều cố gắng, tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý hộ tịch.Vì vậy, quản lý hộ tịch đã dần đi vào 1 nề nếp, đạt được những kết quả nhất định: Số trẻ em được đăng ký khai sinh đạt tỷ lệ cao, đăng ký kết hôn đúng quy định…. Mặc dù công tác quản lý hộ tịch đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế như: Trình độ, năng lực của một số đội ngũ công chức làm công tác quản lý hộ tịch (nhất là ở cấp xã) chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch chưa thực sự được quan tâm…. Do đó, hiệu quả quản lý Nhà nước về hộ tịch giảm đi. Là một huyện biên giới của tỉnh Gia Lai, trong những năm qua, huyện Đức Cơ đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện.Với sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp uỷ, các cấp chính quyền (huyện, xã) quản lý về hộ tịch ở Đức Cơ từng bước được thực hiện nghiêm túc đầy đủ, chính xác. Nghiên cứu về quản lý hộ tịch nói chung cũng như ở thực tế của huyện Đức Cơ nói riêng là một điều cấp thiết hiện nay, nhằm làm rõ hơn nữa về cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý hộ tịch, từ đó chỉ ra những nguyên nhân còn tồn tại, trên cơ sở đó, đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Đức Cơ. Từ những lí do trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu, các luận án, luận văn, bài báo, tạp chí đề cập đến hộ tịch và công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch, có thể kể đến là bài của Vũ Đình Tuấn Phương “Cơ quan nhà nước cần tôn trọng quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp của công dân” (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 2 6.2005); Bài của Phạm Trọng Cường “Kỳ vọng về một nề nếp mới trong công tác hộ tịch” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 6.2006; Bài của Trần Văn Quảng “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch trong giai đoạn hiện nay”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 9. 2006; Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch”, phần 2 hộ tịch và quốc tịch (Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2007); Bài của Đàm Thị Kim Hạnh “Tư pháp Hà Nội không vì khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh” (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 3.2008. Chuyên đề “Quản lý hành chính - Tư pháp ” trong chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính của Học viện Hành chính Quốc gia. Bài của Lương Thị Lanh “Đánh giá thực trạng pháp luật về hộ tịch và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề pháp luật về hộ tịch năm 2013)... Trong các công trình nghiên cứu này các tác giả đã nêu lên những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong công tác hộ tịch, từ đó đã đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Trong số các công trình nghiên cứu, TS. Đinh Trung Tụng đã có bài viết quan trọng “Quan điểm chỉ đạo, định hướng xây dựng dự án Luật Hộ tịch”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề pháp luật về hộ tịch năm 2013). Tác giả đã trình bày sơ về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở nước ta và đưa ra các quan điểm chỉ đạo và định hướng xây dựng dự án Luật Hộ tịch. Trong số các luận văn cao học đã bảo vệ về đề tài này, có thể kể đến luận văn cao học của Phạm Trọng Cường "Quản lý nhà nước về hộ tịch - Lý luận, thực trạng và phương hướng đổi mới" (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), trong đó tác giả tiến hành khảo sát thực trạng việc quản lý hộ tịch ở Việt Nam trong thời gian qua và nêu những ưu nhược điểm của công việc , đồng thời đưa ra 3 một số quan điểm, phương hướng đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch. Luận văn của Bùi Thị Tư "Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng" (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014) trong đó tác giả đã nói lên thực trạng trong công tác quản lý hộ tịch, đưa ra những ưu điểm và hạn chế trong quản lý hộ tịch ở thành phố Hải Phòng và đề xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch ở thành phố Hải Phòng. Luận văn của Nguyễn Hữu Đính "Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang" (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008) trong đó tác giả trình bày thực trạng công tác tư pháp - hộ tịch, phân tích ưu điểm và hạn chế trong công tác tư pháp - hộ tịch cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác tư pháp - hộ tịch. Có thể thấy các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân tích đầy đủ những vấn đề liên quan đến công tác đăng ký và quản lý hộ tịch từ lý luận đến thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, hiện nay Luật hộ tịch 2014 có hiệu lực thì các công trình nghiên cứu trên chưa có tính thời sự. Do đó, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật hộ tịch ở huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ hơn nữa cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch nói chung và ở huyện Đức Cơ nói riêng. Để từ đó đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Đức Cơ trong thời gian qua, đưa ra những kết quả đã đạt được và hạn chế, nguyên nhân của chúng. 4 Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Đức Cơ trong thời gian tới. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch theo giai đoạn từ năm 2015 đến nay. Đưa ra các biện pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch. Phạm vi nghiên cứu của đề tài về mặt không gian được giới hạn ở các xã trên địa bàn huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai; về mặt thời gian được giới hạn từ năm 2015 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý hành chính nhà nước; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý hộ tịch. Phương pháp được tác giả sử dụng trong luận văn gồm: Phương pháp phân tích, quy nạp, tổng hợp, diễn dịch, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống,... Ở chương 1, để làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch, luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh, để làm sáng tỏ khái niệm, nội dung của quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch. Chương 2 của luận văn đã nêu ra những ưu điểm, hạn chế của thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Đức Cơ trong những năm qua bằng việc sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh. Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Đức Cơ hiện nay, trong chương 3. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Ý nghĩa lý luận: Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch; những ưu điểm, hạn chế của thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Đức từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Đức Cơ hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở để các cấp chính quyền trong đó có chính quyền địa phương ở huyện Đức Cơ nghiên cứu, vận dụng vào thực tế quản lý hộ tịch; là cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về hộ tịch Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai trong giai đoạn hiện nay 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH 1.1. Hộ tịch 1.1.1. Khái niệm hộ tịch Hộ tịch là một khái niệm đã ra đời từ khi có sự quản lý của nhà nước. Qua các giai đoạn phát triển của lịch sử cho tới ngày nay, quan điểm nghiên cứu về hộ tịch có tính khoa học nội hàm, là một nội dung hết sức quan trọng trong quản lý xã hội. Dưới góc độ ngôn ngữ, khái niệm “Hộ tịch” được giải thích trong nhiều Từ điển Hán - Việt của nhiều tác giả khác nhau dưới đây là một số cách giải nghĩa: Theo tác giả Đào Duy Anh trong cuốn Giản yếu Hán - Việt từ điển: “Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán của từng người” [8, tr.384]; Tác giả Nguyễn Văn Khôn trong cuốn Hán - Việt từ điển lại cho rằng: “Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [12, tr.404]; Tác giả Hoàng Thúc Trâm trong cuốn Hán - Việt tân từ điển viết “Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả toàn quốc, trong có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [9, tr.292]; Tác giả Bửu Kế trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ nguyên giải thích “Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” [1, tr.814]. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan trọng nhất của con người: Sinh, giá thú và tử” [15, tr.7]. Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa khác về khái niệm “Hộ tịch”: "Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử" [23, tr.111]. Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lược giải - vốn được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp 7 lý đầu tiên - không đưa ra định nghĩa về khái niệm “Hộ tịch” mà chỉ định nghĩa khái niệm “Chứng thực Hộ tịch”: “Chứng thư Hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh một cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ tên, con trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách vợ chồng.... Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay đổi về thân trạng người ta nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hoá con tý sinh, khước từ phụ hệ, ly thân...” [14, tr.42]. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ước định. Về giá trị biểu đạt, với cách định nghĩa như vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định nghĩa cho thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “Hộ tịch”. Bên cạnh đó, bản thân cách định nghĩa này cũng chưa xác định được rõ ràng nội hàm của khái niệm nên cùng với khái niệm “Hộ tịch” kế thừa khái niệm về hộ tịch trong Điều 1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 (Nghị định này thay thế cho NĐ số 83 ngày 10/10/1998) quy định: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”, Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời quy định: “Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết” (Khoản 1 Điều 2). Điều 3 của Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch gồm: Khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Ghi vào Sổ hộ tịch 8 sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, Luật Hộ tịch đã ấn định nội hàm pháp lý đối với thuật ngữ “hộ tịch” chính là các sự kiện cơ bản xảy ra đối với mỗi cá nhân con người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, các sự kiện cơ bản này cho phép xác định tình trạng nhân thân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với sự kiện hộ tịch cụ thể. Với định nghĩa pháp lý trên hộ tịch không còn là những phương tiện, công cụ để lưu trữ các thông tin cá nhân của một người nữa, mà nó gắn liền với các quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Do vậy, hộ tịch với tư cách là sự kiện cơ bản khi xảy ra đòi hỏi phải được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo nguyên tắc đầy đủ, kịp thời, chính xác và đăng ký tại một nơi theo đúng quy định. 1.1.2. Đặc điểm của hộ tịch Thứ nhất, mỗi con người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết nên hộ tịch có giá trị nhân thân, gắn với cá nhân mỗi con người. Các đặc điểm về cha đẻ, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính là những đặc điểm để người ta nhận biết từng cá nhân con người với nhau. Thứ hai, hộ tịch không chuyển đổi cho người khác. Đặc điểm này là hệ quả của của đặc điểm thứ nhất. Vì vậy nên, mỗi cá nhân phải trực tiếp đi đăng ký các sự kiện hộ tịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (đăng ký khai sinh khai sinh có thể do bố, mẹ đi; đăng ký khai tử do người thân của người chết đi đăng ký). Thứ ba, hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết, không được chuyển hoá được thành tiền. 9 Chính vì vậy, hộ tịch không phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên thị trường. 1.2. Quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch 1.2.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước Khi nhà nước xuất hiện thì phần lớn (và là phần quan trọng) các công việc của xã hội do nhà nước quản lý. Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật, tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy, tất cả các cơ quan nhà nước đều làm chức năng quản lý nhà nước. Pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý nhà nước. Rằng pháp luật, nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức hoặc các cá nhân để họ thay mặt nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp là quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. [31, tr.12] 1.2.2. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch, đăng ký hộ tịch 10 1.2.2.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch Là một phần trong quản lý hành chính nhà nước về hành chính - tư pháp, nội dung chủ yếu trong công tác quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch tập trung vào các hoạt động: Tuyên truyền, phổ biến các quy định của nhà nước về quản lý và đăng ký hộ tịch: thủ tục, thời hạn, giấy tờ đăng ký hộ tịch; giấy tờ, thủ tục ủy quyền, đăng ký kết hôn, khai sinh, thủ tục nuôi con nuôi, thủ tục thay đổi hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính. Tổ chức việc đăng ký hộ tịch bảo đảm chính xác, kịp thời, thuận lợi cho nhân dân. Kiểm tra việc thực hiện đăng ký hộ tịch tại các cơ sở, xử lý các vi phạm về hộ tịch. Báo cáo thống kê hộ tịch, lưu trữ hồ sơ tài liệu về hộ tịch. Quản lý hành chính nhà nước đối với hộ tịch có những đặc điểm sau: Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước trong xã hội hiện đại bao gồm 03 nhánh chủ yế là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp: Quyền lập pháp là quyền làm ra Hiến pháp và luật, do cơ quan lập pháp thực hiện. Cơ quan lập pháp ở các nước khác nhau có tên gọi khác nhau và cách thức tổ chức cũng khác nhau. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, ở nước ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Quyền hành pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào tổ chức xã hội và quản lý xã hội. Quyền hành pháp do một bộ máy hành chính nhà nước phức tạp, trải rộng từ trung ương tới địa phương thực hiện. 11 Quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật do cơ quan tư pháp thực hiện. Ở Việt Nam, hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân các cấp. Quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch phải mang tính quyền lực là do xuất phát từ yêu cầu chung của quản lý hành chính nhà nước là phải căn cứ trên cơ sở quyền lực của nhà nước và được trang bị quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí Nhà nước thông qua phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử dụng là văn bản quản lý hộ tịch dưới dạng: Các chủ trương, chính sách; quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước và của cấp trên thành những quy định chi tiết để có thể triển khai thực hiện trong thực tiễn; dưới dạng các mệnh lệnh cá biệt; dưới những dạng mệnh lệnh chỉ đạo cấp dưới trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; dưới dạng những thông tin hướng dẫn để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước sử dụng quyền lực của minh thông qua những Điểu Luật mang tính bắt buộc yêu cầu các chủ thể trong phạm vi chịu tác động của Luật Hộ tịch phải thực hiện một mệnh lệnh đơn phương do chủ thể quy định. Ngoài ra còn có các biện pháp chế tài như xử phạt hành chính bằng tiền trong trường hợp không thực hiện mệnh lệnh của chủ thể Nhà nước quy định. Thứ hai, chủ thể của quản lý hành chính nhà nước về hộ là các công chức trong bộ máy nhà nước. Hiện nay, thì nhà nước được hiểu là có ba quyền năng : Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, các cơ quan hành chính nhà nước về hộ tịch thực hiện quyền năng hành pháp. Do đó, có thể kết luận chủ thể quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là các chủ thể mang quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, 12 bao gồm các cơ quan quản lý hành chính nhà nước: Chính phủ, Ủy ban nhân dân, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, đội ngũ công chức làm công tác tư pháp- hộ tịch. Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ. Trong hoạt động hành pháp để bảo đảm tính pháp, bộ máy các cơ quan hành pháp phải được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ương tới địa phương; nhằm đảm bảo sự điều hành thống nhất và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương; đồng thời phát huy tối đa những yếu tố của từng địa phương, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau . Tuy nhiên , do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế – xã hội , nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa phương , tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành , bộ máy hành chính còn được tổ chức theo hướng phân cáp , trao quyền tự quyết , tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa phương. Thứ tư, hoạt động quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch có tính chấp hành và điều hành. Trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tính chấp hành và tính điều hành luôn đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội không được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn…, trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật. 13 Thứ năm, quản lý hành chính nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý nhà nước đối với hộ tịch luôn cần có tính liên tục, linh hoạt và kịp thời để đáp ứng nhu cầu vận động không ngừng của đời sống xã hội. Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong hoạt động quản lý. Liên tục để tránh lối làm việc hô hào, theo phong trào. 1.2.2.2. Khái niệm đăng ký hộ tịch Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. [10, Khoản 2 Điều 2] Bao gồm các nội dung cụ thể sau: Một là, khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung hộ tịch; khai tử. Trong đó, Cải chính hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân trong trường hợp có sai sót khi đăng ký hộ tịch [10, Khoản 12, Điều 4]. Bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký (ví dụ bổ sung dân tộc, quốc tịch, quê quán…) [10, Khoản 13, Điều 4]. Thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của pháp luật dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật [10, Khoản 10, Điều 4]. 14 Xác định lại dân tộc là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký xác định lại dân tộc của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự [10, Khoản 11, Điều 4]. Hai là, căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ghi vào sổ hộ tịch các việc: Thay đổi Quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự [10, Khoản 2, Điều 3]. Ba là, ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài [10, Khoản 3, Điều 3]. Đây là việc công dân Việt Nam đã thực hiện các việc nêu trên tại các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài, khi về nước cư trú được ghi vào Sổ hộ tịch, nếu tại thời điểm đó các bên đáp ứng đủ điều kiện của Pháp luật Việt Nam về các việc tương ứng. Ví dụ: Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, Nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi thì được quyền kết hôn nếu không bị mất năng lực hành vi dân sự và không cùng huyệt thống… trường hợp có một số nước trên thế giới cho phép kết hôn sớm hơn quy định của pháp luật Việt Nam và công dân Việt Nam đã đăng ký kết hôn tại các cơ quan có thẩm quyền của nước đó thì khi về nước không được công nhận và không được ghi vào Sổ hộ tịch. Hoặc một số nước trên thế giới cho phép đa thê nhưng pháp luật Việt Nam chỉ 1 vợ 1 chồng. 1.2.3. Vai trò của quản lý hành chính nhà nước về đăng ký hộ tịch 15 Có thể thấy, trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà khái niệm quyền con người được ghi nhận trong 01 chương của Hiến pháp năm 2013, nghĩa là nhà nước đã nhận thức như một giá trị chung của nhân loại, thì cùng theo đó là tầm quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước về đăng ký hộ tịch. Về mặt lý luận, hoạt động quản lý hành chính nhà nước về đăng ký hộ tịch là lĩnh vực thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước xét trên ba phương diện cơ bản: Thứ nhất, Nhà nước đăng ký hộ tịch cho công dân là để Nhà nước quản lý về mặt pháp lý từng người dân, qua đó quản lý toàn bộ dân cư trong cả nước, nắm bắt được biến động tự nhiên về dân cư. Nhà nước quản lý con người, thống kê được dân số, tình hình tăng dân số giúp Nhà nước có cơ sở hoạch định chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Qua đó, Nhà nước có cơ sở khoa học để hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Mặt khác công tác đăng ký khai sinh một yêu cầu không thể thiếu trong quản lý nhà nước về hộ tịch, là ghi nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của một cá nhân, là cơ sở ràng buộc trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân, từ đó phát sinh trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống người dân, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Hơn thế nữa, đối với Nhà nước thông qua việc đăng ký này đảm bảo được quyền của công dân, quyền được khai sinh mà pháp luật đã quy định. Đặc biệt đối với trẻ em đối tượng Nhà nước quan tâm bảo vệ, thì đăng ký khai sinh cho trẻ em là nghĩa vụ phải làm của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, đối tượng được quan tâm hàng đầu trong mọi xã hội. 16 Khi đăng ký khai sinh Nhà nước cấp cho người dân chứng thư pháp lý là Giấy khai sinh. Giấy khai sinh góp phần hỗ trợ hoạt động các cơ quan nhà nước trong việc xác định nhân thân của một người như độ tuổi, giới tính, cha mẹ…., phục vụ cho các quan hệ khác. Ví dụ: Giấy khai sinh dùng để xác định cha và mẹ đẻ của một cá nhân, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết việc phân chia di sản thừa kế trong trường hợp người chết không để lại di chúc, phân chia tài sản theo pháp luật, hay Giấy khai sinh dùng để hỗ trợ cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tuổi của một người để áp dụng chính sách trong tố tụng cho phù hợp… Thứ hai, vai trò của đăng ký khai sinh đối với công dân: Đăng ký khai sinh là quyền của mỗi người được pháp luật quốc tế ghi nhận, đồng thời cũng được ghi nhận trong pháp luật của quốc gia. Đăng ký khai sinh có vai trò, ý nghĩa là sự ghi nhận về mặt pháp lý tình trạng nhân thân của một người được sinh ra, thông qua đăng ký khai sinh, cá nhân được cấp Giấy khai sinh, là cơ sở xác định nguồn gốc các mối quan hệ nhân thân, quan hệ gia đình; là một trong những chứng cứ pháp lý tạo ra sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa Nhà nước và công dân và có giá trị chứng minh đối với các mối quan hệ khác trong xã hội ví dụ như truy nhận cha, mẹ con, thừa kế di sản, học tập…Đăng ký khai sinh cho một cá nhân là cơ sở đầu tiên để cá nhân đó trở thành công dân một quốc gia, làm phát sinh quyền của mình, công dân thực hiện được các quyền của mình được Nhà nước ghi nhận và là cơ sở để được Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Nếu cá nhân không đăng ký khai sinh, cá nhân sẽ không hưởng được các quyền dành cho công dân mà Nhà nước quy định, cũng như công dân sẽ không được bảo vệ khi quyền và lợi ích bị xâm hại. Nếu không có khai sinh thì không có cơ sở chắc chắn để 17 phân biệt cá nhân này với cá nhân khác thông qua các yếu tố cơ bản như: họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, nơi sinh, thông tin về cha mẹ… 1.2.4. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về hộ tịch 1.2.4.1. Nguyên tắc của quản lý nhà nước về hộ tịch Mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng thẩm quyền quy định của pháp luật về hộ tịch. Cơ quan quản lý hộ tịch cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo đối với cơ quan quản lý hộ tịch cấp dưới; trường hợp phát hiện thấy sai phạm phải chấn chỉnh, xử lý kịp thời. Cơ quan đăng ký hộ tịch phải niêm yết công khai, chính xác các quy định về giấy tờ mà người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải xuất trình hoặc nộp khi đăng ký hộ tịch, thời hạn giải quyết và lệ phí đăng ký hộ tịch. 1.2.4.2. Chủ thể thực hiện quản lý, đăng ký hộ tịch Căn cứ vào chức năng cơ bản của từng hệ thống cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, sát với tình hình thực tế hiện nay, có tính đến yêu cầu cải cách hành chính, Luật hộ tịch 2014 đã phân cấp thẩm quyền quản lý về hộ tịch theo hướng: Một là, phân biệt giữa nhiệm vụ quản lý nhà nước và nhiệm vụ đăng ký các sự kiện hộ tịch. Theo đó, các nhiệm vụ quản lý như: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác hộ tịch, xử lý vi phạm... thuộc nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; nhiệm vụ đăng ký các sự kiện hộ tịch tập trung cho chính quyền cơ sở như Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan