Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh bắc ninh...

Tài liệu Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh bắc ninh

.PDF
119
1273
88

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________ ĐỖ KHẮC PHONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở TỈNH BẮC NINH Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN THẾ CHINH HÀ NỘI, 2010 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong vài ba thập kỷ gần đây, do sức ép về dân số và phát triển kinh tế, hiện tượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường bị suy thoái nghiêm trọng, thậm chí ở một số vùng bị phá huỷ hoàn toàn. Những vấn đề môi trường toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ôzôn, đa dạng sinh học giảm sút, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt... đang là thách thức đối với sự tồn tại của loài người. Do vậy, để duy trì chất lượng môi trường nhằm hướng tới phát triển bền vững đang là yêu cầu đặt ra đối với toàn thế giới cũng như mỗi một quốc gia. Để phát triển bền vững đòi hỏi phải có cơ chế quản lý Nhà nước đồng bộ và linh hoạt trên cả ba bộ phận cấu thành là: kinh tế, xã hội và môi trường. Hệ thống quản lý Nhà nước về môi trường ở nước ta đã được thành lập: Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ này. Xong hiện nay, các cơ quan quản lý môi trường cấp địa phương mới chỉ có tính kiêm nhiệm và phần lớn mới chỉ được triển khai đến cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW và cấp quận, huyện, còn thiếu các cơ quan quản lý môi trường ở cấp thấp hơn như phường, xã, làng... trong khi đó môi trường cộng đồng thuộc những cấp này lại là đầu nguồn phát sinh ô nhiễm. Thực tế cho thấy, hệ thống chính sách, pháp luật để quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững vẫn thiên về mệnh lệnh, kiểm soát theo cách tiếp cận áp đặt các biện pháp hành chính nên ít có hiệu quả về kinh tế, không khuyến khích được các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tích cực thực hiện bảo vệ môi trường. Do vậy, đã có một số nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở nhiều góc độ khác nhau. Đây là một cách tiếp cận phù hợp với xu hướng cải cách nền kinh 1 tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có diện tích tự nhiên là 803,6 km². Trong một số năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường của cả nước, kinh tế của Bắc Ninh có những bước tăng trưởng đáng khích lệ, năm 2005 là 13,5%, 2006 là 13,5%, năm 2007 là 15%, công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh, thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào khu công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh có 4 khu công nghiệp tập trung đang hoạt động là: Quế Võ, Tiên Sơn, Yên Phong, Đại Đồng - Hoàn Sơn, tiếp tục phát triển một số khu công nghiệp như: Quế Võ II, Nam Sơn - Hạp Lĩnh, Việt Nam Singapo, tập đoàn Hồng Hải, Yên Phong II, Thuận Thành I, II, III; quy hoạch 29 khu công nghiệp vừa và nhỏ và có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề truyền thống đang phát triển mạnh mẽ, phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh công nghiệp. Song, vấn đề quản lý môi trường hướng tới phát triển bền vững ở Bắc Ninh chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, môi trường trong những năm gần đây đang xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là môi trường làng nghề, môi trường các khu công nghiệp tập trung... có thể nói ô nhiễm môi trường ở Bắc Ninh là một điển hình trong cả nước, hay nói cách khác môi trường ở tỉnh Bắc Ninh đang ở cấp báo động đỏ. Tuy vậy, vẫn còn quá ít những nghiên cứu cơ bản về lý thuyết cũng như phân tích cụ thể Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh. 2.Tình hình nghiên cứu Vấn đề môi trường đã được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm từ những năm 1970 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường hướng tới sự phát triển bền vững là vấn đề mới được đề cập nhiều sau Hội nghị môi trường và phát triển bền vững có sự tham 2 gia của các nguyên thủ quốc gia tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) 1992; Đặc biệt sau Hội nghị về phát triển bền vững tại Johannesburg - Nam Phi, năm 2002 (Rio+10). Đối với nước ta, vấn đề quản lý và bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững đó được thể hiện trong Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam trên cơ sở Quyết định 153/2004/QĐ-TTg về Agenda 21 của Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, vai trò tác dụng của môi trường, ảnh hưởng của môi trường đến đời sống con người, tác động qua lại của môi trường đối với đời sống con người... Một số công trình nghiên cứu của các cấp, các ngành, các tầng lớp dân cư, nhiều nhà quản lý và các nhà khoa học đã được xuất bản như: Ban Khoa giáo TW - Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Việt Nam xuất bản năm 2001; PGS,TS Nguyễn Thế Chinh, Áp dụng các công cụ kinh tế để nâng cao năng lực quản lý môi trường ở Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999; GS.TS Lê Văn Khoa - Đại học Quốc gia Hà Nội, QLNN về môi trường và phát triển bền vững; Đánh giá tác động môi trường - phương pháp luận và thực tiễn (Nxb Kỹ thuật, Hà Nội 1994); TS Nguyễn Ngọc Sinh, TS Nguyễn Đắc Hy, TS Nguyễn Văn Tài - Cục Môi trường; Một số vấn đề cấp bách trong quản lý môi trường ở địa phương; Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, Hà Nội 2002; TS Trần Thanh Lâm, Quản lý môi trường địa phương trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước; TS Phạm Khôi Nguyên, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH-HĐH, Hà Nội 2005;... Ngoài ra còn có chuyên khảo Đặc san về môi trường nông thôn tháng 10 năm 2008; Đặc biệt ngày 22 tháng 4 năm 2005, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Hội nghị môi trường toàn quốc 2005 đã 3 được tổ chức tại Hà Nội với sự tham gia của trên 1000 đại biểu là lãnh đạo đại diện các Bộ, ngành, cơ quan, đoàn thể ở TW, lãnh đạo đại diện UBND, Ban Tuyên giáo, sở Tài nguyên và Môi trường của 64 tỉnh, thành phố trực thuộc TW trong cả nước, các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán các nước, đại diện các viện, các trường, cơ quan khoa học, các nhà quản lý, nhà khoa học với 220 báo cáo khoa học theo các chuyên đề khoa học - công nghệ về môi trường; Môi trường và Những vấn đề Kinh tế - Xã hội - Nhân văn; Tham vấn quốc tế xây dựng kế hoạch 5 năm về bảo vệ môi trường (2006-1010)... Những đề xuất khoa học và giải pháp của các công trình trên là rất có ý nghĩa, có tác dụng rất thiết thực đối với công tác quản lý và bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay và các địa phương. Trong luận văn, tác giả đã khai thác và kế thừa có chọn lọc những đóng góp đó. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu trên vẫn chủ yếu đề cập đến vấn đề mang tính kỹ thuật. Việc nghiên cứu quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường hướng tới sự phát triển bền vững còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục làm sáng tỏ. Đặc biệt đối với địa phương như tỉnh Bắc Ninh đang phải đối mặt với những vẫn đề xuống cấp nghiêm trọng của môi trường. Do đó tác giả chọn vấn đề "Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh" làm đề tài viết luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Thông qua đó phân tích thực trạng năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh, từ đó xây dựng các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích này, nhiệm vụ của luận văn là: - Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. 4 - Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh. Đặc biệt là các tổ chức cá nhân làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. * Phạm vi nghiên cứu: - Về học thuật: cơ sở lý luận liên quan đến quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. - Về thời gian: nguồn số liệu và cơ sở dữ liệu từ năm (1997-2009). - Về phạm vi lãnh thổ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Quan điểm sử dụng trong luận văn, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng cách tiếp cận: - Tiếp cận trên quan điểm duy vật biện chứng; - Tiếp cận trên quan điểm duy vật lịch sử; - Tiếp cận trên quan điểm tổng hợp; - Tiếp cận trên quan điểm hệ thống. * Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp các phương pháp để nghiên cứu: - Sử dụng các phương pháp khảo sát, thu thập tài liệu, thông tin, số liệu tại một số làng nghề, ban quản lý khu công nghiệp, cụm công nghiệp Bắc Ninh phục vụ nghiên cứu. 5 - Phương pháp thống kê phân tích, bằng việc sử dụng các số liệu ban đầu về thực trạng quản lý bảo vệ môi trường của tỉnh Bắc Ninh và các đơn vị thực hiện dự án môi trường ở Bắc Ninh, tiến hành khảo sát thực tế nhằm đánh giá kiểm chứng các vấn đề có liên quan. - Phương pháp so sánh, phương pháp chuyên gia: Tiến hành lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý về chủ đề quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. 6. Dự kiến những đóng góp của luận văn - Góp phần hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường và vai trò của nó đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam nói chung và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng; - Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. - Làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý môi trường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cho các đối tượng học viên cao học và sinh viên 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Chƣơng 2: Thực trạng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh. Chƣơng 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG 1.1. Nhận thức về môi trƣờng 1.1.1. Khái niệm môi trường Môi trường là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, vì vậy cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường. Tuy nhiên, môi trường sử dụng trong lĩnh vực pháp lí quản lý là khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Điều 3 Luật bảo vệ Môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa môi trường: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” . Như vậy, theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo. Môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất, trong đó những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng âm thanh, các hệ thực vật, hệ động vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn cả. Những yếu tố này được coi là những thành phần cơ bản của môi trường. Chúng hình thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng trong chừng mực nhất định. Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo. Những yếu tố này do con người tạo ra nhằm tác động tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân 7 mình, như: hệ thống đê điều, các công trình nghệ thuật, các công trình văn hóa kiến trúc... 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của môi trường - Tính cơ cấu (cấu trúc) phức tạp: môi trường bao gồm nhiều thành phần hợp thành (như tự nhiên, kinh tế, xã hội…) mỗi thành phần lại có bản chất khác nhau. Do vậy, nó bị chi phối bởi quy luật khách quan, và các quy luật đặc thù riêng của mỗi thành phần như các quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế, các quy luật xã hội. - Tính động: mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động không ngừng, khi vận động làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và sau đó lại có xu hướng lập lại thế cân bằng mới. Vì thế, cân bằng động là một đặc tính cơ bản của môi trường với tư cách là một hệ thống. Đặc tính đó cần được tính trong hoạt động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người. - Tính mở: Môi trường dù là lớn hay nhỏ như thế nào cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục “chảy” trong không gian và thời gian. Vì thế hệ môi trường rất nhạy cảm với những thay đổi bên ngoài, điều này lý giải vì sao các vấn đề môi trường mang tính vùng, tính toàn cầu, tính lâu dài và nó chỉ được giải quyết bằng nỗ lực của toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. - Khả năng tự tổ chức và điều chỉnh: Trong hệ môi trường có các phần tử cơ cấu là vật chất sống (con người, giới sinh vật) hoặc là các sản phẩm của chúng. Các phần tử này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hóa nhằm hướng tới trạng thái ổn định. Đặc tính cơ bản này của hệ môi trường quy định tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của con người, đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, 8 lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt, xây dựng các hồ chứa và các vành đai cây xanh…). 1.1.3. Vai trò của môi trường Đối với một cá thể con người, cũng như đối với cộng đồng con người và cả xã hội loài người, môi trường sống có vai trò quan trọng cụ thể là: - Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; - Môi trường là nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và sản xuất của mình Trong xã hội sản xuất hàng hoá chưa phát triển cao, mật độ dân số thấp, các chất thải thường được tái sử dụng. Thí dụ, các chất thải bài tiết được dùng làm phân bón; các chất thải từ nông sản, lâm sản được làm cho thức ăn gia súc, nhiên liệu. Những thành phần không thể tái sử dụng, tái chế thường được phân huỷ tự nhiên bởi các sinh vật và vi sinh vật, sau một thời gian ngắn để trở lại thành những hợp chất hoặc nguyên tố dùng làm nguyên liệu cho các quá trình sản xuất mới. Trong xã hội công nghiệp hoá, sản xuất hàng hoá phát triển, mật độ dân số cao, lượng chất thải thường rất lớn, môi trường không đủ nơi chứa đựng, quá trình tự phân huỷ không theo kịp so với lượng chất thải tạo ra. Hay người ta thường gọi lượng chất thải vượt quá mức chịu tải của môi trường. Đây là nguyên nhân cơ bản gây ra những biến đổi về môi trường ảnh hưởng tới cuộc sống của con người. - Môi trường là không gian sống, cung cấp các dịch vụ cảnh quan thiên nhiên: Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong không gian môi trường, môi trường là nơi duy nhất cho con người được hưởng các cảnh đẹp thiên nhiên, thư thái về tinh thần, thoả mãn các nhu cầu tâm lý. - Ngoài ra môi trường còn cung cấp thông tin cho con người. 9 1.1.4. Phân loại môi trường Tùy theo mục đích nghiên cứu và sử dụng, có nhiều cách phân loại môi trường khác nhau. Có thể phân loại môi trường theo các dấu hiệu sau đây: - Theo quy mô: Chủ yếu người ta phân loại môi trường theo không gian địa lý như môi trường toàn cầu, môi trường khu vực, môi trường quốc gia, môi trường vùng, môi trường địa phương. - Theo mục đích nghiên cứu sử dụng: Quản lý, sử dụng, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và xử lý chất thải sao cho không bị ảnh hưởng tới đời sống hiện tại cũng như đối với các thế hệ mai sau hay nói cách khác là chỉ xét tới những nhân tố tự nhiên và xã hội liên quan trực tiếp tới cuộc sống của con người. Với mục đích nghiên cứu của đề tài này chúng ta sẽ đi sâu vào tiếp cận phân loại môi trường theo chức năng. - Theo chức năng được chia làm các loại: - Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Môi trường xã hội: Là tổng thể các loại quan hệ giữa con người với con người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định… ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, các quốc gia, tỉnh huyện, cơ quan, làng, xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. 10 Môi trường nhân tạo: Bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở các khu vực đô thị, công viên nhân tạo… 1.2. Bảo vệ môi trƣờng là tất yếu khách quan nhằm hƣớng tới phát triển bền vững 1.2.1. Phát triển bền vững Đinh nghĩa của Liên Hợp Quốc (UNEP): “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa nãm các nhu cầu của thế hệ tương lai”. Hình: 1.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi trƣờng. Kinh tế Xã hội Phát triển bền vững Môi trường Phát triển bền vững là sự phát triển cân đối giữa ba cực: tăng trưởng kinh tế, xã hội và môi trường, cả ba cực tồn tại độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ thống nhất với nhau đó là cùng hướng tới phát triển bền vững. Do vậy, không được xem nhẹ cực nào. Theo Quyết định số 153/2004/QĐ - TTg để triển khai thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững, tháng 12 năm 2004 tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai trương trình nghị sự 21 của Việt Nam. Chương trình tập trung nhiều nội dung, trong đó có hướng 11 dẫn xây dựng thực hiện chương trình phát triển bền vững tại các ngành, địa phương, nhấn mạnh các ngành, các cấp, các địa phương cần lồng ghép định hướng phát triển bền vững trong quy hoạch phát triển, trong công tác kế hoạch. Thực hiện Nghị quyết trên Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Quyết định số 73/2007/QĐ- UBND ngày 31/10/2007 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2010 (Chương trình Nghị sự 21 tỉnh Bắc Ninh). Chương trình đã đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường giai đoạn 2001 - 2006, đồng thời đưa ra định hướng phát triển bền vững giai đoạn 2006 - 2010 định hướng đến năm 2020; Chương trình đã xây dựng những lựa chọn ưu tiên để phát triển bền vững trên 03 lĩnh vực chủ yếu: lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và đưa ra các giải pháp tổ chức thực hiện. Trong những năm qua, kinh tế - xã hội Bắc Ninh liên tục phát triển, tốc độ phát triển luôn đạt ở mức cao và ổn định, bình quân 5 năm 2001 - 2005 đạt 14%/năm. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Bắc Ninh đang phải đối mặt với với nhiều khó khăn, thách thức. Đó là tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, đa dạng sinh học bị cạn kiệt, môi trường có dấu hiệu xuống cấp, đời sống sức khỏe của bộ phận dân cư bị ảnh hưởng. Với mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015, Bắc Ninh đang chủ trương chủ động huy động các nguồn lực phát triển nhằm thực hiện thành công mục tiêu đề ra. 1.2.2. Bảo vệ môi trường nhằm hướng tới phát triển bền vững Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của quá trình phát triển cuộc sống con người. Muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ổn định và phát triển, con người phải bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững. Vậy để bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững chúng ta phải tuân thủ những nguyên tắc sau đây: - Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng; 12 - Cải thiện cuộc sống của con người; - Bảo vệ cuộc sống và tính đa dạng của trái đất, đa dạng sinh học; - Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được; - Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân. Đó là thói quen đối xử không tôn trọng thiên nhiên, nước nghèo thì tấn công vào thiên nhiên để tồn tại, còn các nước giầu thì tiêu dùng lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Mọi người trên hành tinh không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, tuổi tác đều phải có quan niệm đúng đắn về giá trị của nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất và những tác động của con người đối với chúng. - Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. Có như vậy mới gắn trách nhiệm và quyền lợi của các cộng đồng với môi trường mà họ đang sống. - Một xã hội bền vững phải biết kết hợp hài hoà giữa phát triển và bảo vệ môi trường, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương phải có cơ cấu thống nhất về quản lý bảo vệ môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên khoáng sản. 1.2.3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền vững - Mối quan hệ ngày càng phát triển sâu rộng: Tương ứng với quá trình phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ, sự tác động của con người trong quá trình phát triển đến môi trường ngày càng mạnh mẽ về cường độ, sâu sắc và phức tạp về tính chất, đồng thời ngày càng mở rộng về quy mô đe dọa đến sự PTBV. - Mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên, lâu dài và qua lại. Trong môi trường sống, con người chỉ là một bộ phận không thể tách rời, mà gắn bó mật thiết với từng thành phần của môi trường. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình sinh hoạt, phát triển kinh tế - xã hội con người liên tục, thường xuyên tác động vào môi trường, làm biến đổi môi trường và tạo ra các loại môi trường riêng (Môi trường nhân tạo) ngày càng đa dạng và phong phú. 13 - Giải quyết sự lựa chọn giữa phát triển và bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững. Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội. Phát triển là xu thế tất yếu của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Các hoạt động phát triển kinh tế tác động đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi hoặc không có lợi. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên, đang là đối tượng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực. Có thể nói rằng, mọi vấn về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển. Con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hóa và ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường làm được như vậy là đã giải quyết được sự phát triển bền vững. 1.3. Quản lý Nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng 1.3.1. Bản chất quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xét về mặt bản chất khác với những hình thức quản lí khác như các hình thức quản lí bảo vệ môi trường do các tổ chức phi chính phủ (NGO: none Government) đảm nhiệm; quản lí môi trường dựa trên cơ sở cộng đồng; 14 Quản lí môi trường có tính tự nguyện… Hình thức quản lí Nhà nước về môi trường chủ yếu là điều hành và kiểm soát (CAC: comment And Control). Quản lí Nhà nước về môi trường là quá trình Nhà nước bằng các cách thức, công cụ và phương tiện khác nhau tác động đến các hoạt động của con người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa môi trường và phát triến sao cho vừa thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người vừa đảm bảo được chất lượng của môi trường sống [nguồn Luật BVMT 2005]. Và như vậy chúng ta có thể thấy rằng Quản lý Nhà nước là sự sử dụng tổng hợp các công cụ, các biện pháp, chính sách, kinh tế, hành chính, khoa học - kỹ thuật - công nghệ xã hội nhân văn, văn hóa... của Nhà nước và của các Chính quyền ở Địa phương một cách thích hợp và đồng bộ để tác động, hướng dẫn điều chỉnh và giám sát các hoạt động của con người, của các tổ chức xã hội, nhằm giữ vững sự thống nhất và hài hòa giữa sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sao cho vừa thỏa mãn nhu cầu sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội, vừa bảo đảm chất lượng sinh thái nhân văn nằm trong khả năng chịu đựng của các điều kiện tự nhiên. Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường quan trọng nhất là quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát việc bảo vệ môi trường. Để thực hiện tốt việc quản lý bảo vệ môi trường cần phải biết sử dụng sức mạnh tổng hợp các biên pháp, các loại công cụ quản lý một cách đồng bộ, thích hợp. Mỗi một công cụ quản lý chỉ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định. Nhiệm vụ của Nhà nước là liên kết chúng lại với nhau một cách thích hợp để chúng có thể hỗ trợ lẫn nhau. Vì các công cụ quản lý Nhà nước là sự cụ thể hóa các biện pháp, phương tiên nhằm thực hiện những nội dung của công tác quản lý bảo vệ môi trường của Nhà nước ở tất cả các cấp. Quản lý Nhà nước về môi trường là một trong những hệ thống quản lý của Nhà nước bao gồm các nội dung cơ bản sau: 15 + Ban hành tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường. + Xây dựng thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. + Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường. Như hệ thống thuỷ lợi (đê sông, đê biển, hồ chứa nước…), khu vực trồng rừng đầu nguồn, xây dựng công viên, vành đai cây xanh của các thành phố, khu công nghiệp… + Tổ chức xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường. + Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất kinh doanh. + Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường của các chủ thể hoạt động, đặc biệt của các cơ sở sản xuất kinh doanh. + Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. + Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường. + Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. + Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tóm lại, quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là một nội dung cụ thể của quản lý Nhà nước. Đó là việc sử dụng các công cụ quản lý trên cơ sở khoa học, kinh tế, luật pháp, để tổ chức các hoạt động nhằm đảm bảo giữ cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. 16 1.3.2. Tính tất yếu khách quan của quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường Xuất phát từ đặc tính chung của môi trường là có khả năng tự phục hồi, tự làm sạch, nhưng khi đã bị biến đổi mạnh bởi quá trình phát triển thường không thể tự lấy lại cân bằng được. Để môi trường có thể lấy lại trạng thái cân bằng nhất thiết phải có sự can thiệp của con người một cách có ý thức. Sự can thiệp này không chỉ của từng cá nhân con người, mà phải là của cả cộng đồng người. Hoạt động mang tính cộng đồng này luôn đòi hỏi phải có tính tổ chức quyền lực cao. Nhà nước với tư cách là người đại diện hợp pháp lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động, với bộ máy quyền lực công mới có thể tổ chức được hoạt động này một cách có kết quả. Nhà nước là chủ sở hữu đối với hầu hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng núi, sông hồ… những nguồn tài nguyên này cũng đồng thời là những yếu tố, những thành phần quan trọng của môi trường sống. Là chủ sở hữu Nhà nước có đầy đủ quyền hạn để thiết lập nên chế độ quản lí và sử dụng chúng để vừa đảm bảo thu được lợi ích kinh tế, vừa bảo vệ được môi trường, góp phần vào việc giữ cân bằng trạng thái môi trường. Quản lí mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước, trong đó quản lí môi trường là một mặt, một lĩnh vực quan trọng và ngày càng được xem là một lĩnh vực cốt yếu. Kinh nghiệm ở các nước đã đạt được thành tích cao trong hoạt động bảo vệ môi trường cho thấy quản lí Nhà nước về môi trường là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lí và luôn giữ được môi trường ở trạng thái cân bằng. Vấn đề ngoại ứng và hàng hoá công cộng. Như chúng ta đã biết ngoại ứng hàng hoá công cộng là những nguyên nhân gây ra thất bại thị trường, nghĩa là thất bại về mặt chính sách trong quản lí bảo vệ môi trường, hậu quả là gây ra những thiệt hại cho môi trường, đe dọa nghiêm trọng tới phát triển bền vững của quốc gia. Vậy để khắc phục tình 17 trạng này đòi hỏi phải có sự quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là một tất yếu khách quan. 1.3.2.1. Ô nhiễm môi trường đe doạ đến sự sống của con người Trong “Tuyên bố Joannesburg về phát triển bền vững” năm 2002 của Liên Hiệp Quốc đã khảng định về những thách thức mà nhân loại đang và sẽ phải đối mặt có nguy cơ toàn cầu là: “Môi trường toàn cầu tiếp tục trở nên tồi tệ. Suy giảm đa dạng sinh học tiếp diễn, trữ lượng cá thể tiếp tục giảm sút, sa mạc hoá cướp đi nhiều đất đai mầu mỡ, tác động của biến đổi khí hậu đã biểu hiện rõ ràng. Thiên tai ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Các nước đang phát triển trở nên dễ bị tổn hại hơn. Ô nhiễm không khí, nước và biển tiếp tục lấy đi cuộc sống thanh bình của hàng triệu người”. Đối với những vấn đề cụ thể về ô nhiễm môi trường. - Sự biến đổi khí hậu: Từ thực tế về biến đổi của khí hậu trong những năm vừa qua cho thấy tính chất biến đổi rất phức tạp, thất thường. Diễn biến nhiệt độ có xu hướng tăng lên với đặc điểm là phân hoá mạnh theo cả không gian và thời gian. Ví dụ như ở Hà Nội So sánh với biến đổi toàn cầu tăng khoảng 7% sau gần 150 năm (1854 - 2000) thì nhiệt độ trung bình năm của Hà Nội đã tăng khoảng 0,75% sau 41 năm (1960 - 2001) lượng mưa phân bổ không đều, nhiều vùng lượng mưa phân bổ khá lớn dẫn đến lũ lụt. Một số nơi thiếu mưa nghiêm trọng dẫn đến hạn hán. Bão, lũ, lụt diễn biến phức tạp, thường xuất hiện sớm với cường độ mạnh. Từ những đánh giá trên cho thấy xu hướng biến đổi khí hậu theo chiều hướng ngày càng xấu. - Môi trường không khí: Không khí chịu tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, thực tế cho thấy chất lượng không khí ở đô thị và các khu công 18 nghiệp trong những năm gần đây có sự thay đổi không đáng kể. Điều đáng chú ý nhất đối với môi trường không khí là ô nhiễm bụi có tính điển hình và phổ biến ở khắp mọi nơi. Hầu hết các đô thị đều ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm bụi trầm trọng tới mức báo động. Nồng độ bụi trung bình ở hầu hết các đô thị đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1-2 lần, cá biệt có nơi vượt tiêu chuẩn cho phép tới 5-7 lần. Nguyên nhân chính là do thi công xây dựng mới và sửa chữa nhưng không được quản lý tốt. - Môi trường đất: Thoái hoá là xu hướng phổ biến từ đồng bằng đến trung du và miền núi. Việc sử dụng các hoá chất trong nông nghiệp không đúng kỹ thuật là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số địa phương và xu hướng ngày càng gia tăng. - Môi trường nước: Do áp lực tăng dân số cùng với tốc độ của công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh là nguyên nhân cơ bản gây lên áp lực đối với môi trường nước. Hầu hết nước thải sinh hoạt (kể cả nước thái bệnh viện) ở đô thị là 90% nước thải từ các khu công nghiệp cũ chưa được xử lý, xả trực tiếp vào kênh mương, sông, hồ gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường nước ở một số địa phương. Lượng nước ngầm ở một số thành thị lớn đang có xu hướng cạn kiệt dần về lượng, có dấu hiệu nhiễm và suy giảm mực nước ngầm vào mùa hè. - Môi trường nông thôn: Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề và các cơ sở chế biến ở một số vùng nông thôn, do công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong dân và hầu như không có thiết bị thu gom, xử lý chất thải, đã gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt nghiêm trọng là các làng nghề tái chế kim loại, tái chế ni lông, sản xuất giấy, nhuộm vàng mã… Đối với phần lớn các khu vực nông thôn chưa được cải 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng