Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu, thuế nhập khẩu theo pháp lu...

Tài liệu Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu, thuế nhập khẩu theo pháp luật việt nam

.PDF
130
314
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THU TRANG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành Mã số : Luật Kinh tế : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.3. 1.3.1. 1.3.2. 1.3.3. 1.3.4. 1.3.5. 1.4. 1.4.1. 1.4.2. 1.4.3. 1.4.4. 1.5. 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Khái niệm và đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Khái niệm và nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Khái niệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Vai trò của quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước Bảo hộ sản xuất trong nước Hạn chế tối đa hành vi vi phạm pháp luật về thuế Thực hiện các chính sách đối ngoại Một số cam kết quốc tế ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Cam kết quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới Cam kết quốc tế của Tổ chức Hải quan thế giới Cam kết quốc tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Cam kết quốc tế song phương Kinh nghiệm và xu hướng đổi mới quản lý nhà nước trong 2 7 7 7 10 11 11 12 21 21 21 22 23 23 24 24 27 29 30 30 1.5.1. 1.5.2. 1.5.3. 1.5.4. 2.1. 2.1.1. 2.1.2. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.2.4. 2.2.5. 2.2.6. 3.1. lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở một số nước trên thế giới. Kinh nghiệm của Singapore trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Kinh nghiệm của Đài Loan trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Bài học kinh nghiệm cho Việt nam trong việc hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM Chủ thể quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của chủ thể quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Hoạt động quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Hoạt động xây dựng, thu thập thông tin về người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Hoạt động quản lý thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho Ngân sách nhà nước Quản lý miễn, giảm, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Kiểm tra, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Xử lý vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật 3 30 33 34 36 39 39 39 41 47 47 52 74 80 86 89 93 93 3.2. 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. 3.3. 3.3.1. 3.3.2. 3.3.3. 3.3.4. 3.3.5. 3.3.6. 3.3.7. 3.3.8. 3.3.9. về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Theo chương trình cải cách, hiện đại hóa ngành hải quan, ngành tài chính, cải cách nền hành chính nhà nước Đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Hoàn thiện các quy định của pháp luật về cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của các bên liên quan trong việc cung cấp thông tin về người nộp thuế. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý miễn, giảm, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Bổ sung quy định về giá trị thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tối thiểu không thu, không truy thu, không hoàn, truy hoàn, xử lý tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nộp thừa. Hoàn thiện khung pháp lý để triển khai hải quan điện tử Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 96 96 98 98 99 99 101 103 110 111 113 114 115 116 118 121 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Nhà nước để có thể tồn tại và hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình thì cần phải có cơ sở vật chất nhất định. Do vậy, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động, tập trung nguồn của cải đó được thực hiện bằng các cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng góp bắt buộc được gọi là thuế. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những sắc thuế có ý nghĩa quan trọng, vừa là nguồn động viên ngân sách quốc gia, vừa là công cụ để điều tiết sản xuất trong nước, đồng thời cũng là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế trong nước và thương mại quốc tế phát triển. Để phát huy tối đa vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nhà nước cần có những chính sách, quy định, công cụ phù hợp để quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một đề tài có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Pháp luật luôn thay đổi theo thời gian. Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng không nằm ngoài quy luật khách quan này. Một trong những thành công của tiến trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam là việc Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Việt Nam đã có những chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý cho việc gia nhập này, đặc biệt là những quy định pháp lý về thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã 5 đưa đến cho Việt Nam những cơ hội mới nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực cho công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (như dàn xếp tránh thuế, chuyển giá,...), đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải được đổi mới về thẩm quyền, kỹ năng, biện pháp quản lý. Các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần tăng cường quản lý, giám sát thực thi công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế. Bên cạnh đó, trước yêu cầu cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ, các quy định về thủ tục hành chính trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải tiếp tục cải cách hơn nữa, đi đôi với việc tạo cơ sở pháp lý để thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thuế như kê khai thuế điện tử, hải quan điện tử.... Đồng thời, thực tiễn của Việt Nam về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong những năm qua cũng có nhiều biến chuyển. Việc hội nhập quốc tế, phát triển thương mại quốc tế khiến cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam có sự thay đổi lớn. Số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tăng lên nhanh chóng, nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú. Điều này kéo theo việc quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cần phải có sự thay đổi để phù hợp với thực tiễn. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về việc quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu, chính sách thuế xuất khẩu nhập khẩu ở Việt Nam là một nhu cầu cần thiết. Từ tất cả những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình. 6 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đề tài về pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một đề tài thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả cả ở phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên phương diện chuyên sâu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này thì chưa có nhiều. Theo dõi các công trình nghiên cứu hoặc tài liệu liên quan đến thuế xuất khẩu, nhập khẩu cho thấy: Trong chương trình đào tạo bậc đại học, một số vấn đề của pháp luật quản lý thuế được đề cập ở nội dung giảng dạy như, “Giáo trình Luật tài chính Việt Nam” của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002; “Giáo trình Luật thuế Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005; “Giáo trình nghiệp vụ thuế” và “Giáo trình lý thuyết thuế” của Học viện Tài chính năm 2005… Ở chương trình đào tạo sau đại học chuyên ngành luật, một số luận văn và luận án đề cập đến vấn đề quản lý thuế dưới giác độ nghiên cứu về từng vấn đề riêng lẻ trong toàn bộ quá trình quản lý thuế nói chung, chẳng hạn như luận án tiến sỹ luật học “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp” của nghiên cứu sinh Vũ Văn Cương; luận văn thạc sỹ luật học “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về thuế ở Việt Nam” của tác giả Trần Trung Nhân; luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật Quản lý thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan” của tác giả Đoàn Mạnh Hải… Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu trên báo, tạp chí liên quan đến quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như bài viết “Thông tin về người nộp thuế trong luật quản lí thuế ở nước ta hiện nay” của ThS.Vũ Văn Cương đăng trên Tạp chí Luật học số 4/2009; “Bản chất của thuế - sự tiếp cận từ các học thuyết thuế cổ điển và hiện đại” của TS. Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp chí luật học số 4/2009; “Các nguyên tắc của pháp luật thuế và mô hình cấu 7 trúc của hệ thống pháp luật thuế” của TS. Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2008; bài viết “Phát triển bền vững và một số vấn đề đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế Việt Nam” của TS. Phạm Thị Giang Thu đăng trên Tạp chí Luật học số 4/2009... Các công trình nghiên cứu trên phần nhiều đề cập đến một khía cạnh trong công tác quản lý thuế nói chung mà chưa đề cập chuyên sâu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục đích Luận văn của tác giả là đưa ra một cái nhìn tổng quát nhất các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng về vấn đề này. Trên cơ sở đó có sự so sánh, đối chiếu pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam qua các thời kỳ, so sánh đối chiếu pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam với pháp luật nước ngoài, các Cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia có liên quan. Đồng thời Luận văn cũng đưa ra một số ý kiến đóng góp, kiến nghị với hy vọng góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Với mục đích như trên, Luân văn có nhiệm vụ: - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; - Phân tích, đánh giá khái quát các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn áp dụng như: cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thủ tục hành chính quản lý thuế cơ bản như khai thuế, ấn định thuế, thu nộp thuế; miễn, giảm, hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; xử lý vi phạm pháp luật vê thuế…Các quy định này 8 sẽ được phân tích đánh giá trên cơ sở đánh giá sự thay đổi so với quy định cũ của pháp luật trước đây kết hợp với so sánh đối chiếu với pháp luật nước ngoài, các Cam kết quốc tế có liên quan; - Trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu để rút ra những mặt được cũng như chưa được, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam ; các cam kết quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã ký kết, tham gia cũng như một số quy định của pháp luật nước ngoài về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, xác định theo các giới hạn sau: - Đối với vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luận văn chỉ nghiên cứu khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là cơ quan Hải quan. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cở sở phương pháp luận của triết học Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, chính sách của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả sử dụng phương pháp so sánh bằng cách đối chiếu từng giai đoạn lịch sử phát triển, đối chiếu với pháp luật nước ngoài, cam kết quốc tế liên quan. 9 Tác giả cũng sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu từ các báo cáo định kỳ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đánh giá một cách chính xác, khách quan thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trên cơ sơ những phương pháp nghiên cứu này, tác giả làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có 3 chương sau đây: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khảu ở Việt Nam Chương 3; Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam 10 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU 1.1. Khái niệm và đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời, tồn tại và phát triển là đòi hỏi cần thiết, khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nhà nước muốn tồn tại, hoạt động và phát triển cần phải có cơ sở vật chất nhất định. Do vậy, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải trong xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như quyên góp của dân, vay dân và dùng quyền lực bắt dân phải đóng góp. Trong đó, quyên góp và vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định lâu dài, thường chỉ được sử dụng giới hạn trong những trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng thuế. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm như sau: C.Mác viết: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước”. Ph.Ăng ghen cũng đã viết: “Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó là thuế má.” Còn theo Lê Nin, “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và “thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế” [27]. Tài liệu giảng dạy về thuế tại một số trường đại học tại Việt Nam đưa ra khái niệm về thuế như sau: “Thuế là khoản thu nộp mang tính chất bắt buộc 11 mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định” [49]; “Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng” [31]. Có thể khái quát khái niệm về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện theo luật định cho Nhà nước với mức độ, thời hạn cụ thể để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Với tính chất là một khoản đóng góp bắt buộc của người dân cho Nhà nước, theo thời gian, theo sự phát triển kinh tế, xã hội, mỗi quốc gia đặt ra cho mình những sắc thuế và chính sách thuế riêng phù hợp nhu cầu phát triển của đất nước. Một trong những sắc thuế quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong nguồn thu thuế của Nhà nước là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nguồn gốc từ lâu đời, được sử dụng rộng rãi trên thế giới và còn được gọi là thuế quan. Xét trong quá trình vận động của hàng hóa qua cửa khẩu thì thuế quan có hai loại: Thuế xuất khẩu là loại thuế đánh trên hàng hóa xuất khẩu qua khỏi biên giới quốc gia; Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu từ thị trường nước ngoài vào thị trường trong nước. Theo thời gian, cùng với xu hướng phát triển, hoạt động kinh tế mỗi nước ngày càng liên kết, hợp tác với nhau trong một tổng thể chứ không còn giới hạn trong chính quốc gia đó. Vì vậy, các khái niệm “tự cung, tự cấp”, “bế quan tỏa cảng” dần trở nên xa lạ với thời đại mới, thay vào đó là các khái niệm “kinh tế mở”, “toàn cầu hóa”. Hàng hóa dịch vụ sản xuất trong nước có thể xuất khẩu ra nước ngoài, đồng thời hàng hóa dịch vụ nước ngoài nhập khẩu vào trong nước để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Để quản lý, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vào quốc gia, điều tiết nền kinh tế, đồng thời để tăng thêm nguồn thu cho Ngân sách, Nhà nước đặt ra 12 thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và có những chính sách áp dụng phù hợp với từng thời kỳ. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ra đời như là chiếc cầu nối để hòa nhập kinh tế thế giới mà không phá vỡ tính cân bằng của nền kinh tế cũng như phát huy tính lợi thế của mỗi quốc gia và trở thành công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Theo Từ điển Luật học: “Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới”[48]. Theo Từ điển Kinh tế học (Anh – Việt – Giải thích): “Thuế nhập khẩu là khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được sử dụng để tăng nguồn thu cho Chính phủ và bảo hộ ngành sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài [48]. Để có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ta phải xác định được thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàm chứa những nội dung cơ bản sau: Một là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa; Hai là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu áp dụng đối với hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu; Ba là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nét khác biệt so với các loại thuế khác là không áp dụng đối với hàng hóa sản xuất và tiêu thụ ở thị trường nội địa mà chỉ đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu; luôn gắn với hoạt động xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động này và do vậy thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những công cụ thuộc chính sách kinh tế thương mại quốc tế của một quốc gia. Từ những nội dung trên, ta có thể định nghĩa: “Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng 13 hóa; do các tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp cho Nhà nước theo luật định. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế tài chính, thương mại vĩ mô tổng hợp, gắn liền với cơ chế quản lý xuất nhập khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia”. 1.1.2. Đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế quan trọng, có những đặc điểm riêng phân biệt với các loại thuế khác. Điều này thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của hàng hóa. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu. Người nộp thuế là người thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Việc tăng, giảm thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp tới giá cả hàng hóa, từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu của người tiêu dùng hàng hóa, buộc nhà sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa phải điều chỉnh sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Thứ hai, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương. Hoạt động ngoại thương giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương thông qua việc kê khai, tính thuế đối với các hàng hóa xuất nhập khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thường căn cứ vào giá trị và chủng loại hàng hóa cũng như chính sách thương mại trong từng thời kỳ. Thứ ba, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như: sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc 14 tế. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu điều chỉnh vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia. Sự biến động của kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới hàng hóa xuất nhập khẩu của các quốc gia, nhất là trong giai đoạn tự do hóa thương mại, mở cửa và hội nhập quốc tế như hiện nay. Để đạt được những mục tiêu đặt ra, chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải có sự linh hoạt, thay đổi phù hợp theo sự biến động của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế, đồng thời cũng phải đảm bảo tuân thủ theo các cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia ký kết, tham gia. 1.2. Khái niệm và nội dung cơ bản về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1.2.1. Khái niệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Khái niệm quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa rộng được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước. Cũng có khi do nhân dân trực tiếp thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu toàn dân, hoặc do các tổ chức xã hội, các cơ quan xã hội thực hiện nếu được nhà nước giao quyền thực hiện chức năng nhà nước. Quản lý nhà nước ở đây không phải là quản lý cái tổ chức chính trị gọi là nhà nước, mà là sự quản lý có tính chất nhà nước, do nhà nước thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, trên cơ sở quyền lực nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước [54]. Quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa hẹp tức là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước - chỉ là một trong bốn loại hoạt động của nhà nước nếu xét theo pháp luật hiện hành của nhà nước ta (ba loại hoạt động khác là: hoạt động lập pháp và giám sát sự thi hành pháp luật, hoạt động kiểm sát, hoạt động xét xử). Hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan nhà nước đứng đầu là Chính phủ [54]. 15 Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể được hiểu như sau: Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc nhà nước tác động có tổ chức và bằng pháp quyền đối với các quá trình kinh tế xã hội và hành vi của con người nhằm thực hiện các mục tiêu chung thông qua công cụ thuế quan. Theo cách hiểu này, phạm vi của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm toàn bộ các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp về lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hay xét theo pháp luật hiện hành của nước ta là toàn bộ bốn loại hoạt động lập pháp; hoạt động chấp hành, điều hành; hoạt động kiểm sát và hoạt động xét xử. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thực hiện các quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được hiểu theo nghĩa hẹp. 1.2.2. Nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Khi đề cập đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chúng ta cần phải quan tâm đến chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội dung quản lý. 1.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước như: hệ thống các cơ quan lập pháp với vai trò là người nghiên cứu và xây dựng hệ thống pháp luật thuế; các cơ quan hành pháp với tư cách là người chỉ đạo, điều hành công tác quản lý 16 thuế. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận văn chỉ đề cập đến cơ quan Hải quan là chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với nhiệm vụ được quy định tại Điều 11 Luật Hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005: “thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu”. 1.2.2.2. Đối tượng chịu sự quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Đối tượng chịu sự quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tổ chức, cá nhân nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm: Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; tổ chức nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh, gửi hoặc nhận hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh và nộp thay thuế (Đại lý làm thủ tục hải quan trong trường hợp được đối tượng nộp thuế ủy quyền nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thay thuế cho đối tượng nộp thuế); tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh, nộp thay thuế cho đối tượng nộp thuế. 1.2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập Một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 17 Hiện nay, các nước trên thế giới quản lý thuế theo ba (03) mô hình: (i) tổ chức bộ máy quản lý theo sắc thuế là việc tổ chức bộ máy quản lý thuế thành từng phòng/ban riêng biệt để quản lý một hoặc một số loại thuế cụ thể; (ii) tổ chức bộ máy quản lý thuế theo chức năng là việc cơ quan thuế tổ chức bộ máy thành các bộ phận riêng lẻ để thực hiện từng chức năng quản lý chính đối với tất cả các loại thuế; (iii) tổ chức bộ máy quản lý thuế theo nhóm đối tượng nộp thuế là việc tổ chức bộ máy quản lý thuế theo từng phòng/ban chịu trách nhiệm cung cấp đầy đủ các dịch vụ và quản lý một nhóm đối tượng nộp thuế xác định [12]. Mối quan hệ tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý thuế với Chính phủ cũng được xây dựng theo một số mô hình như: mô hình cơ quan quản lý thuế (bao gồm cả cơ quan Hải quan) là cơ quan trực thuộc Chính phủ, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ hoặc mô hình cơ quan quản lý thuế trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Hiện hành, Việt Nam đang áp dụng mô hình quản lý thuế theo chức năng và cơ quan quản lý thuế trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Cùng với việc xây dựng mô hình thì xây dựng cơ chế quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhâp khẩu. Cơ chế quản lý thuế thường tồn tại theo hai phương thức: (i) cơ chế cơ quan quản lý thuế tính thuế và ra thông báo thuế; (ii) cơ chế người nộp thuế tự kê khai, tự nộp thuế. Trong đó, quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế là phương thức quản lý thu thuế tiên tiến, hiện đại đang được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Theo cơ chế này thì các tổ chức, cá nhân nộp thuế căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ kê khai của ḿ ình và căn cứ vào các quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế tự tính ra số thuế phải nộp ngân sách Nhà nước, từ đó tự kê khai và tự thực hiện nghĩa vụ nộp số thuế đã kê 18 khai vào Ngân sách Nhà nước theo đúng thời hạn qui định của pháp luật. Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của tổ chức, cá nhân kinh doanh, nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không kê khai, kê khai không đúng, không nộp thuế, trốn thuế, gian lận về thuế... Trước đây, Việt Nam áp dụng quản lý thuế theo cơ chế cơ quan quản lý thuế tính thuế và ra thông báo thuế. Năm 2006, Luật Quản lý thuế số 78 được ban hành với quy định về việc áp dụng quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự kê khai, tự nộp thuế. Điều 30 Luật Quản lý thuế số 78 năm 2006 quy định: “Điều 30. Nguyên tắc khai thuế và tính thuế 1. Người nộp thuế phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các loại chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan quản lý thuế. 2. Người nộp thuế tự tính số thuế phải nộp, trừ trường hợp việc tính thuế do cơ quan quản lý thuế thực hiện theo quy định của Chính phủ.” Đây được coi là bước ngoặt quan trọng trong lộ trình cải cách thuế ở nước ta nhằm hướng đến một nền quản lý thuế tiên tiến, phù hợp với thông lệ quốc tế. Để vận hành cơ chế quản lý thuế theo phương thức này, các quy định pháp luật về quản lý thuế phải chặt chẽ, minh bạch để làm sao quy định của pháp luật vừa là hành lang pháp lý tạo điều kiện cho người nộp thuế chủ động, tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhưng đồng thời cũng có cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý thuế để người nộp thuế thực hiện đúng theo quy định. Bên cạnh nội dung về xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế quản lý, khi nói đến quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chúng ta 19 phải nói đến nội dung tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nội dung cơ bản của việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm: Một là, thu thập thông tin về đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thông tin về đối tượng nộp thuế cho biết “lai lịch”, “lịch sử” hoạt động của đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Những thông tin liên quan đến doanh nghiệp cung cấp cho cơ quan Hải quan là những căn cứ để cơ quan Hải quan ra các quyết định quản lý như quyết định hình thức mức độ kiểm tra, quyết định việc có được ân hạn thuế hay không … Để quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, cơ quan quản lý thuế trước hết phải thực hiện tốt việc quản lý đối tượng nộp thuế như: Đăng ký mã số thuế , quản lý đối tượng nộp thuế theo hệ thống mã số, nắm bắt cập nhật các thông tin về đối tượng nộp thuế…Các thông tin này giúp cho cơ quan quản lý thuế quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, quản lý hồ sơ đối tượng nộp thuế để lưu trữ, tra cứu, kiểm tra khi cần thiết. Hai là, quản lý thu nộp Ngân sách Nhà nước. Một hệ thống thuế hiện đại phải được thể hiện ở quy trình quản lý thu thuế hiện đại, tối ưu. Trên cơ sở tự tính thuế, đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu có nghĩa vụ nộp đầy đủ số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vào Ngân sách theo quy định. Cơ quan Hải quan có trách nhiệm theo dõi việc thu nộp và tổ chức việc thu đòi khi quá thời hạn mà đối tượng nộp thuế chưa nộp vào Ngân sách. Việc quản lý các phát sinh về tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần được thực hiện theo chuẩn mực kế toán hiện hành. Cơ quan Hải quan tổ chức thực hiện việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm một số 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan