Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh hải dương tt...

Tài liệu Quản lý môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh hải dương tt

.PDF
29
469
105

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một nước đang trên con đường phát triển công nghiệp hóa. Nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là “Mục tiêu phát triển đất nước Việt Nam đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Công nghiệp hoá là giai đoạn phát triển tất yếu của mọi quốc gia từ một nền kinh tế nông nghiệp, kém phát triển trở thành một nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Từ năm 1986 đến nay, với việc thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chủ trương của Nhà nước, trên đất nước Việt Nam đã hình thành hàng trăm KCN, hầu như tỉnh nào cũng có KCN. Tuy nhiên, do việc hình thành các KCN “quá nóng”, cũng như nhận thức chưa tốt về những hậu quả của việc quản lý môi trường nên dẫn đến tình trạng thiếu kiểm soát và coi nhẹ vấn đề bảo tồn và duy trì môi trường sinh thái trong quá trình phát triển KCN, do đó đã làm ảnh hưởng tới đời sống mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 1991, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập, đây là mô hình KCN đầu tiên trong chiến lược xây dựng phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Từ đó đến nay với nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên cho KCN của Đảng và nhà nước được ban hành, đã tạo ra hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các KCN trên địa bàn cả nước, đồng thời đóng góp lớn nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng trình độ công nghệ sản xuất, tạo sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường,…vv. Như vậy, các KCN thật sự là một trong những động lực mạnh mẽ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không ngoài quy luật của sự phát triển kinh tế, Hải Dương là một tỉnh có vị trí quan trọng thuộc tam giác kinh tế phía đông bắc bộ, có nhiều lợi thế về vị trí, tài nguyên và nguồn nhân lực, cũng đã có những phát triển mạnh về các KCN. Hiện tại Hải Dương có 18 KCN được Chính phủ phê duyệt và bổ sung vào quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 với tổng diện tích là 3.789 ha. Các KCN cũng góp phần tích cực trong quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Bên cạnh những yếu tố tích cực của các KCN đối với nền kinh tế thì quá trình này đặt ra một thách thức vô cùng to lớn mang tính toàn cầu, đó là vấn nạn ô nhiễm môi trường do quá trình sản xuất công nghiệp gây ra. Môi trường là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người của sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và toàn nhân loại. Ô nhiễm môi trường làm thiệt hại to lớn về kinh tế và xã hội. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường càng trở nên cấp bách. Việc các KCN đang phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, thì thực tế đòi hỏi cần phát triển KCN và quản lý như thế nào để vừa có sự tăng trưởng phát triển kinh tế, đồng thời vừa giữ gìn bảo vệ môi trường là một thách thức to lớn, đây không chỉ là vấn đề của hiện tại mà nó còn là yêu cầu của tương lai, vì vậy chúng ta phải quan tâm và chủ động giải quyết để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của một đất nước và toàn thế giới. Chỉ có vượt qua thách thức đó, Việt Nam mới xây dựng được một nền kinh tế phát triển bền vững. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi phải có pháp luật để điều chỉnh nhằm phù hợp với thực tế. Vì vậy, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và hàng loạt hệ thống chính sách, văn bản pháp luật quan trọng về bảo vệ môi trường được ban hành như: - Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 28/6/1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ban hành ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2003. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21Việt Nam), theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 153/2004/QĐ/TTg ngày 17/8/2004. - Cùng các thông tư nghị định và các thông tư hướng dẫn cụ thể trong quá trình triển khai thực hiện kiểm tra giám sát quản lý môi trường trong các khu công nghiệp do chính phủ và các bộ ban hành. 2 Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật đang dần hoàn thiện nhưng quá trình quản lý môi trường vẫn còn nhiều bất cập, hệ thống văn bản chưa theo kịp được tốc độ phát triển của thực tế. Vì vậy nảy sinh rất nhiều vấn đề trong quản lý, khi các nhóm lợi ích này có những mối quan tâm khác nhau đến KCN, gây ra những khó khăn trong công tác quản lý, thậm chí còn dẫn đến xung đột lợi ích, gây lãng phí đất đai mà còn tạo ra hệ lụy cho người dân. Ngoài ra, việc phân quyền quản lý cho các bên liên quan chưa thực sự rõ ràng, tạo nên sự chồng chéo, những lỗ hổng cũng như khó khăn trong công tác quản lý, đặc biệt là công tác bảo vệ môi trường trong các KCN, CCN. Từ thực tiễn nêu trên, để phản ánh đầy đủ thực trạng về quản lý môi trường trong các khu cụm công nghiệp của tỉnh Hải Dương, học viên cao học đã chọn đề tài luận văn thạc sỹ “Quản lý môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương”. 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài Việt Nam hiện nay, vấn đề thực hiện quản lý môi trường trong các KCN đang được Đảng và Nhà nước và đặc biệt là các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận đặc biệt quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý về môi trường được thực hiện. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các cá nhân, tập thể được công bố có liên quan đến đề tài, bao gồm: - Lưu Đức Hải - Nguyễn Ngọc Sinh (2001), Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Đây là giáo trình cơ bản cho việc học tập nghiên cứu cho sinh viên trong môn học quản lý môi trường. - PGS. TS. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), Quản lý Nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội nhân văn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội- Ở đây tác giả đã đưa ra góc nhìn công tác quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường thông qua mối quan hệ biện chứng giữa con người và tài nguyên - môi trường và từ đó đưa ra các giải pháp giúp quản lý nhà nước về môi trường một cách bền vững, nhưng chưa cụ thể trong công tác thực tế. - Đánh giá hiện trạng môi trường KCN Tân Tường huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương và đề xuất giải pháp giảm thiểu ô nhiễm 3 (2013)- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Đức Luyện- Trong luận văn này tác giả mới đưa ra đánh giá thực trạng môi trường trong KCN Tân Trường tuy nhiên vấn đề chỉ mang tính kỹ thuật chưa giải quyết được yếu tố quản lý môi trường. - Thực hiện pháp luật môi trường ở tỉnh Nam Định (2008)Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hường, tác giả đưa ra một số đề xuất về công tác thực hiện pháp luật về môi, chưa đánh giá được các yếu tố tác động đến lợi ích kinh tế của các KCN. - Quản lý chất thải tại các khu, cụm công nghiệp ở thành phố Vinh và các khu vực phụ cận.(2012) –Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Hằng – Trong tài liệu tác giả đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm quản lý các chất thải trong khu, CCN chưa nói rõ vấn đề quản lý của nhà nước đối với công tác quản lý môi trường. - Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương (2012) – Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huyền Trang, Ở đây tác giả đề cập chủ yếu tới vấn đề kinh tế của khu công nghiệp tác động tới sự phát triển kinh tế- xã hội của hải Dương, không đánh giá công tác quản lý môi trường. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực tế quản lý bảo vệ môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong những năm qua và hiện nay, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quản lý vệ môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý môi trường trong các KCN. Đưa ra khái niệm, nội dung, bản chất và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý môi trường trong các KCN. - Phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Từ đó, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của chúng. - Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý môi trường trong các KCN trên phạm vi quốc gia nói chung và địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Quản lý môi trường trong các KCN. Phạm vi của đề tài: - Nghiên cứu công tác quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - Thời gian từ năm 2009 đến nay (năm 2015) 5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh từ dữ liệu kết quả điều tra sơ bộ để đánh giá đúng thực trạng, trên cơ sở đó đề ra giải pháp quản lý phù hợp với điều kiện tỉnh Hải Dương. 5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu 5.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp Nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo, kết quả nghiên cứu, dữ liệu đã được công bố chính thức của các cơ quan, tổ chức. 5.1.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp Đề tài đã sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ các doanh nghiệp về công tác quản lý môi trường của cơ quan quản lý; Công tác phổ biến các văn bản liên quan đến quản lý môi trường; Công tác thanh tra, kiểm tra về việc thực hiện bảo vệ môi trường của các Sở, Ban, Ngành liên quan. Từ đó phân tích, đánh giá và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý môi trường trong các KCN của tỉnh. 5.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu 5.2.1. Phương pháp thống kê 5.2.2. Phương pháp so sánh 5.2.3. Phương pháp chỉ số 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Công tác bảo vệ môi trường đối với KCN được đảm bảo là một trong những điều kiện thuận lợi để các KCN được mở rộng và phát triển bền vững. Luận văn đánh giá thực trạng, trách nhiệm thực hiện quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong những năm qua. Luận văn góp phần khẳng định yêu cầu thực tiễn phải thực hiện tốt công tác quản lý môi trường trong các KCN để đảm bảo sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế - xã hội với sự cân bằng môi trường sinh thái nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. 5 Là tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện quản lý môi trường trong các KCN, đề tài có thể được sử dụng làm cơ sở tham khảo cho các KCN, doanh nghiệp khác trong khu vực. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về quản lý môi trường trong các KCN. Chương 2: Thực trạng quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CÁC KCN 1.1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm và phân loại khu công nghiệp và môi trường 1.1.1.1 Khái niệm và phân loại KCN * Khái niệm: KCN tập trung là một quần thể các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp được xây dựng trên một vùng có điều kiện thuận lợi về các yếu tố tự nhiên, về kết cấu hạ tầng xã hội…vv để thu hút vốn đầu tư và hoạt động theo một cơ cấu hợp lý, các doanh nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp dịch vụ phải có tính chuyên môn hóa nhằm đạt kết quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh. * Phân loại KCN: - Phân loại theo đặc điểm quản lý gồm: KCN, KCX, Khu công nghệ kỹ thuật cao. - Phân loại theo loại hình công nghiệp gồm: KCN khai thác và chế biến dầu khí, KCN thực phẩm, KCN điện tử...Tuy nhiên, các 6 KCN hiện nay phần lớn là KCN đa ngành phù hợp theo cơ cấu phát triển kinh tế và công nghiệp của địa phương, khu vực. - Phân loại theo quy mô có những tiêu chuẩn gồm: KCN có quy mô nhỏ (thường có diện tích đến 100ha), KCN có quy mô trung bình (100 - 300 ha), KCN có quy mô lớn (trên 300 ha). 1.1.1.2 Khái niệm và phân loại môi trường * Khái niệm: * Phân loại: 1.1.2 Quản lý môi trường và sự cần thiết của quản lý môi trường trong các KCN. 1.1.2.1. Quản lý môi trường và vai trò của Quản lý môi trường trong các KCN. * Khái niệm về quản lý môi trường trong các KCN * Vai trò của quản lý môi trường trong các KCN 1.1.2.2 Sự cần thiết phải quản lý môi trường trong các KCN 1.2. NỘI DUNG VÀ NGUYÊN TẮC CỦA QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN 1.2.1 Nội dung: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật theo nguyên tắc do Hiến pháp quy định, Nhà nước phải ban hành pháp luật phù hợp với sự phát triển của đất nước. Để thực hiện quản lý nhà nước được thuận lợi và minh bạch thì luật pháp cần phải đi trước thực tế để cho việc thực hiện luật pháp được tuân thủ hơn đồng thời cũng làm cho yếu tố lách luật không được thực hiện nhằm giảm tiêu cực cho toàn xã hội. Vậy, quản lý môi trường trong các KCN là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường của nhà nước trở thành những hành vi thực tế và hợp pháp, thông qua quản lý tạo ra tính tích cực, chủ động về bảo vệ môi trường ở các KCN, đồng thời phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm về bảo vệ môi trường, đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành và bảo đảm sự phát triển bền vững. 1.2.2. Nguyên tắc: Chúng ta biết rằng quản lý môi trường trong các KCN cũng chỉ là một bộ phận của công tác quản lý nhà nước về môi trường, do vậy quản lý môi trường trong các KCN cũng phải tuân thủ các 7 nguyên tắc của quản lý nhà nước về môi trường, các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường bao gồm: - Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế xã hội đất nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường. - Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư trong việc quản lý môi trường. - Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp thích hợp. - Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc phải xử lý, hồi phục môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường. - Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây ra và các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm. Người sử dụng các thành phần môi trường phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó. Dựa trên các nguyên tắc của quản lý nhà nước, việc xây dựng các nội dung, chính sách quản lý về môi trường trong các các KCN theo đúng định hướng của Đảng và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, thì các nhà quản lý cần phải làm rõ chức năng và trách nhiệm của từng đối tượng, từng quan hệ để trong công tác quản lý môi trường trong quá trình quản lý các KCN như: 1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN 1.3.1 Nhân tố chủ quan 1.3.2 Nhân tố khách quan 1.4 KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN 1.4.2. Bài học rút ra cho Việt Nam cũng như tỉnh Hải Dương về quản lý môi trường trong các KCN KẾT LUẬN: Thông qua việc phân tích, giải thích khái niệm về KCN cũng như nội dung của công tác quản lý môi trường trong các KCN, hiểu rõ được sự cần thiết và vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong công tác quản lý môi trường trong các KCN, qua đó đã đưa ra được các nội dung cơ bản của công tác quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương, 8 luận văn tiếp tục đưa ra thực trạng và phân tích công tác quản lý môi trường hiện nay để có giải pháp hoàn thiện. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIÊP TỈNH HẢI DƯƠNG 2.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương 2.1.1.1. Đặc điểm kinh tế Từ năm 2011 đến 2015, hầu hết các ngành kinh tế của Hải Dương đều có sự phát triển vượt bậc. Khu vực công nghiệp, xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên 10%/năm. Trong đó, công nghiệp tăng gần 2 lần (126.802 tỷ đồng/65.784 tỷ đồng). Riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ chỗ không có đã tăng nhanh và tới năm 2015, chiếm hơn 50,0% giá trị sản lượng công nghiệp của tỉnh (73.088 tỷ đồng/126.802 tỷ đồng), thu hút trên 100.000 LĐ có kỹ thuật vào làm việc trong tổng số gần 200.000 LĐ khu vực công nghiệp. Kinh tế (GDP) giai đoạn 2011-2015, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2011 đạt 23,7 triệu; năm 2012 đạt 29,854 triệu và năm 2015 đạt 38,876 triệu. Mức tăng trưởng bình quân 13,38 %/năm, cao hơn bình quân thời kỳ 2005 - 2010 là 9,2%/năm và bình quân chung cả nước 7,3 - 7,4 %/năm. 2.1.1.2. Đặc điểm xã hội - Về dân số: Hải Dương là một trong những địa phương có tốc độ tăng dân số nhanh. Từ năm 2011-2015, tỷ lệ tăng là 2,1%/năm. Đến hết năm 2015 dân số tỉnh Hải Dương là 1,863 triệu người, mật độ dân số 1.065 người/km2. Trong đó dân số thành thị là 407.302 người, chiếm 23,1% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ này có xu hướng tăng nhanh. - Về nguồn nhân lực: Hải Dương có nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ văn hoá, có khả năng tiếp cận với tiến bộ khoa học - kỹ thuật và nghiêm túc trong lao động. Năm 2011, Hải Dương có 1.041.016 người trong độ tuổi lao động, chiếm 60,65 % dân số; Năm 2015, Hải Dương có 1.074.316 người trong độ tuổi lao động, chiếm 9 60,92 % dân số. Số LĐ đang làm việc trong các ngành kinh tế là 889.000 người. 2.1.2. Quá trình hình thành các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương Trong thời kỳ bao cấp tỉnh Hải Dương có thể nói cũng là một trong những trung tâm công nghiệp của toàn quốc, có nhiều nhà máy sản xuất lớn hoạt động trên điạ bàn toàn tỉnh như: Nhà máy Sứ, nhà máy Bơm, nhà máy Đá mài, nhà máy nhiệt điện Phả Lại, xi măng Hoàng Thạch…vv có thể nói đây là các doanh nghiệp tiêu biểu cho thời kỳ bao cấp, ngoài ra còn nhiều các công ty khai thác nguyên vật liệu như: xí nghiệp khai thác mỏ cao lanh, đất chịu lửa Trúc Thôn, mỏ đá... Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã không giữ vững được vị thế của mình. Để thực hiện chủ trương trên, tỉnh Hải Dương đã xây dựng, kế thừa và phát huy những kết quả của quy hoạch cũ, đề ra dự án “Quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020”. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã chỉ rõ: Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch trình Chính phủ thẩm định các KCN: Phả lại, Cộng Hòa-Chí Linh, Nhị Chiểu-Kinh môn và từng bước xây dựng để đến năm 2010 có 10 khu công nghiệp. Có cơ chế để huy động vốn đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng các KCN đã quy hoạch. Không để quy hoạch treo và hạn chế việc phát triển các KCN bám dọc theo đường giao thông chính. Đối với các KCN nằm sát Thành phố Hải Dương chỉ thu hút các dự án có công nghệ cao, ít gây ô nhiễm môi trường. Quá trình xây dựng và phát triển các KCN ở tỉnh Hải Dương từ năm 1997 đến nay đã thể hiện mạnh mẽ qua từng thời kỳ. Hiện nay, tỉnh Hải Dương đã được Chính phủ cho phép thành lập đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là 17 KCN tập trung, với diện tích quy hoạch 3.067 ha, trong đó có 10 KCN đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN với diện tích đất quy hoạch 2.087 ha. Ngày 22/1/2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chấp thuận bổ sung 10 KCN của Hải Dương vào Danh mục các KCN dự kiến mở rộng và ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Cụ thể là bổ sung 3 KCN: Tân Trường, Phúc 10 Điền và Việt Hoà -Ken mark vào danh mục các khu công nghiệp dự kiến mở rộng, 7 KCN được bổ sung vào Danh mục các KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới gồm: KCN Quốc Tuấn -An Bình, KCN Kim Thành, KCN Lương Điền-Ngọc Liên, KCN Bình Giang, KCN Thanh Hà, KCN Hoàng Diệu và KCN Hưng Đạo. 2.1.3. Phân cấp quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Thực hiện chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước về bảo vệ môi trường, cùng với chức năng và quyền hạn của UBND tỉnh Hải Dương và sự chỉ đạo hướng dẫn của Chính phủ, UBND tỉnh Hải Dương đã phân công nhiệm vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về môi trường như sau: - Sở Tài nguyên và Môi trường: ngày 01/7/2003 Sở Tài nguyên và Môi trường được thành lập theo quyết định số 1593/2003/QĐ-UB ngày 02/6/2003 của UBND tỉnh. Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, có chức năng tham mưu giúp ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường, bao gồm: đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, địa chất, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ; thực hiện các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở. - Ban Quản lý các KCN tỉnh: Được thành lập ngày 13/5/2003 theo Quyết định số 96/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trực thuộc UBND tỉnh, thực hiện chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh. Quyết định số 1848/2003/QĐ-UBND ngày 20/6/2003 của UBND tỉnh về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban quản lý các KCN tỉnh Hải Dương. - Phòng Cảnh sát môi trường - Công an tỉnh: Thực hiện chỉ đạo của của Bộ công an, ngày 4/3/2008 Công an tỉnh Hải Dương ra QĐ/199/PX13 về việc thành lập Cảnh sát môi trường và để điều chỉnh những quy định mới của pháp luật về bảo vệ môi trường, cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. 11 2.2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 2.2.1. Thực trạng môi trường tại các KCN * Môi trường không khí, tiếng ồn * Môi trường đất Các KCN đã đi vào hoạt động bao gồm: KCN Nam Sách, KCN Đại An, KCN Tân Trường, KCN Phúc Điền, KCN Phú Thái đã hoàn thiện hệ thống thu gom nước thải và nước mưa chảy tràn. Các nhà máy hoạt động trong các KCN này đều cơ bản tuân thủ nghiêm việc phân tách nước thải, nước mặt; đã thu gom triệt để nước thải phát sinh, đấu nối vào hệ thống thu gom chung của KCN và được xử lý đảm bảo Quy chuẩn hiện hành trước khi xả vào lưu vực tiếp nhận. Hầu hết các doanh nghiệp đầu tư vào KCN đều tiến hành xây dựng nhà xưởng đảm bảo các yếu tố kỹ thuật như nền đổ bê tông, kết cấu khung thép, tường xây gạch, mái lợp tôn...Các hoạt động sản xuất chỉ diễn ra trong các nhà xưởng, chất thải trong các doanh nghiệp đều được thu gom phân loại và có kho chứa cơ bản đảm bảo yêu cầu vì vậy quá trình sản xuất hầu như không ảnh hưởng đến môi trường đất. * Môi trường nước Xử lý nước thải cục bộ tại các nhà máy trong KCN Các dự án đầu tư vào các KCN tỉnh Hải Dương phần lớn thuộc các ngành nghề ít phát sinh nước thải sản xuất, chủ yếu là nước thải sinh hoạt. Hầu hết các cơ sở đã thực hiện việc thu gom triệt để lượng nước thải phát sinh, xử lý sơ bộ trước khi xả vào hệ thống tiếp nhận của KCN. Đến nay đã có trên 40 dự án thứ cấp trong KCN đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải sơ bộ với dây chuyền công nghệ hiện đại, chất lượng nước sau xử lý hầu hết đảm bảo mức A, B của QCVN 40:2011/BTNMT. Xử lý nước thải tập trung của các KCN Trong 10 KCN đã thành lập, có 08 KCN cơ bản hoàn thành đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút nhiều nhà máy đi vào hoạt động, bao gồm: KCN Nam Sách, KCN Đại An (cả phần mở rộng), KCN Tân Trường, KCN Phúc Điền, KCN Lai Vu và KCN Phú Thái (phân khu phía Tây), KCN Lai Cách (phần đất được bàn giao, hoàn thiện hạ tầng), KCN Việt Hòa - Kenmark (các nhà máy đang tạm 12 dừng hoạt động). Trong đó 06 KCN có trạm xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động, xử lý nước thải đầu ra đạt tiêu chuẩn theo quy định, 01 KCN đang tiến hành xây dựng và 01 KCN chuẩn bị xây dựng trạm xử lý nước thải. Đối với giấy phép xả nước thải vào nguồn tiếp nhận, hiện tại đã có 5 KCN (Tân Trường, Đại An, Nam Sách, Việt Hòa - Kenmark, Phú Thái) được cơ quan thẩm quyền cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn tiếp nhận; KCN Phúc Điền đang hoàn thiện hồ sơ giấy phép trong tháng 01/2016. Hiện nay, cơ bản nước thải phát sinh của các nhà máy trong các KCN đã được đấu nối đúng vào hệ thống thu gom của KCN. Chất lượng nước thải của các KCN đều đảm bảo đúng theo quyết định phê duyệt ĐTM. Tổng lượng nước thải phát sinh các KCN năm 2014, 2015 như sau: * Việc thực hiện quan trắc môi trường định kỳ tại các doanh nghiệp Các dự án đi vào hoạt động đã cơ bản chấp hành nghiêm việc thực hiện giám sát môi trường định kỳ theo quy định như tần suất quan trắc, thông số quan trắc, vị trí quan trắc. Hầu hết các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc với tần suất quan trắc 2 lần/năm hoặc 4 lần/năm theo quy định, tuy vậy vẫn còn một số dự án chưa thực hiện tần suất quan trắc theo quy định như chỉ quan trắc 2/4 lần theo quy định hoặc quan trắc chưa đủ thông số và vị trí theo nội dung trong hồ sơ môi trường của dự án. * Chất thải rắn, chất thải nguy hại Đối với chất thải rắn và chất thải nguy hại (CTNH), các cơ sở đã cơ bản thực hiện nghiêm túc việc thu gom, xử lý rác thải và lập sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại. Còn một số doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư từ Trung Quốc, Đài Loan… thực hiện chưa tốt việc phân loại và chuyển giao chất thải nguy hại. Tổng lượng chất thải rắn phát sinh năm 2015 khoảng 24.576 tấn. Tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh năm 2015 khoảng 11.879 tấn (phần lớn CTNH trên có thành phần là sắt, thép bị nhiễm dầu, sau khi súc rửa sẽ được tái chế). 13 2.2.2. Thực trạng quản lý môi trường trong các KCN. 2.2.2.1 Thực trạng công tác quy hoạch phát triển KCN 2.2.2.2. Về hướng dẫn thực hiện quy định quản lý môi trường và ban hành các văn bản quản lý cấp tỉnh 2.2.2.3. Về triển khai các văn bản quy phạm liên quan đến quản lý môi trường và công tác thanh tra, kiểm tra giám sát 2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 2.3.1. Kết quả đạt được Trong những năm qua, công tác bảo vệ môi trường trong các KCN đã bước đầu đạt được những thành quả sau: - Nhận thức về môi trường của các doanh nghiệp được nâng cao, các doanh nghiệp đã quan tâm nhiều hơn đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường và các tác động về mặt xã hội. Bước đầu các KCN đã hạn chế được một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, chú trọng hơn đến việc khắc phục suy thoái và cải thiện môi trường. Điều kiện vệ sinh môi trường ở các KCN đang từng bước được cải thiện, người dân sống quanh KCN có điều kiện môi trường ngày càng tốt hơn. - Nhiều KCN được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại với hệ thống cấp điện, cấp nước, thoát nước, môi trường cây xanh,… theo tiêu chuẩn của một KCN sạch, hướng tới sự cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Tổng lượng nước thải của các KCN được thu gom và xử lý đạt 99%. 2.3.2. Tồn tại Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn rất nhiều những khó khăn và tồn tại cần các cơ quan quản lý giải quyết như: - Trong công tác tổ chức và triển khai thực hiện bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp còn thụ động với các nội dung mới. Việc thực hiện luật bảo vệ môi trường, các chủ thể thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường nhận thức tương đối đầy đủ về bảo vệ môi trường nhưng chưa thực sự có “tâm huyết” trong thực hiện luật BVMT. - Về công tác đánh giá tác động môi trường, đây là một trong những biện pháp quan trọng trong quản lý môi trường. Tuy nhiên một số doanh nghiệp trong các khu công nghiệp chưa thực hiện đủ các nội dung yêu cầu nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường, tình hình này là do các chủ dự án đầu tư chưa nhận thức đầy 14 đủ luật bảo vệ môi trường cũng như chưa có sự đôn đốc mạnh mẽ các cơ quan quản lý nhà nước. - Việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải: Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN đã tích cực đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý nước thải tập trung để có thể xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường tuy nhiên vì khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình xử lý nước thải cũng như kinh phí đầu tư lớn nên việc xây dựng còn chưa kịp thời, đến năm 2013 đã có 8 KCN triển khai và đi vào hoạt động sản xuất nhưng chỉ có 6 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường. - Công tác thanh tra và xử lý vi phạm về môi trường tuy được thực hiện đầy đủ, đúng định kỳ, tuy nhiên các đơn vị chưa thực sự phát huy được vai trò của mình. Số vụ vi phạm mà các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện và xử lý còn ít. 2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp còn có những hạn chế đã nêu chủ yếu do những nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, ý thức pháp luật chưa cao, thiếu kiến thức về lĩnh vực môi trường, chưa xác định được việc bảo vệ môi trường là quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhận thức của các doanh nghiệp đối với vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường nhìn chung là tốt, nhưng vẫn vì lợi trước mắt quên đi lâu dài. Do đó giữa nhận thức và hành động chấp hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên chưa có sự đồng bộ. Thứ hai, do thiếu vốn nên việc đầu tư cho các công trình xử lý ô nhiễm môi trường chưa được quan tâm. Nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu có ý thức trong việc bảo vệ môi trường muốn đầu tư xây dựng công trình xử lý chất nhưng chưa làm được hoặc không thể làm được vì thiếu vốn. Bên cạnh đó việc giám sát chưa chặt chẽ dẫn đến KCN phát triển thiếu đồng bộ, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải. Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật môi trường còn nhiều hạn chế, nên doanh nghiệp còn thiếu nhiều thông tin về môi trường .Việc tuyên truyền chưa được phổ biến thường xuyên đến doanh nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Thứ tư, theo quy định của pháp luật thì nội dung của quyết định phê duyệt đánh giá tác động môi trường phải được công bố tại 15 nơi thực hiện dự án, tuy nhiên các doanh nghiệp thực hiện chưa đầy đủ nên việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào việc thực hiện các dự án KCN chưa được coi trọng. Thứ năm, các cấp uỷ đảng, chính quyền một số địa phương chưa thật sự quan tâm đầy đủ về vấn đề môi trường và việc thực hiện pháp luật môi trường ở các KCN trên địa bàn mình quản lý. Thứ sáu, các chủ trương, chính sách, quy định chưa đủ mạnh để bảo đảm thực hiện quản lý môi trường ở các khu công nghiệp có hiệu quả. Hệ thống các quy định trong việc bảo vệ môi trường còn thiếu nên gây khó khăn cho việc xử lý nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật như: Hành vi xả nước thải, khói thải vượt tiêu chuẩn cho phép trực tiếp ra ngoài môi trường... chưa xây dựng được cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tốt pháp luật môi bảo vệ môi trường, chưa nghiên cứu và áp dụng các công nghệ tiên tiến nhằm mục đích giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của đơn vị. Chưa có quy định cụ thể về nghĩa vụ của những tổ chức, cá nhân phải khôi phục lại hiện trạng môi trường khi đơn vị mình gây nên do vậy vẫn xảy ra tình trạng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định xử phạt với đơn vị gây ô nhiễm môi trường nhưng sau khi xử phạt môi trường vẫn tiếp tục bị ô nhiễm khi mà mức phạt thấp hơn so với lợi nhuận do vi phạm mang lại. Thứ bảy, các dự án bảo vệ môi trường đã được UBND tỉnh phê duyệt nhưng việc triển khai còn chậm. Việc đầu tư kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn hẹp nên khó khăn cho việc triển khai các chủ trương chính sách về môi trường. Thứ tám, năng lực của nhiều cán bộ làm công tác quản lý môi trường còn thiếu kiến thức chuyên môn, vì thế dẫn đến tình trạng xử lý chưa nghiêm minh, chưa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước đôi khi chưa có sự phối hợp đồng bộ với nhau trong công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các doanh nghiệp. KẾT LUẬN Với thực trạng môi trường của các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã được nêu trên, luận văn đã đi sâu phân tích rõ sự ảnh hưởng của công tác quản lý quy hoạch phát triển các KCN, công tác thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự tuân 16 thủ trong bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp KCN, qua đó đã đánh giá được thực trạng môi trường hiện nay để phát huy hơn nữa những kết quả đã đạt được cũng như giảm thiểu các nội dung còn tồn tại, đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác quản lý môi trường trong các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương được trình bày tại chương 3 của luận văn. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 3.1. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG NHỮNG NĂM TIẾP THEO 3.1.1. Mục tiêu Rà soát, bổ sung hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các huyện, thị xã, thành phố và quy hoạch các ngành, sản phẩm chủ yếu đến năm 2020 làm cơ sở xác định hướng ưu tiên chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn đến năm 2020 và các năm tiếp theo. Từng bước đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao gắn với đảm bảo môi trường, chuyển từ tăng trưởng nhờ vốn và lao động giản đơn sang tăng trưởng theo hướng dựa chủ yếu vào nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên, khoáng sản trên địa bàn tỉnh. 3.1.2. Phương hướng hoàn thiện công tác quản lý môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật và công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và phân công, phân cấp cụ thể, hợp lý giữa các ngành, các cấp trong việc tham gia và phối hợp bảo vệ môi trường. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường trong tất cả các khâu: chấp thuận đầu tư, lựa chọn công nghệ, thẩm định và tổ chức cam kết bảo vệ môi trường, xử lý kiên 17 quyết các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Khuyến khích các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp lựa chọn và ứng dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường. Đẩy mạnh xã hội hoá, mở rộng mô hình tư nhân hoá, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Khắc phục suy thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường. Khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân bằng sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC KCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG Trên cơ sở những nguyên nhân hạn chế và tình hình thực tế về công tác quản lý bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Chính quyền tỉnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: 3.2.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và việc bổ sung, hoàn thiện bộ máy quản lý của các cơ quan nhà nước. Bằng việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc đề ra chủ trương, chính sách thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, chính quyền tỉnh đã đề ra chủ trương gồm: - Tăng cường xây dựng các chính sách hợp lý, thiết thực nhằm quản lý môi trường trong các khu công nghiệp. - Ban hành các chủ trương, chính sách nhanh chóng, kịp thời trong việc tăng cường cơ chế thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhằm tạo đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” với việc bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp. Hiện nay Ban quản lý khu các công nghiệp tỉnh Hải Dương gồm 6 phòng thực thi công tác chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó phòng Quản lý quy hoạch, xây dựng và môi trường chỉ có 01 cán bộ chuyên trách về môi trường. Nếu thực hiện theo thông tư bổ sung hai thông tư số 08/2009/TT-BTNMT và 48/2011 TT-BTNMT thì Ban quản lý khu công nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp về bảo vệ môi 18 trường khu công nghiệp. Do đó cần phải bổ sung thêm biên chế cán bộ chuyên trách về môi trường cho Ban quản lý các khu công nghiệp. Như vậy, việc bổ sung nguồn nhân lực cho công tác quản lý môi trường là rất cấp bách. 3.2.2. Về tăng cường công tác tuyên truyền cùng việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm đối với các doanh nghiệp Công tác phổ biến hệ thống văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp là nhiệm vụ chung của tỉnh đối với các doanh nghiệp trên địa bàn, đây là một trong những nội dung của công tác nâng cao nhận thức về môi trường đối với xã hội, đòi hỏi các Sở, Ban,ngành chức năng, các cấp phải quan tâm. Tiếp tục đa dạng hoá hình thức phổ biến hệ thống văn bản pháp quy, bảo đảm tính linh hoạt, đồng bộ, toàn diện phù hợp với từng đối tượng nhằm đạt được mục đích đề ra. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp được tiến hành với các nội dung như: thực hiện các nội dung đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường sau khi được phê duyệt và triển khai dự án đầu tư. Tăng cường hoạt động giám sát của quần chúng nhân dân đối với việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Chính người dân là người giám sát thường xuyên chặt chẽ các doanh nghiệp. 3.2.3.Về hoàn thiện quy hoạch các khu công nghiệp Với mục tiêu đến năm 2020 Hải Dương sẽ nâng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đã được thành lập đạt trên 90%, các khu công nghiệp toàn tỉnh trên 65%, tiếp tục yêu cầu chủ đầu tư hoàn thiện đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp hiện có theo đúng quy hoạch, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải trong giai đoạn tới, Ban quản lý cần tích cực triển khai một số giải pháp sau: Một là, tiếp tục rà soát, đánh giá toàn diện tiềm năng phát triển các khu công nghiệp, tình hình thực hiện quy hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh để đề xuất điều chỉnh mở rộng hoặc thu hẹp các khu công nghiệp cho phù hợp với tốc độ và hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhằm đáp ứng nhu 19 cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong thời gian tới và giảm thiểu lãng phí tài nguyên đất đồng thời cũng là biện pháp bảo vệ tốt môi trường sinh thái. Hai là, hoàn thiện các quy hoạch khu công nghiệp theo hướng gắn quy hoạch phát triển các khu công nghiệp với phát triển đô thị, để vừa đảm bảo cho việc phát triển các khu công nghiệp được hài hòa trong sự phát triển chung của vùng, khu vực, vừa đảm bảo môi trường sống cho các cộng đồng dân cư lân cận, tạo động lực tốt cho sự phát triển bền vững chung của địa bàn. Ba là, điều chỉnh các ngành nghề thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp phù hợp với điều kiện về cung cấp nguyên liệu, lao động đối với từng khu công nghiệp, xây dựng các khu công nghiệp chuyên sản xuất các mặt hàng Bốn là, quy hoạch khu công nghiệp phụ trợ để thu hút đầu tư các doanh nghiệp sản xuất, các ngành công nghiệp phụ trợ, tạo ra sự liên kết vùng nguyên liệu phục vụ cho các khu công nghiệp, để tiết kiệm tài nguyên, chi phí và bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động sản suất của các doanh nghiệp. Năm là, rà soát, điều chỉnh nhằm đồng bộ hóa và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng đảm bảo tính kết nối giữa hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp với hạ tầng kinh tế - xã hội, đô thị, khu dân cư. Sáu là, điều chỉnh quy trình quản lý, thực hiện quy hoạch phát triển khu công nghiệp có phân kỳ hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, sử dụng tiết kiệm các tài nguyên đất, nước và bảo vệ môi trường. 3.2.4. Tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế Chính quyền tỉnh Hải Dương xác định rõ mục tiêu phát triển khu công nghiệp, cơ cấu lại ngành nghề là bước đi để phát triển kinh tế của tỉnh, nên đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn về cho doanh nghiệp để bảo vệ môi trường thông qua Quỹ đầu tư của tỉnh nhưng vẫn chưa được hiệu quả như mong muốn tỉnh Hải Dương cần phải bổ sung nhiều vốn hơn nữa để có thể đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường, có thể nói thông qua cơ chế hỗ trợ vốn cùng là một biện pháp để nâng cao ý thức, yêu cầu chủ đầu tư thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường của mình đối với xã hội trong quá trình vay vốn tín dụng có mục đích. Các chính 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan