Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh lâm đồng...

Tài liệu Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

.PDF
71
293
89

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Phạm Văn Hiền Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC BUÔN MA THUỘT - 2019 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Phạm Văn Hiền Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC PGS.TS. LÊ VĂN LONG Buôn Ma Thuột - 2019 2 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về đề tài của mình. Người cam đoan Phạm Văn Hiền 3 Mục lục Chương 1 Những vấn đề lý luận, pháp lý về công chứng và quản lý nhà nước về công chứng 1.1 Những vấn đế lý luận về công chứng và quản luản lý nhà nước về công chứng.(trang 9) 1.2 Cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về công chứng ( trang 25) Chương 2 Thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng 2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến hoạt động đến hoạt động quản lý nhà nước về công chứng. ( trang 31) 2.2 Thực trạng công tác quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tại tỉnh Lâm Đồng (trang 33) Chương 3 Quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng 3.1 Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng ( trang 57) 3.1 Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng (tramg 60) Kết luận Danh mục các bảng biểu Bảng 2.1: Kế hoạch chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng và tự chủ tài chính (trang 36) Bảng 2.2: Tổ chức hành nghề công chứng (trang 47) Bảng 2.3: Kết quả hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (trang 48). 4 Mở đầu 1.Tính cấp thiết đề tài. Lịch sử ra đời công chứng trên thế giới có từ khá sớm cùng với các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước. Trải qua quá trình thay đổi của các cuộc cách mạng lớn của lịch sử thế giới công chứng giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội như trong quan hệ đất đai, hôn nhân gia đình, thừa kế. Từ năm 1858 -1954, đã hình thành và phát triển công chứng ở Việt Nam ngay sau khi người Pháp đến Đông Dương và quá trình thực dân hóa ở đây, người Pháp đã sáng lập và thiết chế công chứng Pháp tại Đông Dương. Các công chứng viên chủ yếu là người Pháp mà chưa có công chứng viên người Việt Nam. Sau năm 1954 ở Miền Nam, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì mô hình công chứng của Pháp tại Việt Nam và tổ chức lại 3 phòng công chứng cũ của người Pháp thành một phòng công chứng và bổ nhiệm công chứng viên là người Việt Nam thay các công chứng viên là người Pháp, Phòng công chứng đặt dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Việt Nam Cộng Hòa. Phòng công chứng này hoạt động đến trước ngày Miền Nam được giải phóng ( 30/4/1975). Cách mạng tháng Tám thành công ( 1945) bộ máy thực dân phong kiến đập tan, cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, ngày 15/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam Dân chủ Công hòa ban hành Sắc lệnh 59/SL về việc ấn định thể lệ thị thực của các giấy tờ, đặt nền móng cho sự phát triển công chứng. Ngay từ thời kỳ đầu xây dựng đất nước trải qua 74 năm xây dựng đất nước đến nay, hệ thống công chứng của nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, đánh dấu Luật công chứng 2006 và Luật công chứng 2014 với nhiều chế định có bước đột phá có nhiều mặt ưu điểm, có tác động tích cực góp phần trong việc phát triển kinh tế 5 xã hội, bên cạnh đó luật công chứng mới ban hành cũng bộc lộ nhiều bất bất cập như: Phát triển các tổ chức công chứng, thanh tra, kiểm tra; quy trình bổ nhiệm công chứng viên,… Đặc biệt là từ khi có chủ trương xã hội hóa công chứng, cùng với sự phát triển kinh tế theo hướng hội nhập yêu cầu công tác quản lý nhà nước nói chung và lĩnh vực công chứng nói riêng cần có cách thức, phương pháp mới bắt kịp sự thay đổi sự phát triển của hoạt động công chứng. Trong công tác quản lý nhà nước ngoài đảm bảo theo quy định pháp luật hiện hành còn cần phải xem xét tình phù hợp từng vùng, miền, điều kiện kinh tế xã hội, đô thị, nông thôn,… Xuất phát từ thực tế trên học viên chọn đề tài “ Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn đánh giá thực trạng nguyên nhân và tìm ra một số giải pháp trong công tác quản lý nhà nước về công chứng của tỉnh Lâm Đồng, góp phần tăng cường quản lý nhà nước, hướng tới xây dựng hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần xây dựng tổ chức công chứng Việt Nam tiên tiến, hội nhập công chứng khu vực và thế giới. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định công chứng được từ những ngày đầu hình thành cho đến nay đã có những thay đổi gắn liền hình thành và phát triển bộ máy nhà nước ta qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và được thể hiện qua các văn bản pháp luật khác nhau để phù hợp. Trên cơ sở quy định pháp luật và tình hình thực tiễn quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng tại các địa phương trên cả nước, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này cụ thể như sau: -Đề tài về cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam do Bộ Tư pháp làm chủ đề tài tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu. Đề tài đã nghiên cứu toàn diện, sâu sắc và bao quát về công chứng thông qua nêu lên những vấn đề lý luận về công chứng như khái niệm, vị trí, vai trò của công chứng, các trường phái công chứng trên 6 thế giới, ý nghĩa pháp lý và hình thức của văn bản công chứng, phạm vi các việc công chứng vấn đề trách nhiệm công chứng, một số mô hình công chứng trên thế giới; thực tiễn hoạt động công chứng tại Việt Nam, nêu lên các vấn đề lịch sử hình thành và phát triển công chứng ở Việt Nam, phạm vi công chứng, giá trị, ý nghĩa pháp lý của văn bản công chứng và tổ chức hành nghề công chứng ở nước ta. -Luận án tiến sỹ Luật học : Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần hoàn thiện luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008. Nội dung luận án trên cơ sở so sánh quy định của pháp luật công chứng một số nước trên thế giới với pháp luật về công chứng ở Việt Nam, đồng thời luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về công chứng, từ đó đưa ra một số luận cứ khao học làm cơ sở cho việc xây dựng pháp luật ở Việt Nam. -Luận văn thạc sỹ: Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và các giải pháp của tác giả Phạm Thị Mai Trang. Luận văn đã thể hiện những vấn đề lý luận và thực tiễn về công chứng và xã hội hóa công chứng, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng và phân tích yêu cầu khách quan và thực tiễn xã hội hóa công chứng ở Việt Nam, đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện chế định pháp luật về xã hội hóa công chứng ở nước ta. -Luận văn thạc sỹ: Hoạt động công chứng tại tỉnh Bắc Giang thực trạng và các giải pháp của tác giả Đỗ Thị Loan năm 2015. Luận văn phân tích cơ sở lý luận và phân tích đánh giá thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang, đồng thời cũng nêu lên một số bài học kinh nghiệm để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực công chứng ; trên cơ sở đó tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện có hiệu quả hoạt động công chứng 7 phù hợp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang và các tỉnh phụ cận có điều kiện kinh tế xã hội tương tự Bắc Giang. Những công trình được công bố trên đã nghiên cứu, củng cố nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trên lĩnh vực công chứng của nước.Tuy nhiên việc nghiên cứu về quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng thì chưa có công trình nào thực hiện. 3.Mục đích và nội dung nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ lý luận về quản lý công chứng, pháp luật quản lý về công chứng, thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Từ đó đánh giá thực trạng pháp luật quản lý về công chứng cũng như thực hiện pháp luật quản lý về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, những kết quả đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng.Trên cơ sở đó kiến nghị những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về công chứng nói chung, những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới. Để thực hiện yêu cầu trên luận văn xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật quản lý nhà nước về công chứng thông qua việc xác định các khái niệm có liên quan như: khái niệm công chứng; khái niệm quản lý nhà nước về công chứng; xác định đặc điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật quản lý về công chứng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận quản lý về công chứng, thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Phạm vi nghiên cứu của đề tài về mặt không gian được giới hạn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng; Về mặt thời gian được giới hạn từ năm 2015 đến nay. 8 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đề tài là dựa trên quan điểm, đường lối, quản điểm của đảng về quản lý hành chính nhà nước, xây dựng pháp luật quản lý về quản lý công chứng và quan niệm xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam. Phương pháp sử dụng trong luận văn là so sánh, tổng hợp, thống kê, phân tích, điều tra,… 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật quản lý nhà nước về công chứng; đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, từ đó nêu lên những giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về công chứng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở để các cơ quan, đơn vị chức năng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nghiên cứu, vận dụng vào thực tế quản lý công chứng. 7.Kết cấu luận văn. Kết cấu luận văn bao gồm: Phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn này và bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng 9 Chương 1. Những vấn đề lý luận về công chứng và quản lý nhà nước về công chứng 1.1. Những vấn đề lý luận về công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về công chứng. 1.1.1.1. Quan niện về công chứng. Quá trình hình thành hoạt động công chứng gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. từ thời kỳ cổ đại đến trung cổ, giữa người làm công chứng và người lập văn tự thuê chưa được phân biệt rõ ràng. Ở thời kỳ cổ đại người ta thấy những viên thư lại họ soạn thảo các khế ước theo một khuôn mẫu nhất định. Lịch sử hình thành và phát triển nhà nước cũng cho thấy đã có thời kỳ chưa có khái niệm công chứng một số tác giả nghiên cứu về công chứng cho rằng có hai loại hình công chứng là tư chứng thư và công chứng thư. Điều này được hiểu như sau: Như vậy cho đến nay vẫn tồn tại một loại hoạt động chứng nhận, xác nhận, cung cấp chứng cứ của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào, nhằm phản ảnh một sự kiện, hiện tượng mà họ cho là có thật, ví dụ : Cung cấp chứng cứ cho Tóa án, xác nhận thời gian công tác, làm chứng cho việc giao tiền mua bán nhà, làm chứng cho mua bán xe, làm chứng cho việc vay mượn,... Đây là một loại chứng nhận vẫn tồn tại và có ý nghĩa thiết thực trong đời sống xã hội nhưng không phải là hoạt động công chứng với danh nghĩa là một tổ chức được nhà nước công nhận hoặc cho phép hoạt động. Hình thức công chứng thư được hiểu công chứng chứng là lấy công quyền làm chứng, sự chứng nhận ở đây mang tính quyền lực công, ngoài ra còn có thể hiểu từ bản thân thuật ngữ công chứng đã mang ý nghĩa sự làm chứng công khai, có dấu ấn công quyền, công chứng viên là người được nhà nước bổ nhiệm thực hiện công việc này. 10 Công chứng với tư cách là một thể chế pháp lý đã hình thành ở nước ta khá sớm, từ những năm 1930 dưới thời Pháp thuộc, nhưng mãi đến năm 1987, thuật ngữ “công chứng” được sử dụng rộng rãi. Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước công chứng, có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn, nó không những ảnh hưởng đến mô hình tổ chức cơ chế hoạt động của công chứng mà căn cứ vào đó làm cơ sở xác định phạm vi, nội dung, quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức giao cho nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công chứng. Trong quá trình hình thành và phát triển hoạt động quản lý nhà nước ta về công chứng trong văn bản pháp luật có khái niệm về công chứng như sau: Thông tư 574/QLTPK năm 1987 của Bộ tư pháp quy định: Công chứng nhà nước là một hoạt động của cơ quan nhà nước, nhằm mục đích giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Hoạt động công chứng nhà nước làm sao phải đảm bảo các điều kiện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam nhằm ngăn ngừa vi phạm pháp luật giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, công bằng khách quan góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị định số 45/HĐBT năm 1991 cũng nêu khái niệm hoạt động công chứng cũng là việc xác thực các hợp đồng, giấy tờ mà pháp luật cho phép xác nhận và mục đích cũng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức, đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật. Nghị định 31/CP của Chính phủ và Nghị định 75/2000/NĐ-CP của Chính đchứng thực cho phù hợp quá trình phát triển của hoạt động giao dịch dân sự và các yêu cầu pháp lý hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Trong các lần 11 thay thế các văn bản quy phạm pháp luật trên cũng đã đưa ra khái niệm công chứng một cách rõ ràng, hợp lý hơn từ cả nội dung công chứng chứng thực, chủ thể thực hiện và giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Trong đó Nghị định 75/2000/NĐ-CP đã phân biệt rõ hơn về hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực. Công chứng được xác định rất rõ là việc của Phòng công chứng và chứng thực là việc của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã. Luật công chứng năm 2006 ngoài việc kế thừa Nghị định 75/2000/NĐ-CP trong việc xác định khái quát hơn về khái niệm công chứng, tuy nhiên lần này luật xác định chủ thể công chứng, công chứng là việc của công chứng viên, khác với các Nghị định ban hành trước là việc của cơ quan, đơn vị chứ không phải quy định là cá nhân của công chứng viên theo quy định luật lần này. Luật công chứng quy định hiện hành một lần nữa kế thừa luật công công chứng năm 2006 đã nêu khái niệm bao quát hơn, công chừng ngoài là việc của công chứng viên trong việc xác nhận tính xác thực và tính pháp pháp của các hợp đồng giao dịch trong dân sự mà còn quy định văn bản công chứng không được trái đạo đức xã hội. Khái niệm lần này công chứng còn nêu cả công chứng bản dịch giấy tờ từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Luật công chứng năm 2014, khái niệm công chứng lần này ngoài việc đảm bảo tính chính xác, hợp pháp còn nêu thêm tính đạo đức xã hội trong các nội dung giao dịch của hoạt động công chứng không được trái. Đây cũng là một vấn đề thực tiễn trong bối cảnh phát kinh tế của đất nước ta theo hướng kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều mặt trái của nó như vấn đề đạo đức xuống cấp, giá cả cạnh tranh thiếu hợp lý, lợi nhuận,…Do đó yếu tố đạo đức xã hội cũng cần được đề cao và thể chế thành luật trong việc quản lý hoạt động công chứng. 12 1.1.1.2. Đặc điểm của công chứng: Thứ nhất, Luật công chứng lần này quy định có sự khác biệt so với quy định các nghị định ban hành lần trước về công chứng, một đặc điểm về chủ chủ thể công chứng đó là việc do công chứng viên thực hiện công chứng so với trước đó thì công chứng là việc của cơ quan hành chính nhà nước cụ thể là Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên do Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được chứng nhận có giá trị pháp lý, là cơ sở đảm bảo các bên yêu cầu công chứng tham gia giao dịch các bước tiếp theo. Công chứng viên theo quy định của pháp luật hiện hành được quy định công chứng viên hoạt động tại Phòng công công là tại đơn vị sự nghiệp của cơ quan trực thuộc Sở tư pháp và công chưng viên thuộc Văn phòng công chứng là doanh nghiệp hoạt động theo loại hình công ty hợp danh. Thứ hai hoạt động của công chứng nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện chứng nhận các giao dịch dân sự, cụ thể các hợp theo quy định pháp luật bắt buộc công chứng ví dụ như hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, chứng nhận thỏa thuận phân chia di sản thừ kế. Ngoài ra còn chứng nhận giao dịch vụ việc khác cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng mà không trai1 pháp luật, trái đạo đức xã hội. Hợp đồng giao dịch được lập theo yêu cầu công chứng và chứng nhận các hợp đồng giao dịch theo quy định của pháp luật là tạo nên các văn bản công chứng. Xác lập hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng là việc công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình thực hiện giúp người yêu cầu công chứng thể hiện được ý chí nguyện vọng của mình được thỏa thuận bằng văn bản không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội hoặc tư vấn, góp ý để người yêu cầu công chứng thể hiện đầy đủ ý 13 chí, nguyện vọng của mình một cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản họ tự lập nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch họ tự lập. Nói cách khác, hành vi của công chứng viên nhằm xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng hoặc các giao dịch. Công chứng rất cần đề cao tính chính xác của các văn bản, hợp đồng giao dịch công chứng nó có ý nghĩa quan trọng cho việc bổ trợ công tác tư pháp, công chứng đảm bảo phải có giá trị chứng cứ là nguồn chứng cứ quan trọng cho các cơ quan tố tụng nhất là tổ tụng dân sự. Sở dĩ pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết sự kiện trong văn bản đó đã được công chứng viên chứng nhận. Tính xác thực trong thực hiện việc công chứng cần phải được xác định mà việc của công chứng viên cần kiểm tra trong quá trình thực hiện các giao dịch hợp đồng dân sự của các bên trong quá trình giao kết thực tế, các sự này phải được diễn ra có thật mà công chứng viên là người chứng kiến và được thể hiện cụ thể là bút tích của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Chứng nhận các hợp đồng giao dịch theo qui định của pháp luật ( hoặc theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức) là việc công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch. Đây cũng có thể nói là điểm để phân biệt hai trường phái công chứng hình thức và công chứng nội dung. Đặc điểm này của công chứng hệ Latine quy định chức năng phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng giao dịch của công chứng. Thứ ba hợp đồng giao dịch đã công chứng nó có giá trị chứng cứ và còn có giá trị thực hiện. Văn bản công chứng được Công chứng viên lập theo trình tự thủ tục quy định của pháp luật, ghi lại thời gian, không gian, ý chí nguyện vọng cũng như năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng bằng việc ràng buộc các bên phải thực hiện đúng các cam kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba. 14 Thứ tư trong hoạt động công chứng phải đảm bảo thống nhất do cơ quan nhà nước quản lý đối với các tổ chức hành nghề công chứng. Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp cung cấp chứng cứ cho hoạt động tư pháp nhưng hoạt động mang tính dịch vụ, chứng nhận giao kết trong giao dịch dân sự. Từ tính quan trọng này do đó việc quản lý nhà nước cho hoạt động công chứng là vô cùng quan trọng để đảm bảo cho các tổ chức hành công chứng và công chứng viên hành nghề thực hiện theo trong khuôn khổ pháp luật nhằm mục đích sâu xa là hạn chế các thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và giúp ích cho công tác bổ trợ tư pháp. Hiện nay theo Luật công chứng 2014 tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng Công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp và Văn phòng côg chứng do các công chứng viên đăng ký thành lập hoạt động loại hình công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp. Cả hai mô hình đặt dưới sự quản lý nhà nước mà trực tiếp là Sở Tư pháp. 1.1.1.3. Chủ thể, vai trò, giá trị của công chứng Chủ thể của công chứng: Xác định chủ thể công chứng là việc rất quan trọng trong việc tìm hiểu một lĩnh vực pháp luật nào đó. Quay lại khái niệm công chứng cho ta thấy các chủ thể trong hoạt động công chứng đó là công chứng viên; các tổ chức hành nghề công chứng; người yêu cầu công chứng và đối tượng công chứng. Chủ thể thứ nhất là Công chứng viên:Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 8 Luật Công chứng 2014, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng như: Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên; Có bằng cử nhân luật; Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; Tốt nghiệp 15 khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định của luật công chứng; Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng. Chủ thể thứ hai là người yêu cầu công chứng: Người yêu cầu công chứng là chủ thể được diễn ra trong quá trình gia dịch công chứng, chủ thể này tự nguyện yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng thực hiện xác nhận công việc của mình mà theo quy định pháp luật cần có xác nhận của công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng hoặc tự mình thấy việc đó pháp luật không buộc phải xác nhận nhưng muốn cho sự yên tâm các vụ việc dân sự giao dịch trong sống của mình cần xác nhận của công chứng viên. Người yêu cầu công chứng theo quy định pháp luật công công là các cá nhân là công dân Việt Nam hay người nước ngoài, tổ chức của Việt Nam hay tổ chức nước ngoài. Chủ thể thứ ba là tổ chức hành nghề công chứng: Tổ chức hành nghề công chứng theo quy định pháp luật hiện hành đó là Phòng công chứng, đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở tư pháp và Văn phòng công chứng là doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp của Văn phòng công chứng phải là công ty hợp danh. Hai chủ thể công chứng này đều thực hiện một nhiệm vụ giống nhau trong việc chứng nhận các hợp đồng giao dịch công chứng. Tuy nhiên kinh phí hoạt động và hoạch toán doanh thu khác nhau. Phòng công chứng hoạch toán theo Luật ngân sách nhà nước, Văn phòng công chứng hoạch toán theo Luật doanh nghiệp. Chủ thể thứ tư là đối tượng công chứng: Đối tượng được công chứng là bao gồm hợp đồng, giao dịch, bản dịch các văn bản khi được công chứng có giá trị pháp lý kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu, có hiệu lực thi hành với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải 16 quyết theo quy định pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. Những văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; chứng minh và bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch. Vai trò của công chứng: Hoạt động công chứng đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong kinh tế thị trường, góp phần góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy các hoạt động đầu tư kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp, cụ thể các điểm sau: Thứ nhất, công chứng bảo đảm và tăng cường tính công khai, minh bạch trong các hợp đồng, giao dịch: Những thỏa thuận các bên trong hợp đồng giao dịch được cơ quan chuyên môn có thẩm quyền, khách quan, công tâm đánh giá, xem xét chứng nhận, giúp thỏa thuận của các bên được công khai, minh bạch hóa. Từ đó các bên có căn cứ, cơ sở để tôn trọng thực hiện các cam kết, thỏa thuận đã ký, ngăn chặn các giao dịch bất hợp pháp. Thứ hai, công chứng tháo gỡ ách tắc trong những trường hợp đặc biệt: Công chứng là một hoạt động dịch vụ đặc biệt, ngoài việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình như một tổ chức nghề nghiệp tại trụ sở làm việc, công chứng được thực hiện tận nơi theo yêu cầu nếu có lý do chính đáng không đi lại được ( Tạm giam, tạm giữ, thi hành hình phạt tù, ốm đau, bệnh tật,…). Thứ ba, công chứng phòng ngừa các rủi ro, tranh chấp ngăn chặn và hạn chế tình trạng lừa đảo: Trong những năm gần đây, hiện tượng lừa đảo, tranh chấp liên quan đến đất đai có chiều hướng gia tăng với tính chất tinh vi, phức tạp. Các giao dịch qua công chứng phần nào phát hiện các loại giấy tờ 17 giả mạo, chủ thể tham gia giao dịch đảm bảo tính pháp lý, văn bản công chứng đảm bảo chặt chẽ góp phần hạn chế các rủi ro khi xảy ra tranh chấp. Thứ tư, hoạt động công chứng là một chức năng bổ trợ tư pháp giúp cho một số cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong quá trình thực hiện một số nhiệm vụ của mình. Nhất là cơ quan tư pháp văn bản công chứng là nguồn cơ sở chứng cứ rất quan trọng trong quá trình giải quyết tranh tụng trong thực hiện giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình,… Thứ năm, công chứng là tạo chứng cứ hỗ trợ cho hoạt động của các cơ quan tài phán: Văn bản công chứng là vũ khí có hiệu lực, có giá trị pháp lý, là chứng cứ tin cậy giúp cho cơ quan trọng tài và cơ quan tòa án giải quyết công bằng, khách quan các tranh chấp dân sự, thương mại trong thực tiễn. Văn bản công chứng là nguồn bằng chứng cho các cá nhân nắm giữ bằng chứng này để chứng minh khi xảy ra các tranh chấp, bởi văn bản công chứng vừa là có giá trị chứng cứ và đồng thời nó cũng có giá trị thực hiện. Giá trị của văn bản công chứng: Văn bản công chứng theo quy định pháp luật công chứng hợp động được chứng nhận thì có hiệu lực thi hành cho các bên tham gia giao dịch, những trường hợp một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận trong hợp đồng giao dịch thì sẽ giải quyết theo quy định pháp luật. Trong khi đó luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng cũng quy định rất rõ ràng giá trị văn bản công chứng là giá trị chứng cứ mà các bên tham gia giao dịch không phải chứng minh. Điều này khẳng định văn bản công chứng nó rất có ý nghĩa cho các bên tham gia giao dịch trong việc bảo vệ quyền lợi của mình khi xảy ra các tranh chấp. Như vậy văn bản công chứng có các giá trị như sau: Thứ nhất là văn bản công chứng có giá trị thi hành: Có thể khẳng định rằng, văn bản công chứng ( các hợp đồng giao dịch) được thực hiện nếu chỉ 18 đơn thuần với mục đích tạo chứng cứ sẽ không có được ví trí, vai trò lớn như hiện nay trong đời sống xã hội. Bởi vì, nếu chỉ với mục đích tạo chứng cứ, sẽ không cần thiết phải duy trì thiết chế này khi mà việc xác lập bằng chứng có thể được thực hiện bởi những cơ chế khác chẳng hạn như Luật sư, hay thừa phát lại với chức năng lập vi bằng (hơn nữa, ngay tính bản thân một giao kết tự nguyện, đúng pháp luật đã có giá trị ràng buộc các bên tham gia giao kết đó phải chấp hành). Khi tham gia vào các giao dịch dân sự, các bên đều mong muốn thỏa thuận đã ký kết phải được tôn trọng thực hiện. Nếu sự thỏa thuận các bên được xác lập bằng một cơ chế khác hơn so với các cơ chế thông thường thì cơ chế này phải ưu việt hơn, phải đảm bảo chắc chắn hơn cho việc thực hiện các thỏa thuận này. Với thiết chế công chứng, yêu cầu này các bên được đáp ứng. Đó chính là cơ chế giá trị thi hành của văn bản công chứng. Giá trị thi hành văn bản công chứng thể hiện ở chỗ không chỉ có giá trị bắt buộc thi hành với các bên tham gia giao kết mà cả đối với các cơ quan nhà nước có liên quan. Trong trường hợp một bên trong khế ước không thực hiện đúng như thỏa thuận, bên kia có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền liên quan áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc bên kia thi hành mà không cần phải đặt lại vấn đề xem xét hiệu lực của hợp đồng đó. Vì vậy, theo luật của các nước theo hệ công chứng La tinh, văn bản công chứng có giá trị như một công chứng thư, có giá trị pháp lý bắt buộc thi hành không cần phải qua phán quyết của Tòa án. Văn bản công chứng đã được chứng nhận theo quy định pháp luật thì có giá trị thi hành cho các bên tham gia giao dịch. Việc xảy ra tranh chấp trong giao kết hợp đồng thì các có quyền yêu cầu tòa án giải quyết các nội dung tranh chấp không thể tự thỏa thuận được. Giá trị thi hành ở đây không đơn thuần chỉ là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng , giao dịch mà còn có giá trị thi hành đối với các chủ thể liên quan. Như cơ quan thuế; cơ quan tài nguyên môi trường; Văn phòng 19 đăng ký quyền sử dụng đất … đối với các hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản hoặc các cơ quan tổ chức khác,.. Thứ hai là văn bản công chứng có giá trị chứng cứ: Chứng cứ là mấu chốt trong việc giải quyết một tranh cãi, tranh chấp, bất đồng… khi trong việc đó thiếu những căn cứ để xác định quyền , lợi ích hoặc các sự kiện pháp lý. Để khẳng định quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý đó, thì cần phải có một bằng chứng, chứng minh sự tồn tại của nó, nếu không sẽ bị coi là không có sự tồn tại của quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý đó. Chứng cứ là cái cụ thể ( như lời nói hoặc việc làm, vật làm chứng, tài liệu, hình ảnh, nhân chứng…) chỉ rõ điều đó có thật. Về mặt bản chất, văn bản công chứng luôn mang tính chất xác thực của chứng cứ, do luôn phải thực hiện theo những thể thức, trình tự mà pháp luật bắt buộc. Nhờ vậy mà những tình tiết , sự kiện trong văn bản công chứng (Các hợp đồng giao dịch) luôn phải đảm bảo tính xác thực. Không những thế, tính xác thực của bất cứ tình tiết, sự kiện nào trong văn bản công chứng ( các hợp đồng, giao dịch) còn phải đáp ứng tiêu chí phù hợp các quy định của pháp luật nội dung và không trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy hợp đồng giao dịch đã được công chứng phản ảnh một cách xác thực nhất và hợp pháp nhất về những tình tiết, sự kiện chứa đựng trong nó ( về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch; đối tượng, hình thức của hợp đồng, giao dịch; thời gian, địa điểm, nội dung thể hiện ý chí và thống nhất ý chí của các bên, sự tự nguyện, xác thực về tính hợp pháp, về bản chất thực của những thỏa thuận mà các bên đương sự thiết lập). Đó là lý do tại sao mà văn bản công chứng luôn có độ tin cậy, chính xác cao và không thể bác bỏ trong quá trình sử dụng làm chứng cứ. Hệ quả tất yếu là bản thân những tình tiết, sự kiện được ghi nhận trong văn bản công chứng không cần phải được đánh giá lại tính xác thực, mặc nhiên xem nó là chứng cứ không phủ nhận. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan